Tờ báo xứ ta là cuốn sử ký
đương thời (Đông pháp thời báo, số ngày 29/12/1924)
Mâu thuẫn căn bản của hai tờ L’Écho
Annamite và La Tribune Indigène là đã tự nhận đại diện cho quyền lợi
của toàn bộ cộng đồng dân Việt trong khi thế giới quan xã hội và chính trị vẫn
chỉ gói gọn trong vài trăm độc giả biết tiếng Pháp. Hai tờ này thiếu một nền
tảng xã hội rộng lớn hơn do những hạn chế pháp lý áp đặt bởi chế độ thực dân,
những ràng buộc không cho báo chí vươn tới khối độc giả tiếng Việt đông đảo
hơn. Nhóm Tribune đã cố gắng phá bỏ sự cô lập tương đối ấy bằng cách ra một
phiên bản chữ quốc ngữ, nhưng nỗ lực đó bị kết liễu khi chính quyền ngừng hỗ
trợ tài chính. Tờ Nhựt Tân Báo của Long tung ra hai năm sau cũng thất
bại, lần này là do thiếu chiến lược nội dung. Bất kể thành quả chính trị mà hai
tờ báo tiếng Pháp ấy thể hiện, điều vẫn bị đe dọa chính là khả năng vận động
của các nhà chính trị - ký giả người Việt (ep.158) đối với phần lớn dân chúng
bản xứ. Khả năng này họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng báo chí quốc ngữ.
Vấn đề là báo chí tiếng mẹ đẻ sẽ trở
thành kênh truyền tải quan trọng tới mức độ nào cho ngưòi bản xứ đấu tranh
chính trị công khai? Khi báo Pháp ngữ của người Việt đã phát triển trong những
năm sau Thế chiến I, báo quốc ngữ cùng lúc đó cũng tăng vọt sức ảnh hưởng trong
môi trường công khai ở Sài Gòn. Mặc dù chưa thể cạnh tranh bằng năng lực tạo ra
sự kiện chính trị, chức năng giáo huấn phi chính trị (cho đến lúc đó vẫn được
chính quyền phân công cho báo quốc ngữ và các ký giả đầu tiên) đã không còn bền
vững nữa. Dẫu bị kiểm duyệt chặt chẽ và bị khống chế không cho người Việt nắm
quyền sở hữu báo chí, một số tờ báo quốc ngữ ra đời trong nhiệm kỳ của Sarraut
đã lấp đầy khoảng trống hạn hẹp dành cho chúng một cách thành công, lúc đầu là
bằng xu hướng thiện chí dành cho chính sách của Sarraut.
Chính quyền không xác định rõ ràng
cái gì là “hoạt động chính trị”. Báo chí vẫn có chỗ để thao diễn dưói sự săm
soi của ban kiểm duyệt - một cơ cấu tương đối tự chủ đứng đầu là giám đốc chi
nhánh Nam Kỳ của Sở Liêm phóng là cơ quan vốn có nhiều ngưòi Việt. Trước khi
xuất bản, báo chí phải trình nộp mọi số báo cho ban kiểm duyệt để xin phép.
Quan hệ tốt ở các cấp cao của chính quyền không phải lúc nào cũng ngăn ngừa
được chuyện đục bỏ nhiều bài vở, chuyên mục và để lại những khoảng giấy trắng.
Một trở ngại quan trọng khác là các “thuộc dân bản xứ” không được phép làm chủ
một tờ báo nào. Sau một thời gian ban đầu nới lỏng các hạn chế này dưới nhiệm
kỳ Sarraut, rất ít báo quốc ngữ được cấp phép hoạt động[1] .94
Bất chấp hạn chế, quang cảnh báo chí
quốc ngữ bắt đầu biến đổi. Kết quả từ các chính sách của Sarraut, tiền lệ của
báo chí Pháp ngữ, và sự khẳng định mới xuất hiện của các nhà kinh (ep.159) doanh
xuất bản người Việt (và Pháp) ở thành phố miền nam này tất cả đã khiến báo chí
tiếng Việt ngày càng chính trị hóa. Xem xét bốn tờ báo quốc ngữ quan trọng - Nông
cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, Đông Pháp Thời Báo, và Nam Kỳ Kinh Tế Báo
- ta sẽ thấy nhiều ký giả có tư duy độc lập và sự hình thành của các mạng lưới
liên kết cá nhân khi số dân chúng có học tăng vọt ở Sài Gòn. Đến năm 1922, giai
đoạn chứng kiến một thế hệ nhà báo mới trổ tài, ít nhất đã có tờ Nam Kỳ Kinh
Tế Báo có thể bứt phá tiến trình chính trị hóa báo chí quốc ngữ, và nhờ đó
mở rộng môi trường công khai cùng khả năng sinh tồn của Sài Gòn.
Trong tất
cả báo chí quốc ngữ phát hành ở Sài Gòn thời kỳ này, Nông Cổ Mín Đàm là tờ báo lâu năm nhất. Do Francois Canavaggio, một người Pháp gốc
đảo Corse có khuynh hướng tự do thành lập năm 1901[2],95
tờ này lúc đầu có chủ bút là nhà tư bản danh tiếng Gilbert Trần Chánh Chiếu.
Từ 1906 đến 1907, trong thời kỳ hoạt động chính trị của ông, tờ báo đã đi theo
một đường lối chống thực dân táo bạo[3].96
Điều lạ lùng là chính quyền vẫn lơ là chuyện kiểm soát mãi cho tới khi xử án
Chiếu, sau đó nhà chức trách mới biết là tờ Nông Cổ Mín Đàm không
đăng ký đúng thủ tục và nội dung không
được sàng lọc có hệ thống[4].97
Chính trong giai đoạn Chiếu làm chủ bút mà hai trong số ký giả nổi tiếng nhất những năm đầu thập niên 1920 - Nguyễn Chánh Sắt và
Lương Khắc Ninh - đã ra mắt công chúng lần đầu tiên. Sau khi Chiếu rút lui, họ
tiếp tục điều hành tờ báo như một nguồn thông tin địa phương phi chính trị một
cách thận trọng (ep.160).
Năm 1913,
một sự kiện trong nội bộ tờ Nông Cổ Mín Đàm đã dẫn tới
việc tạo ra hai nhóm ký giả rõ rệt trong làng báo quốc ngữ. Canavaggio, chủ
nhân hợp pháp của tờ báo, trở về Pháp và đem tờ báo cho một người Pháp khác
thuê lại. Đó là Lucien Héloury, chủ nhiệm tờ báo tiếng Pháp L’Opinion.
Héloury lập tức sa thải ban biên tập cũ và đưa nhà phiên dịch Nguyễn Kim Đính
vào để thiết lập ban biên tập mới. Đính bổ nhiệm nhà văn tiểu thuyết bình dân
Lê Hoằng Mưu làm chủ bút. Từng là một điện tín viên bị sa thải khỏi ngành bưu
chính vì tội gian lận, Mưu ở tuổi 35 là người viết tiểu thuyết bình dân bằng
chữ quốc ngữ có tiếng, nhất là sau thành công của cuốn Hà Hương Phong Nguyệt
năm 1915 - cuốn này được cho là tiểu thuyết khiêu dâm đầu tiên viết bằng tiếng
Việt. Với Mưu, tờ Nông cổ Mín Đàm
nhanh chóng tăng lượng phát hành tới mức khiến Nguyễn Chánh Sắt - một
ngưòi từng được Canavaggio bảo
trợ - tức giận[5].98 Khi
quay lại Sài Gòn năm 1916, Canavaggio lấy lại quyền làm chủ tờ báo của Héloury
và phục hồi chức chủ bút cho Sắt. Tranh cãi giữa Canavaggio và Héloury sau đó
tạo ra hai nhóm ký giả rõ rệt với phong cách làm báo khác nhau. Nguyễn Kim Đính
và Lê Hoằng Mưu thiên về giải trí nhẹ nhàng, còn kiểu giáo huấn của Nguyễn
Chánh Sắt nhấn mạnh vào công cuộc cách tân. Xung đột này đánh dấu sự khỏi đầu
vai trò ảnh hưởng của Nguyễn Kim Đính trong nghề báo.
Trong sáu năm dưới quyền chủ bút của
sắt (1916-1922), Nông Cổ Mín Đàm tự định vị là tờ báo nghiêm túc, đăng nhiều bài lớn về các vấn đề kinh tế và nông nghiệp được thiết
kế để thu hút giới địa chủ có học. Báo
này có chủ trương nội dung rộng hơn, với nhiều bài vở về đề tài văn hóa -
xã hội và nhu cầu hiện đại hóa xã hội Việt Nam. Thời sự trong nước và bình
luận vấn đề quốc tế cũng được đăng tải thường xuyên. Các nội dung đa dạng này
phản ánh những vấn đề quan tâm của vị chủ bút đa năng này (ep.161). Vốn là một
dịch giả am tường văn học Trung Hoa và làm báo từ năm 1901, Sắt là một cây bút
viết bằng quốc ngữ sung mãn[6].99
Ông kết hợp các hoạt động của một ký giả, một nhà phiên dịch, một kịch tác gia,
và một dịch giả tiểu thuyết Trung Hoa. Suốt đời mình, ông vẫn là một trong
những nhân vật văn học hàng đầu của miền Nam[7].100
Trong cuộc tẩy chay bài Hoa ở Chợ
Lớn năm 1919, Sắt ký tên trong một bài đăng ngày 27/7, kêu gọi đồng bào noi gương
cuộc tẩy chay hàng Nhật của Hoa kiều, về sau, tuy tờ La Tribune Indigène
đã lãnh đạo cuộc tẩy chay bài Hoa, tờ Nông
Cổ Mín Đàm vẫn ở trong tuyến đầu. Một loạt bài trên báo này kêu gọi dân
chúng Việt Nam “hành động”, Sắt quan tâm đến mục tiêu cách tân kinh tế, điều mà
ông đã học hỏi được từ quan hệ mật thiết với Gilbert Chiếu. Tháng 9/1919, Sắt
đã ký vào một thỉnh nguyện đơn - cùng với chủ tờ báo là Canavaggio - lên án
việc chính quyền kiểm duyệt báo chí quốc ngữ trong thời gian diễn ra cuộc tẩy
chay bài Hoa[8].101
Sắt chỉ sẵn sàng đi xa tới mức đó thôi. Có thể vì chưa quên số phận của Gilbert
Chiếu hoặc là tôn trọng nhà chức trách, văn sĩ kiêm ký giả miền Nam này không
muốn lộ diện[9].102
Tháng 4/1922, Canavaggio qua đời.
Quyền sở hữu tờ Nông Cổ Mín Đàm
được chuyển giao cho bà vợ góa người Việt của ông, biến tờ báo thành sở hữu
không chính thức của người bản xứ[10].103
Sắt bị thay thế bằng Lê Thành Tường, người này lại giao việc điều hành nội dung
bài vở tờ báo cho Cao Hải Để - một giáo viên trẻ thỉnh thoảng có viết cộng tác
và có quan hệ tốt với chủ bút trước. Tường có giấy phép chính thức cho xuất bản
Nông Cổ Mín Đàm ba kỳ mỗi tuần, biến tờ này thành một tờ báo ra đều đặn
hơn và như vậy có thể tác động nhiều hơn đến bối cảnh chính trị[11].104
(ep.162).
Chủ trương nội dung mới của tờ này
tỏ ra cụ thể hơn là dưới thời Nguyễn
Chánh sắt làm chủ bút, tuy chất lượng văn học trong bài vở có sút giảm.
Tờ báo nhấn mạnh phát triển trí thức qua giáo dục và năng lực tham gia thương
mại của “đồng bào”, cũng như bổn phận xã hội của giới ký giả và vai trò của
từng cá nhân người Việt trong cuộc khuếch trương cách tân. Vấn đề cải cách văn
hóa thông qua thế hệ trẻ cũng là một trong những chủ đề ưa chuộng của ban biên
tập mới[12].105
Trong cuộc bầu cử Hội đồng Quản hạt tháng 10 năm 1922, tờ Nông Cổ Mín Đàm
đứng chung hàng ngũ phe đối lập với chính quyền thực dân, công khai ủng hộ ứng
cử viên Nguyễn Phan Long[13].106
Đầu năm 1923, khi tờ báo gặp khó
khăn tài chính, Để bị thay thế bằng Lâm Hiệp Châu mới 17 tuổi, người này năm
trước đã bị đuổi khỏi Trường Sư phạm Gia Định sau khi lãnh đạo học sinh ở đó
bãi khóa và đã chỉ mấy tháng trước khi được bổ nhiệm làm chủ bút mới cộng tác
những bài báo đầu tiên cho tờ này[14].107
Cho tới khi bị chính quyền đóng cửa vào tháng 10 năm 1924 (hậu quả của việc
tham dự vào biến cố chống độc quyền Cảng Sài Gòn), Nông Cổ Mín Đàm ngày
càng tích cực tỏ ra đối lập với chính sách của chính quyền. Với Sở Liêm phóng,
Châu đã nổi tiếng là phần tử chống đối. Trong phúc trình gửi Thống đốc, giám
đốc Sở Liêm phóng Nam Kỳ là Paul Arnoux đã viết như sau:
“Kể
từ cái chết của chủ nhân Canavaggio, tờ Nông
Cổ Mín Đàm đã chuyển sang tay những người thừa kế Việt Nam của ông ta,
tất cả đều không có trình độ để điều hành tờ báo cho đàng hoàng. Họ đã cho Lê
Thành Tường thuê lại, tình trạng kinh tế sa sút của y khiến y thành con mồi
ngon cho những cá nhân thiếu thiện chí tự xưng là ký giả. Dưới danh nghĩa của
bà Canavaggio, chính họ đang làm hết sức mình để biến tờ báo này thành một tờ
báo chính trị. Họ đã bất kể những lời cảnh báo thường xuyên của nhà chức trách”[15].108
(ep.163).
Sự tiến hóa của Nông cổ Mín Đàm
từ năm 1916 trở đi cho thấy rõ đội ngũ làm báo lớn tuổi dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Chánh Sắt đã dần dà được thay thế bằng một nhóm trẻ hơn và quả quyết hơn
về mặt chính trị, tập trung quanh Cao Hải Để và Lâm Hiệp Châu. Tờ báo tạo được
sức mạnh cho dù buộc lòng phải tránh né khi phát ngôn chính trị, một đặc điểm
chung của các tờ báo quốc ngữ thời đó. Đối tượng độc giả cũng thay đổi. Xét
theo cách lựa chọn các đề tài tường thuật và nội dung quảng cáo, tờ này lúc đầu
nhắm tới công chúng là giới địa chủ tư sản giàu có ở Sài Gòn và các thành thị
miền Nam.
Với ban biên tập mới, đối tượng công chúng lại đa dạng - trẻ hơn, trung lưu hơn, thành thị hơn, và rất có khả năng
là đang sống ở Sài Gòn.
Ra đời vào tháng 8 năm 1916, Công
Luận Báo là tờ báo của Lucien Héloury, chủ nhiệm tờ báo tiếng Pháp L’Opinion
cũng có nghĩa là “công luận”. Héloury xin được giấy phép của chính quyền ra tờ
báo quốc ngữ riêng để bù đắp cho việc
ông ta bị chấm dứt hợp đồng thuê lại tờ Nông Cổ Mín Đàm của Canavaggio. Công Luận Báo nhanh chóng trở thành một trong những tờ báo
thành công nhất trong lịch sử ban đầu của báo chí Việt Nam. Ngoài ra,
những biến đổi về nội dung và tính
chính trị của tờ này lại dẫn đến sự ra đời của hai tờ báo nữa là Đông
Pháp Thời Báo và Nam
Kỳ Kinh Tế Báo.
Từng làm
cho tờ Nông
Cổ Mín Đàm một thời gian ngắn trong năm
1913, Nguyễn Kim Đính về sau được người đỡ đầu là Héloury giao cho
việc điều hành tờ Công Luận Báo. Đính đưa vào ban biên tập một cây bút nổi tiếng tài năng khác, Hồ Văn
Trung, người trở thành một chủ bút “giấu mặt” của tờ này cho tới tháng 5/1923[16].109
(ep.164).
Là nhà phiên dịch được đào tạo và là
một công chức, Trung thường được biết dưới cái tên Hồ Biểu Chánh là bút danh
ông dùng khi viết những tiểu thuyết được xem là hay nhất ở miền nam Việt Nam[17].110
Trong khi cộng tác với các báo quốc ngữ, Trung vẫn tiếp tục làm phiên dịch
riêng kiêm cố vấn cho thống đốc Nam Kỳ. Là “viên quan của thống đốc” - như giám
đốc Arnoux của Sở Liêm phóng Nam Kỳ từng gọi - Trung bị điều tra vì những
chuyện can dự dưới thời Sarraut. Cơ quan an ninh đã chú ý tới tài nghệ viết báo
luôn thoát được kiểm duyệt của cây bút này[18].111
Suốt những năm 1920 và sau đó, Trung vẫn tiếp tục hoạt động báo chí và văn
chương. Ông còn là hội viên tích cực của Hội Khuyến học Nam Kỳ (Société d’enseignement
mutuel de Cochinchine - SEMC), nơi ông quảng bá việc dùng tiếng Việt thay vì
tiếng Pháp trong các cuộc hội họp. Trung nuôi dưỡng một hình thức ái quốc bằng
văn hóa chứ không đối đầu, một đặc trưng của thế hệ ông ở miền Nam.
Giống như đồng nghiệp Nguyễn Chánh Sắt, chủ nghĩa thực dụng chính trị của Trung
sẽ không phương hại đến sự ủng hộ ông dành cho ngôn ngữ và văn hóa Việt. Đương
nhiên là ông chỉ viết cho các báo quốc ngữ.
Văn phong báo chí của Trung trái
ngược với một cây bút trợ lực khác của tờ Công Luận Báo là Cao Văn
Chánh. Tốt nghiệp Collège Mỹ Tho, Chánh gia nhập tờ báo năm 1920 khi 17 tuổi. Công
việc đầu tiên này là khởi đầu của một sự nghiệp báo chí phi thường. Thường được
biết dưới bút danh Cao Chánh, anh nhanh chóng bị để ý bởi thái độ “xấc láo”
chống chính quyền và văn phong chính trị tương đối phóng túng trong các bài báo
của mình.
Nổi tiếng nhờ đăng tiểu thuyết dài
kỳ và nhiều bài thơ dễ bị suy diễn theo hướng chính trị, tờ Công Luận Báo
ngày càng có tính chính trị lộ liễu (ep.165). Là báo khổ lớn, ban đầu có bốn
trang, báo ra ba kỳ mỗi tuần. Năm 1921, báo phát hành mỗi kỳ 1.700 tờ khiến tờ
này trở thành tờ báo quốc ngữ phổ biến nhất. Công Luận Báo lúc đầu không
có chương trình chính trị rõ ràng - giống như tờ Nông Cổ Mín Đàm, nó tự
xác định là một tờ báo khai sáng. Nhưng đến năm 1919, ban biên tập tờ này đã
chọn thái độ kiên quyết ủng hộ cuộc tẩy chay kinh tế bài Hoa. Nhiều bài viết
táo bạo về chính trị bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn những năm sau đó. Năm
1921, Cao Văn Chánh viết một loạt bài khiêu khích dưới tựa đề “Việt Nam Xã Hội”,
bài bác thói quen suy nghĩ và sống phục tùng của người Việt. Loạt bài này khiến
độc giả sôi nổi phản hồi. Tuy nhiên, nỗi sợ bị kiểm duyệt và lập trường khá ôn
hòa của cấp trên đã ngăn cản không cho ký giả trẻ tuổi Cao Văn Chánh viết lách
quá lộ liễu như trước. Phong cách bề ngoài có vẻ phi chính trị của Trung lại
phù họp hơn với chiến lược thương mại mà Đính và Héloury theo đuổi.
Thiết tha muốn lập tờ báo riêng,
Đính không muốn bị chính quyền xem là có tính chất chống đối. Tháng 5/1923, vói
sự hậu thuẫn của Héloury, Đính đã thành công trong việc xin phép cho ra tờ Đông Pháp Thời Báo. Hầu hết
nhân sự trong ban biên tập của Công
Luận Báo, kể cả Trung, theo Đính về tờ báo mới. Chánh đã ra đi trước từ
tháng 1 để điều hành tờ Nam
Kỳ Kinh Tế Báo.
Sau khi Đính ra đi, Héloury mời
Huỳnh Văn Chính, một thanh niên 25 tuổi quê ở Bạc Liêu, thiết lập ban biên tập
mới cho tờ Công Luận Báo. Chính từng là học sinh trường
Chasseloup-Laubat trước khi học y khoa ở Đại học Đông Dương tại Hà Nội. Chính
bị đuổi học vì lãnh đạo sinh viên bãi khóa năm 1919. Sau một thời gian ngắn về
quê làm ký lục cho chính quyền địa phương, anh chuyển lên Sài Gòn bắt đầu nghề
báo. Dưói bút danh Tự Do đầy khiêu khích, Chính cộng tác với tờ La Tribune
Indigène cùng các báo tiếng Pháp khác[19].112
(ep.166).
Được mời thiết lập ban biên tập mới
cho tờ Công Luận Báo, Tự Do tức Huỳnh Văn Chính lập tức chọn ngay Nguyễn
Háo Vĩnh, nguyên là một nhà hoạt động chính trị uyên bác, làm chủ bút. Tự xưng
là “tờ báo của thanh niên nhiệt huyết”, Công Luận Báo chọn đường lối
chính trị công khai chống lại tân thống đốc Nam Kỳ Maurice Cognacq. Tình trạng
này không được bền lâu. Tháng 11/1923, Héloury bán lại tờ báo này cho
Jean-Gabriel Hérisson, một viên chức ủng hộ chính quyền. Tiếp diễn từ những
biến động chính trị nội bộ của tờ Công Luận Báo, hai cuộc mạo hiểm bằng báo chí rõ rệt khác đã xuất hiện - tờ Đông Pháp Thời Báo và tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo.
Theo cách riêng của mình, mỗi tờ đều đóng góp vào công cuộc phát triển báo chí
tiếng Việt thành một phương tiện đấu tranh chính trị.
Tháng 11/1923, Nguyễn Háo Vĩnh (đang
làm chủ bút tờ Công Luận Báo), mua lại một tờ báo có sẵn, tờ Nam Kỳ Kinh Tế
Báo. Ông muốn phát động một chiến dịch chống đối chính quyền thực dân về vụ
độc quyền tai tiếng ở Cảng Sài Gòn[20].113
Tờ này trở thành tờ báo quốc ngữ chống thực dân kịch liệt và vẫn giữ chủ trương
đó cho đến khi bị chính quyền đóng cửa bốn tháng sau. Chủ trương này được khởi
xướng bởi Cao Văn Chánh, người bạn và chủ bút trước của Vĩnh đã rời khỏi tờ Công
Luận Báo. Hướng đi chính trị mới của Nam Kỳ Kinh Tế Báo là kết quả
từ những bất hòa nội bộ của nhóm Công Luận Báo về đường lối chống lại
Cognacq.
Có hình thức hiện đại hơn tờ Nông
Cổ Mín Đàm lâu năm, Nam Kỳ Kinh Tế Báo vốn tránh né những vấn đề tranh luận chính trị nghiêm túc (ep.167).
Tờ này do bà Rose Quaintenne sáng
lập. Bà là người Công giáo lúc đó đang điều hành tờ báo tiếng Pháp Le Réveil
Saigonnais. Ra đời ngày 7/10/1920, Nam Kỳ Kinh Tế Báo lúc đầu là
một tuần san khổ nhỏ với chiến lược khai thác sự quan tâm mới nảy sinh trong
dân chúng Việt Nam về các vấn đề kinh tế, đặc biệt là vụ tẩy chay bài Hoa năm
1919. Các bài viết về kinh tế Á-Âu, ngân hàng, và chuyện kinh doanh lúa gạo,
cao su, được đăng cạnh tin tức thời sự và tiểu thuyết dài kỳ. Cho dù chủ bút
đầu tiên Nguyễn Thành Út có khuynh hướng độc lập riêng, tờ này vẫn duy trì một
giọng điệu trung lập và phi chính trị. Nhưng cho đến cuối năm 1921 thì tờ báo
ngày càng quả quyết về chính trị hơn. Nhiều bài đả kích các hành động độc quyền
kinh tế của Hoa kiều được đăng thường xuyên. Các bài xã luận kêu gọi chính
quyền phải có những biện pháp thuận lợi cho người Việt, đặc biệt là giáo dục và
thương mại. Chánh và Vĩnh cũng bắt đầu cộng tác viết cho tờ này[21].114
Tháng 1/1923, quyền chủ bút tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo được giao
cho Cao Văn Chánh[22].115
Lần đầu tiên, ký giả 20 tuổi này được một mình chịu trách nhiệm chiến lược nội
dung cho cả tờ báo. Chánh lèo lái Nam Kỳ Kinh Tế Báo theo hướng công
khai đảm nhận vai trò chính trị, và tờ báo lập tức không còn đơn thuần là một
tạp chí chuyên ngành nữa. Lượng độc giả tờ này, dù vẫn giới hạn trong 800 tờ
mỗi kỳ, lại cao hơn năm trước gấp ba lần. Ngày 18/4, báo ra khổ lớn. Một khẩu
hiệu mới xuất hiện dưới tên tờ báo nghe như một tuyên ngôn chính trị: “Cơ
quan giải thoát ách kinh tế và truyền bá lý tưởng thái tây”.
Ngay sau khi Cao Văn Chánh nắm quyền
chủ bút, Nam Kỳ Kinh Tế Báo mở mục thường xuyên “Phụ nữ diễn đàn”. Tháng
7/1923, mục này đăng nhiều bài mang tựa đề chung “Các bậc nữ lưu tinh hoa ở
Pháp Quốc và Việt Nam”[23].116
Đây là một trong những sáng kiến đầu tiên của Chánh để ủng hộ nữ giới (ep.168)
- một trong những chủ điểm chính trị ưu thích của anh. Anh cũng có sáng kiến
cho đăng nhiều xã luận về chính trị châu Á. Thu hút chú ý mạnh mẽ nhất đối với
anh là Nhật Bản, nước châu Á duy nhất có thể đứng ngang hàng vói các cường quốc
Tây phương. Tờ này cũng dành chỗ đăng quảng cáo cho những doanh nghiệp của nhiều
cá nhân có hoạt động chính trị như Khánh Ký, chủ hiệu ảnh, hay Trương Văn Bền,
nhà sản xuất các chế phẩm từ dầu dừa[24].117
Nguyên là một cây bút của tờ Công Luận Báo, Cao Văn Chánh viết nhiều bài
đả kích Hérisson, chủ tờ báo này và quan điểm bảo thủ của ông[25].118
Căng thẳng giữa hai tờ báo ngày càng khốc liệt suốt thời gian xảy ra vụ độc
quyền Cảng Sài Gòn, khi Vĩnh cuối cùng cũng bỏ tờ Công Luận Báo ra đi.
Tháng 11/1923, Cao Văn Chánh mở chiến dịch khác, lần này là đả kích cựu chủ bút
của tờ Nông Cổ Mín Đàm là Lương Khắc Ninh. Ninh vốn là người được Thống
đốc Cognacq ưu ái, đã nhận nhiều tài trợ hào phóng của chính quyền để đưa một
gánh hát sang Marseille tham gia Hội chợ Thuộc địa năm 1922. Dưới quyền chủ bút
của Chánh, Nam Kỳ Kinh Tế Báo biến thành một tờ báo bút chiến công khai
và dành nhiều giấy mực cho các đề tài nữ quyền, chính trị quốc tế, chống kiểm
duyệt, và đả kích trực tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng.
Ngày 4/4/1923, Nguyễn Kim Đính được
phép xuất bản tờ Đông Pháp Thời Báo. Quy trình xin phép chính thức được
Hội đồng Tối cao Đông Dương thông qua mặc dù việc cấp phép này lại dựa trên cơ
sở cá nhân sau khi thống đốc và giám đốc Sở Liêm phóng Nam Kỳ lên tiếng ủng hộ
(ep.169).
Bất chấp điều kiện ngầm hiểu là chỉ
có công dân Pháp mới được quyền thành lập và điều hành một tờ báo, suốt một
thời gian dài Đính là “thuộc dân bản xứ” đầu tiên được chính thức cho phép làm chủ
một tờ báo quốc ngữ[26].119
Sinh ra trong một gia đình khiêm
nhường ở tỉnh Gia Định, Đính chuyển lên Sài Gòn làm nhân viên công chức bậc
thấp ở Sở Công chánh. Năm 1913, ông bước vào thế giới báo chí trong cương vị
chủ nhiệm và sau đó nhanh chóng làm chủ một tờ báo. Kinh nghiệm làm chủ nhiệm ở
các tờ Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, và sau này là các báo tiếng Pháp
như L’Echo Annamite và La Tribune Indochinoise đã giúp ông trở
thành một trong những nhân vật đằng sau hậu trường có thế lực nhất trong báo
giới người Việt những năm 1920. Là một thương gia hơn là ký giả, Đính
họp sức với vợ là Thanh Thị Mâu, người làm chủ một nhà in phát đạt[27].120
Được in ở nhà in của Thanh Thị Mâu, Đông Pháp Thời Báo ban đầu ra mỗi
tuần ba kỳ, mỗi kỳ 3.000 tờ in khổ lớn bốn trang.
Ra đời từ tháng 5/1923, tờ báo này
trong giai đoạn đầu tiên có ban biên tập toàn là những người đã từng làm cho tờ
Công Luận Báo[28].121
Dưới quyền chủ bút trên danh nghĩa của Hồ Văn Hiền, đường lối nội dung là do Hồ
Văn Trung chỉ đạo. Ngay cả Nguyễn Chánh Sắt thỉnh thoảng cũng xuất hiện như cây
bút cộng tác. Tờ này cải tiến bằng cách trông cậy vào một mạng lưới “đặc phái
viên” địa phương rộng lớn ở các tỉnh. Các đặc phái viên cùng với một số nữ ký
giả chỉ xuất hiện trên báo với bút danh là những người cung cấp phần lớn nội
dung cho tờ báo với chi phí thấp hơn là thuê người giữ mục thường xuyên. Với
Đính nắm quyền quản lý và Trung nắm quyền biên tập, tờ Đông Pháp Thời Báo trở thành một hoạt động thương mại thông
suốt, và ngay cả trong thời kỳ đầu của báo chí Việt Nam đã cho thấy chuyện kinh
doanh và các mối quan tâm chính trị có thể hội tụ đến mức nào (ep.170).
Hai bài xã luận chính chiếm hết
trang nhất, và một hoặc hai tiểu thuyết dài kỳ được đăng ở các trang hai và ba.
Thơ ca cũng được đề cao. Tờ này mở nhiều mục thường xuyên như mục phụ nữ cộng
tác và diễn đàn chung. Giống như các báo tiếng Việt khác, ngoại trừ tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo, việc
tường thuật thời sự quốc tế và trong nước rất thưa thớt. Và cũng như các báo quốc ngữ
khác, giọng điệu giáo huấn thường nổi bật tính chất tự phê phán. Các
bài xã luận của Hồ Văn Hiền, Lê Sum và Hồ Văn Trung khai thác các chủ đề như
tính kiên nhẫn, tinh thần phê phán, tính khiêm tốn, lòng sợ hãi và lề thói. Bám
chặt vào niềm tin tự cải tiến và tự học hỏi vốn có truyền thống từ tư tưởng Nho
giáo, xu hướng này rất mạnh trong giới cầm bút miền nam thời đó. Nhiều
bài đề cập đến các vấn đề văn hóa-xã hội, một số bài có sức nặng chính trị, như
vấn đề thống nhất văn hóa Bắc-Trung-Nam (sự phân chia áp đặt của người Pháp),
hành vi nhũng lạm của giới hào phú địa phương đối với thường dân, phát
triển nông nghiệp, và ác cảm bài Hoa. Tâm tư chống chính quyền đôi khi cũng bộc
lộ mặc dù giọng điệu dân tộc chủ nghĩa vẫn còn giới hạn trong nhũng ngôn từ
chung chung. Các tài liệu của Sở Liêm phóng cho thấy rằng trong những giai đoạn
xã hội khủng hoảng, Nguyễn Kim Đính đã chơi canh bạc hai mặt đầy nguy hiểm[29].122
Tuy nhiên, những thủ đoạn này lại giúp cho Đông Pháp Thời Báo tránh được
kiểm duyệt[30].123
Trong các cơ quan báo chí quốc ngữ, Đông
Pháp Thời Báo tự xác định là một tờ báo chất lượng tốt (ep.171).
Sự ra đời của bốn tờ báo tiếng Việt
này trong những năm đầu thập niên 1920 cho thấy cái có thể gọi là “làng báo
quốc ngữ” ở Sài Gòn.
Nhiều thay đổi có tính nền tảng đã
diễn ra đằng sau những giao kèo liên quan đến quyền sở hữu tờ báo, hoạt động
của ký giả các báo này và những dịch chuyển có vẻ hỗn loạn trong chủ trương
biên tập. Đó là những ý tưởng mới và con người mới thu hút được sự chú ý của
công chúng, và nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng chính trị của báo chí
đã đã hình thành trong tâm tư người đương thời.
Từ giai đoạn ban đầu này của nền báo
chí chính trị Việt Nam,
nhiều cá nhân đã đóng vai trò quan trọng làm trung gian giữa dân chúng bản xứ
và chính quyền. Dưới thế lực của Nguyễn Kim Đính, một phong cách biên tập bắt
đầu từ năm 1913 trên tờ Nông Cổ Mín Đàm và tiếp tục ở tờ Công Luận
Báo rồi cuối cùng là ở chính tờ báo riêng của Đính là Đông Pháp Thời Báo.
Đính rất giỏi thu phục cả đội ngũ ủng hộ làm theo những nước cờ chiến lược khác
nhau của mình. Ông có tài phát hiện những cây bút giỏi có sức hấp dẫn với nhiều
đối tượng độc giả khác nhau. Cao Văn Chánh viết cho giới thanh niên, quảng bá ý
thức chính trị; trong khi Hồ Văn Trung viết cho nhóm công chúng trưởng thành
hơn vốn quan tâm đến tinh thần và tính toàn vẹn văn hóa của Việt Nam. Trung cũng
đặt nền tảng nội dung cho những đầu tư ban đầu của Đính vào nghề báo. Một nhân
vật quan trọng khác của thời kỳ này là Nguyễn Chánh Sắt. Tuy không có tài kinh
doanh như Đính, ông là người đào tạo nên nhiều cây bút trẻ như Cao Hải Để và
Lâm Hiệp Châu[31].124
Cho đến năm 1923, các chủ bút thuộc
thế hệ ra đời trong khoảng 1869 đến 1885 như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, và
Hồ Văn Trung, đã có sức tác động đáng kể đến sự tiến hóa của báo chí quốc ngữ. Thường là
cựu thông ngôn hay ký lục của chính quyền có gốc gác ở nông thôn miền Nam, họ
có thể viết cả tiểu thuyết và những bài ngắn có sức hấp dẫn với độc giả thời đó
(ep.172). Với họ, các vấn đề tự nâng cao tri thức và đạo đức lại quan trọng hơn là ảnh
hưởng thực tế của xã hội đương thời. Và do họ không thích đối đầu trực tiếp với
chính quyền, rào chắn kiểm duyệt đã tạo ra một ranh giới cho họ ẩn náu đằng sau.
Việc giáo dục văn hóa và đạo lý cho dân chúng, cùng những cách tân về kinh tế,
được họ coi trọng và xem là điều kiện tiên quyết cho sự tiến bộ xã hội và chính
trị đích thực. Truyền thống báo chí này tồn tại suốt thập niên 1920 và sau đó trong
nhiều tờ báo “phi chính trị” như Lục
Tỉnh Tân Văn và Trung Lập Báo.
Khoảng năm 1922, một thay đổi theo
xu hướng tổ chức nội dung rõ ràng hơn bắt đầu diễn ra. Cách tiếp cận mơ hồ đối
vói chính quyền thực dân - kiểu Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, và Nguyễn Kim
Đính - đã mở đường cho một thế hệ trí thức mói với những ý tưởng rõ ràng hơn về
những gì báo chí có thể đạt được về mặt chính trị. Cao Văn Chánh, Nguyễn Háo
Vĩnh, Cao Hải Để, và Lâm Hiệp Châu - tất cả đều sinh ra trong khoảng 1893 đến
1906 - đã tạo tên tuổi bằng cách chọn một lập trường chính trị táo bạo hơn
nhưng đồng thời, theo truyền thống xã hội Việt Nam, họ cũng tránh xung đột trực
tiếp vói thế hệ đi trước. Họ chờ đợi thòi cơ để gánh vác toàn bộ trách nhiệm về
chủ trương nội dung của một tờ báo, như trong trường hợp của tờ Nông cổ Mín
Đàm. Cả bốn người này đều đã được nhiều thành viên của thế hệ đi trước dẫn
dắt vào nghề làm báo chính trị.
Các sử gia thường quả quyết rằng
những trò thao túng và phá rối của người Pháp, đặc biệt là chuyện kiểm duyệt,
là nguyên nhân chính khống chế báo chí quốc ngữ của người Việt trong vai trò giới
hạn như một thể loại văn học vô hại. Những sự quả quyết đó có lẽ cần phải được
điều chỉnh lại, ít nhất là từ năm 1920 trở đi[32].125
(ep.173).
So sánh với các báo Pháp ngữ đồng
nghiệp, báo chí quốc ngữ phải chịu nhiều quy định hạn chế rất lớn vì các báo
này buộc phải dùng cách truyền đạt gián tiếp và bóng gió. Tuy nhiên, phong cách
văn chương và giáo huấn đặc trưng của báo quốc ngữ, thậm chí ngay trong những
bài do các cây bút thuộc thế hệ trẻ viết, cũng không hề thiếu sức mạnh chính
trị. Phong cách này cũng phù hợp với một kiểu kết hợp đặc biệt giữa các ẩn dụ
cảm xúc văn hoa về sự mất mát và xa lạ văn hóa - do bị chiếm làm thuộc địa -
vói khuynh hướng Nho giáo khuyến khích tự lực cá nhân[33].126
Phong cách làm báo kiểu miền Nam này thực tế lại tiêu biểu cho một giai đoạn
khi các nhà hoạt động chính trị khám phá ra cách đối lập công khai bằng lý lẽ.
Những người kiểm duyệt không có khả năng ngăn chặn những kỹ thuật viết lách do
các cây bút tài tình như Hồ Văn Trung nghĩ ra. Đây là một hiện tượng thường
được nhắc đến trong các báo cáo của Sở Liêm phóng, nó cho thấy rằng báo chí
quốc ngữ cuối cùng cũng có thể là một phương tiện phát ngôn chính trị hữu hiệu.
Trong những cơ hội có thể bộc lộ vị thế chính trị rõ ràng, như trong cuộc tẩy
chay bài Hoa hay bầu cử địa phương hay vấn đề kiểm duyệt báo chí, các tờ báo
này vẫn tự chọn lập trường không chút mơ hồ.
Cũng cần lưu ý rằng sự phát triển
của các tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn phần lớn đều đan kết chặt chẽ với
các hoạt động kinh tế và chính trị của
người Pháp lẫn sự phát triển của báo chí tiếng Pháp sở tại, như đã được
chứng tỏ bằng vai trò quan trọng của một số kiều dân colons đang làm chủ
các doanh nghiệp xuất bản. Ngoại trừ
tờ Quốc Dân Diễn Đàn và Đông Pháp Thời Báo, các tờ báo
quốc ngữ này đều do những người Pháp lập ra. Kinh nghiệm làm báo của ngưòi Pháp
khiến họ đặc biệt có sức ảnh hưởng với các trí thức trẻ người Việt làm việc cho
họ (ep.174). Người sáng lập và điều
hành tờ Nông Cổ Mín Đàm,
Canavaggio, là hội viên Hội Tam Điểm. Trước sự bực tức của Sở Liêm
phóng, tình cảm “ưu ái Việt Nam” của Canavaggio cũng lộ rõ trong cuộc tẩy chay
bài Hoa khi ông đóng góp vào phong trào này bằng cách viết vài bài tham gia và
cho các cộng sự người Việt trong ban biên tập toàn quyền tổ chức nội dung[34].127
Một nhân vật có khác cũng sức ảnh hưởng lớn nhưng tiếc là không có nhiều thông
tin về người này. Đó là bà Rose Quaintenne. Là dân Công giáo, có lẽ được sự hậu
thuẫn của Hội Thừa sai (Socíété des Missions Étrangères), Quaintenne lập ra tờ Nam
Kỳ Kinh Tế Báo và nhiều tờ khác. Bà bảo thủ về chính trị nhưng lại có nhiều
sáng kiến trong nghề báo. Bà là người quyết định tung ra những tờ báo nhắm tới
những đối tượng riêng biệt của công luận người Việt đang hình thành: tờ Đèn
Nhà Nam dành cho phụ nữ, tờ Nam Việt Tế Gia dành cho các gia đình trung lưu, và Nam Kỳ Kinh Tế Báo dành cho giới chủ kinh doanh đang phát triển ở đô thị. Mặc dù bà đã từng viết một bài gọi chính
sách của Sarraut đối với người Việt là “mị dân”[35],128
Quaintenne lại tận dụng chủ trương nới lỏng việc ra báo quốc ngữ dưới thời vị
toàn quyền này để đầu tư ồ ạt vào ngành xuất bản báo chí.
Mối quan tâm đến báo chí quốc ngữ
của hai ngưòi Pháp Henry Blaquière và Lucien Héloury, chủ nhiệm hai tờ báo
tiếng Pháp quan trọng, cho thấy rằng họ cũng hưởng ứng tích cực với môi trường
kinh tế và chính trị mới. Là một giáo viên từ Montpellier sang dạy ở Trường Sư
phạm Gia Định, Blaquière nhanh chóng học nghề báo và trở thành chủ nhiệm tờ Le
Courrier Saigonnais, một tờ báo ra đời năm 1899 do hai indigènophiles
“ngưòi ưu ái bản xứ” kiêm hội viên Tam Điểm là Georges Garros và Alfred
Schreiner sáng lập. Khuynh hướng tự do của Blaquière lại phù hợp với óc nhạy
bén về cơ hội kinh tế (ep.175). Năm 1918, được Toàn quyền Sarraut ủng hộ, ông
đã tìm gặp Sương Nguyệt Anh, con gái của thi sĩ kiêm biểu tượng ái quốc chống
thực dân Nguyễn Đình Chiểu, để mời làm chủ bút tờ Nữ Giới Chung. Nhắm
vào giới phụ nữ thành thị và nam giới có học đang hình thành, Blaquière biết
rằng lịch sử chống thực dân của gia đình Sương Nguyệt Anh sẽ thu hút được độc
giả[36].129
Giống Garros và Canavaggio, Blaquière là hội viên Tam Điểm chi nhánh Réveil
de l’Orient (Đánh thức Đông phương) ở Sài Gòn và tham gia Ligue de la
République (Liên minh Cộng hòa)
- một tổ chức gần giống Hội Tam Điểm có khuynh hướng ủng hộ đồng hóa
kiểu cộng hòa và chống giáo hội mạnh mẽ[37].130
Tuy nhiên, chiến lược ủng hộ báo chí tiếng Việt của ông có lẽ mang yếu tố vì
kinh tế nhiều hơn là vì chính trị.
Bảo thủ hơn, Lucien Héloury là chủ
nhiệm tờ L’Opinion, tờ báo đối địch với tờ Le Courrier Saigonnais
của Blaquière[38].131
Năm 1916, Héloury cho ra tờ Công Luận Báo với một chiến lược thương mại
đã cân nhắc kỹ. Muốn tờ Công Luận Báo lấp vào khoảng trống của văn chương
giải trí, Héloury thuê những nhà văn viết tiểu thuyết nổi tiếng như Lê Hoằng
Mưu và Hồ Văn Trung về làm cho tờ báo. Năm năm sau, bất kể chính kiến riêng,
Héloury không phản đối việc tuyển mộ những cây bút ngoan cố chính trị như Cao
Văn Chánh và Nguyễn Háo Vĩnh. Chỉ đến
khi tờ Công Luận Báo trở
nên chống chính quyền quá công khai và Héloury lo sợ việc kinh doanh
xuất bản của mình sẽ gặp khó khăn với nhà chức trách, ông mới quyết định bán tờ
báo này cho ngưòi bạn thân của Thống đốc Cognacq là Hérisson. Ít ra trong
chừng mực nào đó, các ký giả - doanh chủ người Pháp này cũng sẵn sàng ủng hộ
các cộng sự người Việt bằng cách cho họ
tự do phát triển các mục tiêu nội dung và văn phong riêng. Dù là
người ưu ái bản xứ hay cơ hội kinh tế, những người Pháp này đều nhận biết rằng
số độc giả người Việt ngày càng đông đảo đang đòi hỏi một nền báo chí quốc ngữ
sôi động (ep.176).
Các chủ báo người Pháp lẫn Việt điều
hành tờ báo với các lợi ích kinh tế và chính trị kết hợp. Cách điều hành này có
hệ quả cụ thể tới đặc điểm chính trị của báo chí quốc ngữ. Nền báo chí tự học,
nghiệp dư mới nảy sinh hướng tới một cộng đồng độc giả mới xuất hiện ở Sài Gòn
thời ấy cũng tương tự như nền báo chí mới đâm chồi và vô số canards (tin
vịt) hình thành trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 19 ở Pháp. Sự
kết tinh thành vai trò và trách nhiệm của giới “joumaliste” Pháp chỉ đi trước giới đồng nghiệp “nhà báo” Việt Nam chỉ có một hoặc
hai thập niên mà thôi[39].132
Các ký giả - doanh chủ Pháp và Việt hiểu rằng quảng bá một lập trường chống
chính quyền có thể sinh lợi về mặt kinh tế. Trong bối cảnh Sài Gòn thuộc địa
đầu những năm 1920, sự khác biệt giữa “lợi ích chính trị cá nhân” và “những vấn
đề nghiêm trọng” ảnh hưởng đến affaires Indigènes (chính sách bản xứ của
thực dân) thường bị xóa nhòa. Báo
chí góp phần định hình một cảnh quan tinh thần mới dễ tiếp cận với hàng trăm
người Việt, ít nhất là ở Sài Gòn và vùng phụ cận. Khi tiếp cận đông đảo dân
chúng bản xứ, các tờ báo này bằng cách phát ngôn tranh luận, phản biện đã giúp
xác định những mâu thuẫn cố hữu trong thực trạng ở thành phố thuộc địa này./.
[1]
Một mật báo Sở Liêm phóng tháng 3/1922 lưu ý rằng chỉ có sáu tờ báo
quốc ngữ hoạt động ở Nam Kỳ, “như đã được cấp phép từ trước” - Goucoch,
IIA.45/175(9), NA2. Bất kể những nỗ lực của chính quyền thuộc địa muốn hạn chế
báo quốc ngữ, số lượng báo này vẫn cứ tăng. Trong số những tờ được cho phép có Nam
Kỳ Kinh Tế Báo (tháng 10/1920) do Rose Quaintenne làm chủ; Nhựt Tân Báo
(tháng 4/1922) do Dejean de la Batie đứng tên thay cho Lê Thành Tường; và Đông
Pháp Thời Báo (tháng 3/1923) cũng do Dejean đứng tên cho Nguyễn Kim Đính.
Xu hướng này vẫn tiếp diễn với Khoa Học Tạp Chí (tháng 10/1923) là một
chuyên san khoa học, Trung Lập Báo (tháng 1/1924) là phiên bản quốc ngữ
của tờ L'Impartial do De La Chevrotière làm chủ, và tờ Tân Dân Báo
ôn hòa (tháng 10/1924) thuộc sở hữu của Trần Văn Minh.
[2] Ở Sài Gòn, người
đảo Corse chiếm tới 115% tổng số dân Pháp. Xem Jean-Louis Pretini,
“Saigon-Cyrnos: Les Corses à Saigon”, trong Brocheux và Hémery, Saigon 1925-1945, 92-103.
[3] Tờ này có chung
ban biên tập với tờ Lục Tỉnh Tân Văn, cũng do Trần Chánh Chiếu làm chủ
nhiệm. Lục Tỉnh Tân Văn do Francois- Henri Schneider và Pierre Jeantet
lập ra năm 1907 nhưng được gợi ý từ Gilbert Chiếu.
[4] GGI, 7F, 65412,
CAOM. Sau khi Chiếu thất thế, Nguyễn Văn Của mua lại tờ Lục Tỉnh Tân Văn,
biến nó thành ấn phẩm nếu không ủng hộ chính phủ thì cũng phi chính trị. Nhờ
chính quyền thục dân đặt mua dài hạn cho từng thôn làng, tờ này tồn tại cho đến
năm 1945.
[5]
Năm 1917, Lê Hoằng Mưu trở thành chủ nhiệm của tờ
báo ủng hộ chính quyền Lục Tỉnh Tân Văn, ông giữ chức vụ này cho đến khi
qua đời năm 1941. Trong một lần đoàn kết hiếm thấy vớỉ các đồng nghiệp ở Nông
Cổ Mín Đàm, Mưu rồi sẽ đóng vai trò quan trọng trong cuộc tẩy chay bài Hoa
năm 1919. Về Mưu, xem Tầm Vu, Nguyễn Văn Trung, và Nguyễn Văn Y, “Văn học quốc
ngữ ở Sài Gòn-Gia Định cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, trong Địa chí văn
hóa TPHCM, vol. 2,199-219.
[6]
Nguyễn Chánh Sắt thường
viết dưới bút danh “Bá Nghiêm”.
[7] Về Nguyễn Chánh
sắt, xem La Tribune Indigène, 24/1/1920. Xem thêm Tầm Vu, Nguyễn Văn
Trung, và Nguyễn Văn Y, “Văn học quốc ngữ ở Sài Gòn - Gia Định cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX”, 199-219. Durand và Nguyễn Trần Huân, Introduction à la
littérature vietnamienne.
[9]
Tháng 1/1922, Nguyễn Chánh Sắt yêu cầu chính quyền thực dân cho tờ Nông
Cổ Mín Đàm được hưởng đặc quyền là mọi thôn làng đều bắt buộc phải đặt mua
dài hạn, giống như tờ Lục Tỉnh Tân Văn. Yêu cầu này không được đáp ứng,
chắc chắn ỉà do chính quyền giới mật thám Sở Liêm phóng đã nghi ngờ Sắt từ thời
vụ tẩy chay bài Hoa. Xem GGI, 7F, 65412, CAOM.
[11]
Quê ở Bà Rịa, Lê Thành Tường đã tốt nghiệp khoa luật Đại học Đông
Dương ở Hà Nội trước đó hai năm. Ở Sài Gòn, Tường tham gia hoạt động báo chí
bầng cách giữ vai trò chủ nhiệm điều hành cả hai tờ Nhựt Tân Báo với
Nguyễn Phan Long và tờ Nông Cổ Mín Đàm. Năm 1924, ông rời bỏ báo giới để
gia nhập hàng ngũ công chức thuộc địa, một lựa chọn khá đặc biệt có lẽ có liên
quan đến mối quen biết cá nhân với Thống đốc Cognacq từ thời Tường còn học ở Hà
Nội. (Xem Le Flambeau, 11/12/1924; xem thêm Báo cáo thường niên Sở Liêm
phóng 1922-1923, 1923-1924, GGI, 7F, lần lượt là 65474 (2), 65474 (3), CAOM).
[14]
Vào tháng 5/1923, tài sản của tờ báo này là 4.000 đồng Đông Dương
và lượng phát hành 800 tờ mỗi kỳ, tình trạng tài chính rất yếu. Báo cáo thường
niên Sở Liêm phóng 1922-1923; GGI, 7F, 65474(2), CAOM.
[15]
Arnoux cũng lưu ý một bài báo đặc biệt ký tên Lâm Hiệp Châu đăng
ngày 1/7/1924 có tựa đề “Ai là bạn đường cho thanh niên?”, từ đó Amoux trích ra
những câu sau đây:
“Mục đích của tờ báo này là làm cho phát triển
kinh thương và kỹ nghệ ngõ hầu giải phóng dân ta khỏi vòng áp bức của bọn công
chức bất lương... Hãy để thanh niên, ai cùng quan điểm này, ủng hộ bổn báo.
Điều đó sẽ giúp chúng tôi chống lại những kẻ hùng mạnh nhất. Hỡi anh em thanh
niên, hãy nhớ Nông Cổ Mín Đàm
là tờ báo của người dân; số phận của nó nằm trong tay các bạn”.
(GGI, 7F, 65412, CAOM).
[16] Lê Hoằng Mưu cũng
được chiêu mộ, nhưng ông sớm ra đi để làm cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
[17] Ông còn dùng các
bút danh Tô Văn và Văn Tô.
[18] Giám đốc Sở Liêm
phóng Nam Kỳ Amoux mô tả ông như “người
tránh né kiểm duyệt tài tình nhất” (Báo cáo thường niên Sở Liêm phóng
1922-1923; GGI, 7F, 65474(2), CAOM). Về Hồ Văn Trung, xem Tầm Vu, Nguyễn Văn
Trung, và Nguyễn Văn Y, “Văn học quốc ngữ ở Sài Gòn-Gia Định cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20”. Xem thêm Durand và Nguyễn Trần Huân, Introduction à la
littérature vietnamienne, và GGI, Souverains et notabilités d’Indochine
[19]
Huỳnh Văn Chính cùng lúc đó làm biên tập cho La Voix Annamite
- một tờ báo chết yểu do Lê Thành Tường và Dejean de La Bâtie lập ra vào tháng 1. Chính về sau cộng tác với tờ Saigon
Républicain của Nguyễn Phú
Khai và La Cloche Fêlée của Nguyễn An Ninh. Xem Báo cáo thường niên Sở
Liêm phóng 1922-1923,1923-1924,1925-1926, GGI, 7F, lần lượt là 65474 (2), 65474
(3), và 65475 (4), CAOM.
[20]
Về vụ độc quyền thương cảng Sài Gòn gây phẫn nộ, xem Chương 4.
[21]
Từ tháng 4/1922 trở đi, Hamlet của Shakespeare được đăng dài kỳ, bản
dịch tiếng Việt là công trình của Nguyễn Háo Vĩnh, lúc đó là chủ bút Công
Luận Báo.
[24]
Suốt mười năm, Nguyễn Đình Khánh hay Khánh Ký gốc Hà Đông miền Bắc
làm nghề chụp ảnh ở Pháp, nơi
ông có liên hệ với các nhà hoạt động ngưòi Việt ở Paris như Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, và Nguyễn Ái Quốc.
Ở Sài Gòn, nơi ông định cư năm 1922, Khánh Ký lập ra một doanh nghiệp phát đạt
chuyên chụp ảnh chân dung cho người Âu. Tiệm của ông ở Đại lộ Bonnard (đường Lê
Lợi hiện nay) nằm kề bên cơ sở của Nguyễn Háo Vĩnh. Cực kỳ kín đáo trong hoạt
động chính trị, Khánh Ký bí mật liên lạc với các mạng lưới Vỉệt Nam ở Trung Hoa
và Nhật Bản (Hồ sơ Sở Liêm phóng: Khánh Ký, photographe; Goucoch, IIA,
45/274 (3), NA2). Trương Văn Bền là người Minh Hương ở Chợ Lớn. Sinh ra nghèo
khó năm 1883, ông đã xây dựng được một cơ nghiệp đa dạng, bao gồm một nhà máy
xay gạo, một xưởng dầu dừa, và một đồn điền cao su. Đắc cử ủy viên Hội đồng
Quản hạt năm 1918, ông là thành viên của Phòng Thương mại Sài Gòn.
Gần gũi về chính trị vói các thủ lĩnh nhóm Lập hiến, Bền lại hỗ trợ tài chính
cho những nhà hoạt động cấp tiến hơn như Cao Văn Chánh và Nguyễn Háo Vĩnh.
(SPCE, carton 350, CAOM; Báo cáo thường niên Sở Liêm phóng 1922-1923,
1923-1924, 1925-1926, 1926-1927, GGI, 7F, lần lượt là 65474 (2), 65474 (3),
65475 (4), và 65475 (5), CAOM;
Annuaire du syndicat des planteurs de Caoutchouc de l'indochine
1926; GGI Souverains et notabilités d'indochine.
[26]
Trong Báo cáo thường niên Sở Liêm phóng tháng 7/1923 - tháng
12/1924, Giám đốc Sở Liêm phóng Nam Kỳ Arnoux lưu ý rằng thành công của Nguyễn Kim
Đính là nhờ sự can thiệp với chính quyền của kiều dân bảo thủ cực đoan De la
Chevrotìère để hỗ trợ cá nhân Đính. Nếu đúng như vậy thì điều này cho thấy Đính
có lẽ đã cam kết trung thành với Parti colonial (Phe cánh thuộc địa) từ
trước đó. Xem Dossier 65474 (3), GGI, 7F, CAOM.
[27]
Về Nguyễn Kim Đính, xem Báo cáo thường niên Sở Liêm phóng
1923-1924, 1925-1926, 1926-1927, GGI, 7F, lần lượt là 65474 (3), 65475 (4), và
65475 (5), CAOM.
[28] Số đầu tiên của Đông
Pháp Thời Báo (ĐPTB) được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Pháp là số ra ngày 4/5/1923.
[29]
Để duy trì uy tín với đồng bào, Nguyễn Kim Đính cho phép ký giả của
ông viết tự do đề tài này, với nhiều bài chỉ trích chính sách của nhà cầm
quyền. Tuy nhiên, để tránh bị chính quyền trả đũa, Đính cũng bí mật báo cáo với
ban kiểm duyệt, cho biết bài nào nên ngăn chặn. Bất kể sự hợp tác ấy, Đính vẫn
bị áp lực từ phía nhà chức trách buộc phải giảm nhẹ chuyện đả kích chính quyền
trên tờ báo của ông. (Báo cáo thường niên Sở Liêm phóng 1923-1924,7F, 65474 (3), CAOM).
[30]
Sở Liêm phóng cũng lưu ý tới một bài đăng ngày 14/5/1924, đề cập
tới “đức hạnh chẳng có nghĩa gì nếu không
có sức mạnh”. Một bài khác được nhấn mạnh là bài của Nguyễn Chánh Sắt viết
rằng “Người có học là người tự do, người
ngu dốt dễ rơi vào cảnh nô lệ”. Một phần trong bài viết về thống nhất ba
miền đất nước bị cắt bỏ (ĐPTB, 27/8/1924).
[31]
Giống như Nguyễn Chánh Sắt, Huỳnh Văn Chính cũng dẫn dắt những tài
năng như Nguyễn Háo Vĩnh và Nguyễn Đức Nhuận vào nghề báo chính trị.
[32]
Quan điểm quyết đoán này tràn ngập cuốn Lịch sử báo chí Việt Nam
cùa Huỳnh Văn Tòng. Theo tôi, Tòng đã đánh giá thấp năng lực tác động của báo
chí quốc ngữ đối với thế giới quan chính trị của độc giả nằm ngoài sự bất lực
của báo chí khi không thể đề cập trực tiếp nhiều vấn đề nhạy cảm. Chẳng hạn,
việc báo chí cố tìm cách vươn tầm vói bao trùm cả ba miền đất nước Vỉệt Nam cho
thấy lập trường chính trị của báo chí như thế nào, cho dù không đề cập trực
tiếp đến chủ quyền hay cách người Pháp đối xử với người Việt. Xem Huỳnh Văn
Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam.
[33]
Về phong cách giáo huấn của văn học miền nam Việt Nam thời ấy,
đặc biệt là về phong cách của Hồ Văn Trung - Hồ Biểu Chánh, xem Schafer và Thế
Uyên, “Novel Emerges in Cochinchina”.
[34]
GGI, F07, 65412, CAOM.
[35]
Bài này đăng lần đầu trên Le Courrier Saigonnais và tờ EA
đăng lại ngày 21/6/1921. Tôi không tìm thấy thông tin lưu trữ nào về Rose
Quaintenne.
[36] Cùng năm đó,
Blaquière mời một ký giả khác có quan điểm chính trị mạnh mẽ, Nguyễn Thành Út,
lập ra tờ báo khác, Thời Báo. Tìm được rất ít thông tin về tờ báo này.
[37] Xem hồ sơ xin gia
nhập chi nhánh Hội Tam Điểm ở Sài Gòn của Blaquière: Le Réveil de l'Orient,
file 1736, GOF
[38]
Héloury cũng gia nhập chi nhánh Hội Tam Điểm địa phương Le Réveil
de l'Orient, file 1736, GOF.
[39] Xem Charle, Le
siècle de la presse, 143-49.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét