|
Tú
Nhi
|
“Chính sách học tập để cao
những thành tích kháng chiến đã đơn giản hóa vấn đề. Có những nhà văn hóa cách
tân [như Trương Vĩnh Ký và những người theo ông], mặc dù đã bị coi là thông
đồng với người Pháp, thật sự đi cùng đường với những nhà cách mạng sau họ, đã
muốn cải cách xã hội Việt Nam [theo đà tiến bộ của thế giới] bằng cách đoạn
tuyệt với quá khứ Khổng học”.
Dựa trên tài liệu tham khảo
ở Thư Viện Quốc Gia ở miền Nam trước 1975, ông Osborne kết luận rằng Trương
Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, và những hậu sinh của họ đã thực sự tin rằng quá trình
tiếp thụ văn hóa Pháp sẽ giúp Việt Nam đạt được văn minh và độc lập.
Cho đến hiện nay, quan điểm chính trị về thành phần
collab-orateur đã được xét lại. Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, và những nhà văn
hóa và dịch giả theo chủ trương Tây học ở cuối thế 19 kỷ đầu thế kỷ 20 đã được
ghi nhận qua những thành tích tiền phong đáng kể
của họ trong quá trình bành trướng chữ Quốc Ngữ và những tư tưởng hóa cận đại.
Nhà nghiên cứu Bằng Giang đã
từng khẳng định: “ở phần ba cuối cùng thế
kỷ XIX, vào buổi sơ khai của nền văn học chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ mà cũng là ở
Việt Nam, có ba khuôn mặt nổi bật, kể theo tuổi tác: Huỳnh Tịnh của
(1834-1908), Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Trương Minh Ký (1855-1900)”.11
Bỏ qua những điểm mờ trong vai trò chính trị, có thể nói Trương Minh Ký là
gương mặt rất đáng được tôn vinh trong lịch sử văn hóa nước nhà.
Một con người có những đóng góp
lớn lao trên nhiều lĩnh vực: là một nhà dịch thuật có nhiều công trình lớn, một
nhà giáo có tâm có đức với nghề nghiệp, một nhà văn có những sáng tạo độc đáo
mang tính tiên phong trong lịch sử văn học.
Trương Minh Ký là học trò xuất
sắc của Trương Vĩnh Ký. ông sinh ngày 23/10/1855, mất ngày 11/8/1900, tự Thế
Tải, hiệu Mai Nham (Thuộc dòng dõi Trương Minh Giảng, người đã giữ chức Thượng
thư kiêm Khâm thiên giám dưới triều Nguyễn). Cha là Trương Minh Cẩn, mẹ là Phạm
Thị Nguyệt. Quê quán ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay
thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Tên thật là Trương Minh Ngôn, vì ngưỡng mộ thầy
dạy Trương Vĩnh Ký nên đổi tên thành Trương Minh Ký với ước nguyện nối được chí
lớn của thầy.
Trong cuộc đời ngắn ngủi 45 năm
(Trương Minh Ký mất sớm nhưng hiện chưa có tư liệu nào
đề cập đến cái chết của ông).
Trương Minh Ký đã làm được
nhiều điều mà Trương Vĩnh Ký từng nhắn gửi học trò khi tiễn dặn họ sang Algier học tập: “Hãy đi đi
và hãy trởvể, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc
cho dân tộc mình”. Thiết tưởng một con người có tầm vóc lớn như Trương Vĩnh
Ký phải biết chọn người để gửi gắm khát vọng của bản thân đối với đất nước, dân
tộc.
Một trong số những người được
Trương Vĩnh Ký đặt nhiều kỳ vọng là Trương Minh Ký. Vậy Trương Minh Ký đã làm
được những gì?
Trong bối cảnh hậu bán thế kỷ
19, trên lộ trình bành trướng thế lực của chủ nghĩa thực dân phương Tây, châu Á
là điểm đến quan trọng. Một trong những tên thực dân sừng sỏ nhất là Pháp đã
chọn Việt Nam
làm mục tiêu xâm lược và đặt ách thống trị lâu dài. Nam Bộ là mảnh đất đầu tiên
bị Pháp đánh chiếm và đặt quyền bảo hộ. Từ tháng 2/1859, Pháp đánh chiếm Gia
Định và đến năm 1862, triều đình Huế nhu nhược đã cắt đứt ba tỉnh Đông Nam Kỳ
(Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) dâng cho Pháp. Trong lúc triều đình phong kiến
chỉ lo “duy trì chế độ xã hội thối nát
nhằm bảo vệ đặc quyển đặc lợi”, “ra
sức củng cố trật tự bằng mọi cách” thì thực dân Pháp lại ráo riết chuẩn bị
kế hoạch chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Pháp thực hiện xong âm mưu này vào năm 1867 mà không tốn
một viên đạn, không một chút kháng cự nào của quan quân triều đình. Sau khi
chiếm xong sáu tỉnh Nam
kỳ, thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách văn hóa nô dịch, đồng hóa. Pháp cho mở
trường dạy học bằng tiếng Pháp sau đó tiếp tục đưa chữ quốc ngữ vào chương
trình dạy học. Pháp cho xuất bản tờ báo chuyên đăng thông tư, nghị định, phổ
biến công văn của guồng máy chế độ thực dân đồng thời ra sức đào tạo đội ngũ
công chức thực hiện cho công cuộc nô dịch văn hóa. Trương Minh Ký là một trong
những công chức được đào tạo vì mục đích ấy của thực dân Pháp. Nhưng thực chất
những gì Trương Minh Ký làm được cho nền văn hóa nước nhà thì khác hăn với mục
tiêu ban đẩu của thực dân Pháp.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh
đất “bảo hộ” của thực dân Pháp - Gia Định - nền văn hóa mà Trương Minh Ký tiếp
nhận lúc bấy giờ là nền văn hóa
trong các trường học của Pháp, ông thuộc tầng lớp Tây học tiến bộ, tiếp thu,
ảnh hưởng khá nhiều nền văn hóa Pháp. Trương Minh Ký từng học qua trường Thông
ngôn do Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc từ năm 1866-1868 (dù ông không theo đạo
Thiên chúa), ông tiếp tục học ở trường Saxôlu-Lôba (Chas-seloup - Laubat), tốt
nghiệp, Trương Minh Ký ở lại dạy học cho trường này. Sau đó, năm 1880, ông dẫn
10 du học sinh sang Algier (Bắc Phi) học tập, trong đó có Diệp Văn Cương, Huỳnh
Tịnh Của, Nguyên Trọng Quản... ông tinh thông tiếng Pháp đổng thời am hiểu cả
chữ Nôm, chữ Hán. Mặc khác, ông còn là một trong những học giả rất tinh tường
chữ quốc ngữ. Có thể xếp Trương Minh Ký vào hàng trí thức uyên thâm mà lịch sử
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có được, cả hai vốn học thuật được tiếp
nhận qua các trường học của Pháp và vốn ngôn ngữ dân tộc được rèn luyện nhờ nỗ
lực của bản thân được Trương Minh Ký dùng để phục vụ cho sự nghiệp văn hóa nước
nhà. Đó là điều đáng trân trọng của một trí thức Tây học, dù học qua trường Tây
nhưng không hề quay lưng lại với đất nước, không chống lại đồng bào mình.
Trương Minh Ký là một trong
những học trò xuất sắc của của Trương Vĩnh Ký. ông đã kế tục xứng đáng sự
nghiệp mà Trương Vĩnh Ký trăn trở tìm tòi, chủ yếu là sự nghiệp học thuật, còn
sự nhiều và cũng không rõ ràng như Trương Vĩnh Ký. Vì
thế, nói đến Trương Minh Ký không thể không nói đến những định hướng riêng của
Trương Vĩnh Ký. Phạm Thế Ngũ nhận xét về Trương Vĩnh Ký như sau: “Con người ấy thực ra ở trí sáng suốt, óc
chừng mực, tác phong tao nhã, vẫn cốt yếu là một đồ đệ của Nho giáo. Và trái tim ông vẫn đập
về phía đất nước đồng bào”. Sự tiếp xúc với văn
hóa phương Tây, nhất là văn hóa Pháp, có thể đã tạo nên trong Trương Vĩnh Ký
một hy vọng lớn về khả năng đổi mới và phát triển văn hóa dân tộc bằng cách
tiếp nhận văn hóa phương Tây, đồng thời làm sống lại các nhân tố văn hóa đã có,
kể cả Nho giáo mượn của Trung Hoa. Ta có thể thấy một phương hướng kiểu Nguyễn
Trường Tộ, với câu nói nổi tiếng: “Người
phương Tây là kẻ bán cái trí, cái dũng, nếu ai khéo mua thì chăng bao lâu các
thứ họ có sẽ trở thành của mình” đã được Trương Vĩnh Ký âm thầm thực hiện.
Trương Vĩnh Ký đã có lần hội kiến Víchto Huỵgô (Người dám chống lại hệ thống
chính trị của Napôlêông Bônapac) và tiếp thu quan điểm của nhà văn vĩ đại này:
“Thứ nhút, buộc bọn Pháp của
Louis “tiểu đế” phải mở trường bản địa. Thứ nhi, phải đòi cho ra tờ báo tiếng
An Nam.
Một dân tộc muốn tiến bộ không thể để dân chúng
thất học. Thất học đồng nghĩa với ngu uội. Bọn
cầm quyền nào cũng muốn dân ngu muội để dễ bề cai trị. Và báo chí là chỗ phổ biến chuyện hay dở của một xã
hội. Hay thì noi theo. Dở thì bảo nhau
mà tránh xa. Bọn tham nhũng, độc tài, làm bậy ỷ thê cậy quyền sợ báo chí. Và vì vậy báo chí góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển...”.
Trương Minh Ký cũng đã đi theo
bước chân của thầy.
Năm 1885, Trương Minh Ký dạy
học ở trường Saxôlu-Lôba, sau đó ông lại kế nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định
báo (từ 1881-1897) - tờ báo đầu tiên ở Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ.
Ngoài việc đăng tải công văn của chính quyền thực dân từ lúc Trương Vĩnh Ký làm chủ bút, tờ báo này còn làm nhiệm vụ “cổ động cho lối học mới, phát triển chữ quốc
ngữ, khuyến khích dân chúng học chữ quốc ngữ”. Như vậy, con đường đi của
Trương Minh không khác gì mấy so với Trương Vĩnh Ký. Vì muốn cống hiến cuộc đời
mình cho sự nghiệp văn hóa nước nhà, Trương Minh Ký đã chọn
hai công việc có sức mạnh to lớn trong việc cải tạo xã
hội là dạy học và làm báo.
Trương Minh Ký là một học giả
uyên thâm, vốn tiếng Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ của ông đạt đến độ
thành thạo mà hiếm có nhiều người đạt được, ông từng được ân thưởng Huy chương
Hàn lâm viện Pháp quốc (Officier cPacademie), Kim khánh bội tinh Nam triều và
Hoàng gia Cam-bốt... nhờ những đóng góp trong công tác làm thông ngôn.
Trương Minh Ký còn là người có
công to lớn trong việc truyền bá chữ quốc ngữ cho mọi tầng lớp dân chúng với
mong muốn “xóa nạn mù chữ cho quốc dân”.
Một dân tộc tiến bộ không thể là một dân tộc không biết chữ. Trong khi chữ Hán,
chữ Nôm khó học, khó phổ biến thì chữ quốc ngữ được xem là thứ chữ dễ đọc, dễ
học hơn rất nhiều lần. Giám mục Puginier nói: “Sau khi đạo Thiên chúa đã được thiết lập, tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán
và thay thế trước tiên bằng chữ quốc ngữ, sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp
rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu lập ra ở Bắc kỳ một nước Pháp nhỏ ở
Viễn Đông...” (Thư ngày 4/5/1887 của Giám mục Puginier gửi tổng trưởng thuộc
địa Pháp). Như vậy, trong khi bọn Pháp tin tưởng mở trường
dạy chữ quốc ngữ, lập ra báo chữ quốc ngữ sẽ giúp chúng nắm trọn tư tưởng của
người Việt Nam, làm cho người Việt cắt đứt với truyền
thống Viễn Đông, lìa bỏ cội nguồn văn hóa dân tộc mình
thì những người thực thi nhiệm vụ của chúng những mục
đích tốt đẹp khác của nền quốc văn: đó là “khai
dân trí”. Với tính chất dễ học, học mau của chữ quốc ngữ, thứ chữ này có khả
năng lan tỏa một cách nhanh chóng. Mặt khác, chữ quốc ngữ có khả năng truyền bá
bất kỳ tư tưởng gì dù là cao siêu mà ta muốn học, có thể phổ biến học thuật
“Thái Tây” (Điều mà Bác học sơ giai của Huỳnh Tịnh của đã chứng minh
rõ). Vì mục đích tốt đẹp đó, Trương Minh Ký đã ra sức dịch nhiều tác phẩm văn
chương của cả Tây lẫn ta ra chữ quốc ngữ với số lượng đáng kể.
Trong thời gian làm chủ bút tờ Gia
Định báo ở Sài Gòn, ông cho đăng các tác phẩm dịch thuật của mình nhằm bổ
sung cho sách vở còn hết sức thiếu thốn ở trường học cũng như cho công chúng
biết chữ quốc ngữ có cái để đọc. Nỗ lực của Trương Minh Ký và những người có
cùng tâm huyết như ông đã làm cho diện mạo nền quốc văn Nam Kỳ thật phong phú,
đa dạng. Sách báo bằng chữ quốc ngữ lúc bấy giờ không chỉ có công văn, nghị
định của chính quyền thực dân mà có nhiều tác phẩm văn chương có giá trị, nhiều
công trình phổ biến giáo dục bổ ích, nhiều tác phẩm sưu
tầm văn chương công phu. Với thời gian và bằng cái
nhìn công bằng chúng ta cần phải ghi nhận đó là đóng góp lớn lao mà thế hệ trí
thức như Trương Minh Ký đã làm được cho lịch sử dân tộc.
Phan Mạnh Hùng có viết: “Nếu như dòng văn học yêu nước chống Pháp do
các nhà Nho Nam Bộ tiến hành chính là sự kế thừa và phát huy truyền thống văn
học vốn có từ ngàn xưa của dân tộc, thì dòng văn học quốc ngữ La tinh mới xuất
hiện được đặt trong tay của những trí thức Tây học với đường hướng cách tân
trong xu hướng vượt ra khỏi tẩm ảnh hưởng của văn học Đông Á và tiến tới hòa
nhập vào quỹ đạo văn học hiện đại của thế giới”.
Bên cạnh những tên tuổi Nho gia
Nam Bộ: Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyên Bá
Huân, Nguyên Thông... thống lĩnh dòng văn học yêu nước chữ Hán, chữ Nôm là
những cái tên trí thức Tây học như: Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh
Paulus Của, Nguyễn Trọng Quản... được lịch sử giao
trọng trách cách tân nền văn học.
Trong cuốn Trương Vĩnh Kỷ -
Bi kịch muôn đời của Hoàng Lại Giang, Trương Minh Ký xuất hiện với một hình
ảnh thật đẹp đẽ.
Bằng những tư liệu văn học quý
giá mà nhà nghiên cứu Băng Giang để lại cho Hoàng Lại Giang, chúng tôi tin
tưởng những gì Hoàng Lại Giang dựng lên trong tác phẩm của mình là khá chân
thực. Ở đoạn Paul của (tức Huỳnh Tịnh của) hỏi Trương Vĩnh Ký về việc mời người
cộng tác trong việc quản lý tờ Gia Định báo, ta nhìn thấy chân dung của Trương
Minh Ký là một người rất mực trung thành theo ý chí của vị thầy dẫn dắt mình:
- Thầy có định mời anh Trương
Minh Ký và anh Tôn Thọ Tường?
Chắc chắn tôi sẽ mời trò Trương
Minh Ký. Còn anh Tôn Thọ Tường... anh ấy đã cùng đi
với tôi sang Paris...
tôi hiểu... anh ấy khó đi cùng
đường chúng ta. Con đường đi của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký có phần gần gũi với Phạm Quỳnh. Phạm
Quỳnh muốn xây dựng một chủ nghĩa quốc gia “bắt đầu từ đấu
tranh xây dựng văn hoá, [vì] việc này cần thiết hơn đấu
tranh chính trị. Không thể đấu tranh chống Pháp mà chỉ cần nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân.
Trương Vĩnh Ký trên mọi phương
diện: học thuật, quan điểm cơ bản về văn hóa cũng như chính trị. Khi Trương
Vĩnh Ký nói: “Tôi muốn hoàn thành cuốn từ
điển Pháp-Việt và muốn dịch cuốn từ điển của Littré ra chữ quốc ngữ”,
Trương Minh Ký đã tán đồng hoàn toàn ý kiến của thầy, ông bày tỏ ý nguyện song
song ngữ, những bộ từ điển ấy thật cần thiết.
Trương Minh Ký còn là người có
tư tưởng duy tân mới mẻ, những tư tưởng mà cho đến lúc ấy Tự Đức vẫn chưa nhìn
thấy để cải tạo đất nước:
- Con nghĩ - Trương Minh Ký nói
- văn minh Tây Phương có nhiều điều chưa dung hòa được với Đông phương. Nhưng
ít ra Tây phương cũng đã trải qua thời kỳ lột xác, vai trò của dân chúng không
còn ở địa vị nô lệ như dân nước mình. Và trí thức đã sáng tạo ra kỹ nghệ và kỹ
nghệ là cứu cánh của nền văn minh mà nhân loại đang hướng tới, bằng mọi giá. Và
vì vậy, con nghĩ, ta không thể không trả giá mà tiếp cận được với nền dân chủ
mà Victo Huygô đã trả giá, với nền văn minh mà Châu Âu đã phải trả giá.
Căn cứ những gì Hoàng Lại Giang
đã vẽ trong Trương Vĩnh Ký - Bi kịch muôn đời thì hình ảnh của Trương Minh Ký
hiện lên rất đẹp đẽ. Ta có thể hình dung về một Trương Vĩnh Ký thứ hai -một con
người có ý chí, có quyết tâm, có tư tưởng mới mẻ, có sáng kiến. Quả thật,
Trương Minh Ký đã không phụ công lao dạy dỗ của Trương Vĩnh Ký, kế tục xứng
đáng sự nghiệp Trương Vĩnh Ký dày công xây dựng.
So với tầm vóc của Trương Vĩnh
Ký, Trương Minh Ký có thể chỉ được coi là “người
học trò nhỏ”. Dù sao, ông không hẳn là bản sao của Trương Vĩnh Ký. Trương
Minh Ký khẳng định mình bằng một sự nghiệp văn chương riêng. Sự nghiệp ấy so
với người đi trước lẫn người theo sau rất xứng đáng để gọi Trương Minh là một
nhà văn hóa lớn của đất Nam Kỳ.
Trương Minh Ký là người có công
lao to lớn trong công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ. Bên cạnh việc phiên âm nhiều
tác phẩm Pháp, Hán-Nôm ra chữ quốc ngữ, ông còn có một số sáng tác bằng chữ
quốc ngữ. Đến nay, việc phổ biến những tác phẩm này vẫn chưa được làm “đến nơi
đến chốn.” Có thể kể đến một số sáng tác chính sau:
Vở Tuồng Joseph, do nhà
hàng Rey et Curiol in vào năm 1888. Trước đó, vở tuồng này được đăng tải ở Gia Định báo từ ngày 26/4/1887,
được diễn lần đầu tại Chợ Lớn ngày 13/7/1887. Đây là vở tuồng đầu tiên của Việt
Nam
được sáng tác bằng chữ quốc ngữ. Nội dung của vở tuồng được lấy từ Kinh Thánh,
được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Trương Minh Ký.
Tác phẩm du ký bằng thơ: Như
Tây nhựt trình được khởi đăng ở Gia
Định báo từ ngày 10/4/1888 trong hơn một năm mới hết. Tác phẩm sau này được
nhà hàng Rey et Curiol in vào năm 1889. Như Tây nhựt trình gồm 2000 câu thơ
song thất lục bát. Năm 1880, Trương Minh Ký dẫn đoàn du học trường Bổn quốc
sang Anger du học, trong đó có Diệp Văn Cương (Chủ bút tờ Phan Yên báo) và
Nguyễn Trọng Quản (tác giả của cuốn truyện bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước
ta Thẩy Lazaro Phiền). Như Tây nhựt trình kể về hành trình qua châu Âu
và Bắc Phi của Trương Minh Ký với những ấn tượng sâu sắc về phong tục, nếp sống
xa lạ của người dân bản xứ.
Chư quấc thại hội là
cuốn du ký bằng thơ kể về lần làm thông ngôn cho sứ bộ triều đình Huế sang Pháp
tham dự hội đấu xảo ở Paris
năm 1889. Thiên du ký dài 2000 câu được xuất bản hai lần vào năm 1891 và năm
1896.
Tác phẩm dịch từ văn chương
Pháp sang chữ quốc ngữ:
Trương Minh Ký, cái tên cho đến
nay dường như vẫn còn khá xa lạ đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam, lại là
người đi tiên phong trong công tác dịch thuật tác phẩm văn học Pháp sang chữ
quốc ngữ. Trước khi Nguyễn Văn Vĩnh dịch tác phẩm thơ ngụ ngôn của La Fontaine
(được nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn ở Hà Nội in năm 1928 (gồm 24 bài) mà bấy
lâu nay vẫn được xem là công trình mở đầu cho nền văn học dịch của Việt Nam,
thì từ năm 1884, Trương Minh Ký đã công bố những công trình dịch thuật đầu tiên
của mình, như Trưyện Phansa diễn ra quốc ngữ (gồm 16 truyện của La
Fontaine) và tác phẩm Morceaux Choisis của Pháp ra chữ quốc ngữ.
Cũng năm 1884, Trương Minh Ký
tiếp tục xuất bản những tác phẩm dịch bằng văn xuôi khác nhưng không phải là
những tác phẩm của La Fontaine nữa mà tập hợp của nhiều tác giả như: J.Wirth,
Schmid, R.Dodsley nhiều nhất là tác phẩm của P. Larousse. Công trình gồm có 12
truyện trong đó có 8 - 9 truyện của P.Larousse. Năm 1885, trên Gia Định báo, Trương Minh Ký
khởi đăng tác phẩm Phú bẩn truyện diên ca. Có nhiều người đã nhầm lẫn
tác phẩm này là truyện dịch từ truyện thơ Nôm sang chữ quốc ngữ nhưng thực chất
đây là tác phẩm được dịch và phóng tác từ văn học Pháp. Trong quá trình dịch
tác phẩm, dịch giả đã Việt hóa tên nhân vật: thầy dòng được đổi thành nhà sư,
nhà thờ thành ngôi chùa.
Phú bẩn truyện diễn ca
đã bị một số nhà nghiên cứu ngộ nhận là của Trương Vĩnh Ký (như Đào Văn Hội, Lê
Thanh, Nguyễn Cao Kim, Nguyên Hương, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Sinh Duy và Phạm Long
Điền), thậm chí có người còn cho rằng đó là tác phẩm của cả hai người: Trương
Vĩnh Ký và Trương Minh Ký (A.Brébion, Trần Văn Giáp...). Cũng có nhiều ý kiến
khác nhau xung quanh vấn đề: đây là một sáng tác hay là một tác phẩm dịch? Phạm
Thế Ngũ, các tác giả của bộ Từ điển văn học, tập II [tr. 26] cho rằng đây là
một sáng tác. Đào Văn Hội, Nguyễn Cao Kim lại cho đây là một tác phẩm “sưu tập
và phổ thông văn Nôm.” Trần Văn Giàu và một số tác giả khác coi Phú bẩn
truyện diên ca là một tác phẩm dịch Pháp văn ra quốc ngữ. H.Cordier, Phạm
Việt Tuyền nhận định đây là một bản dịch, phóng tác từ tác phẩm văn xuôi tiếng
Pháp ra văn vần quốc ngữ.... Tóm lại, xung quanh tác phẩm tồn tại khá nhiều vấn
đề thú vị. Sau này, chính nhà nghiên cứu Băng Giang là người cất công tìm hiểu,
chứng minh và đưa ra lời kết luận thuyết phục cuối cùng: Phú bần truyện diễn
ca là một bản dịch, phóng tác từ văn xuôi tiếng Pháp ra văn vần quốc ngữ.
Năm 1886, Trương Minh Ký tiếp
tục xuất bản những tác phẩm dịch, khoảng 750 truyện ngụ ngôn Tây Phương.
Một số tác phẩm được dịch theo lối văn xuôi, một số được chuyển tải thành thơ
lục bát cũng tập hợp trong bộ Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ.
Năm 1887, Nhà hàng Rey et
Curiol xuất bản cuốn sách chuyện Tê-lê-mặc gặp tinh cờ của Fenelon (1651-1715, tu sĩ và là
nhà văn Pháp), bản dịch của Trương Minh Ký. Bản dịch
theo thể lục bát đã được khởi đăng ở Gia Định báo số 25, ngày 20/6/1885 và in
thành sách năm 1887.
Trị gia cách ngôn khuyến
hiếu ca (1895) là tác phẩm dịch những áng văn chương nổi tiếng của Trung
Hoa sang chữ quốc ngữ: gổm những tác phẩm có giá trị như Trị gia cách ngôn
của Châu Bá Lư, Khuyến hiếu ca của Vương Trung Thơ, Phụ bát phản ca
và Họa sơn thủy ca của Ngô Dung.
Ca từ diễn nghĩa (1896)
dịch những áng văn nổi tiếng của Trung Hoa sang chữ quốc ngữ như: Chính khí
ca, Liên xướng cung từ, Đường thi, Tô Huệ hồi văn, Hiếu thuận ca.
Vở tuồng Phong thẩn ấp bá khảo,
không rõ tác giả là ai, được Trương Minh Ký dịch ra chữ quốc ngữ, xuât bản năm
1896. Tác phẩm lấy tích ở truyện Phong thần sau được dịch ra tiếng Pháp bởi
giáo sư M. chéon.
Tuồng Kim Vân Kiều, xuất
bản năm 1896, đây là tác phẩm phiên âm từ vở tuồng bằng chữ Nôm của Thủ khoa
Bùi Hữu Nghĩa (1807-1972). Trương Minh Ký là người đầu tiên phiên âm tuồng Kim
Vân Kiều ra chữ quốc ngữ.
Thi pháp nhập môn là
cuốn sách dịch từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ. Cuốn sách đưa ra bảng mẫu bằng
trắc của từng loại thơ rồi cho ví dụ kèm theo với mục đích hướng dẫn cho những
người mới tập làm thơ có thể làm thơ đúng vần, đúng luật. Sách được xuất bản
năm 1898.
Câu hát An Nam là cuốn
sách sưu tẩm những câu dân ca, ca dao của người Việt.
Ngoài những tác phẩm kể trên,
Trương Minh Ký còn là tác giả của nhiều tác phẩm phiên âm, dịch thuật chưa được
in thành sách mà chỉ được công bố trên Gia Định báo như: Truyện nhi đồng
Francinet (truyện dịch từ văn học Pháp, Gia Định báo bắt đẩu đăng từ số 36
năm 1885), Lục súc tranh công (tác phẩm phiên âm chữ Nôm sang chữ quốc
ngữ), Phansa quốc sử diễn ca (lịch sử nước Pháp được phiên dịch thành
chữ quốc ngữ dưới hình thức thơ song thất lục bát), Nhị thập tứ hiếu
(tác phẩm phiên âm chữ Nôm ra chữ quốc ngữ), Quốc phong (dịch từ chữ Hán
ra chữ quốc ngữ, trích từ Kinh thi), Đại Nam quốc sử diễn ca (phiên âm
chữ Nôm ra chữ quốc ngữ), Phưoĩng ngôn ngạn ngữ (tác phẩm sưu tầm).
Trần Hải Yến nhận định: “Với những tư liệu văn học sử hiện có, Trương
Minh Ký được coi là người đi tiên phong cà trong dịch văn học Hán-Việt lân văn
học Pháp-Việt--một công việc vừa có ý nghĩa khải mông: góp phẩn đưa vào đời
sống văn hóa nước nhà những giá trị mới tích cực, lại vừa là sự thể nghiệm rèn
luyện khả năng biểu đạt ngôn ngữ viết dân tộc vừa mới hình thành. Chẳng những thế, Trương Minh Ký còn là người đi đầu trong công tái
sáng tác văn học bảng chữ quốc ngữ. Nhờ những con người như
Trưowng Minh Ký mà thứ chữ Việt được La Tinh hóa dần
được phổ biến trong đông đảo công chúng văn học và hướng
đến hoàn thiện về nhiều mặt từ vựng, cú pháp, khả năng
diễn đạt, chuyển tải hiện thực cuộc sống...”
Trương Minh Ký xứng đáng là một nhà văn hóa lớn, một tác gia lớn của nền
văn học Nam Kỳ những năm 1862-1913.
Tú Nhi sinh năm 1981, tốt
nghiệp Thạc sĩ với luận văn: Trưong Minh Ký (1855-1900) và tác phẩm du ký
bằng thơ “Chư quấc thại hội.”
Biên khảo nầy là đăng trích một
phần bài nghiên cứu luận văn của Tú Nhi. Cô thuộc thế hệ trẻ Việt Nam trong nước
đi theo lời khuyên của Trương Vĩnh Ký, thầy của Trương Minh Ký, “Hãy đi đi
và hãy trở về, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc
cho dân tộc mình”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét