Nay đã
giải rõ các lẽ đủ biết rằng chữ nho cần cho quốc văn, không thể bỏ chữ nho mà
mong quốc văn thành được. Vậy xét đến đoạn thứ hai và bàn về cách nên dùng
chữ nho trong quốc văn thế nào cho thích hợp. Đã nói cả
vấn đề quôc văn chỉ rút lại có một câu hỏi đó mà thôi.
Các
nhà để bụng
về quốc văn trước sau cũng chỉ tranh biện nhau có một câu đó mà thôi. Những
người hẹp hòi thiên lệch không chịu nhận rằng tiếng nước mình đối với chữ nho
có cái giây liên lạc rất bền chặt không thể cắt đứt đi được, thì không nói làm
chi, còn những người đã biết như vậy, vẫn còn phân vân chưa biết nên dùng chữ nho thế
nào cho thích hợp. Người thì nói hiện nay những chữ gì đã thường dùng, nhiều
người biết rồi thì cứ nên dùng, vì những chữ ấy hình như đã “nhập tịch” vào
tiếng Việt Nam rồi, còn những chữ gì khó và lạ không nên dùng. Người thì nói sự
dùng chữ nho là một sự bất đắc dĩ, phàm cái gì có thể nói ra Nôm được không nên
dùng chữ, dù chữ đã thông dụng mặc lòng; còn cái gì Nôm vốn không có mà có thể
đặt tiếng mới ra cũng nên đặt, còn hơn là mượn chữ sẵn. Lại người thì nói cách
dùng chữ nho phải để tùy nhà văn, chọn chữ nào là đẹp lời, lọn
nghĩa, dễ đọc, dễ nghe, hợp với ý nghĩa câu văn thì cứ việc dùng, không quản gì
là chữ đã thông dụng hay chưa thông dụng, nhiều người biết hay ít người biết,
vì nếu chưa thông dụng dùng rồi mà hay tất thông dụng, nếu ít người biết dùng rồi mà
phải tất
nhiều người biết. Cả chữ nho là cái kho vô tận, nhà văn ta được tha
hồ mà kén chọn, mà lượm lặt, mà điều hòa với tiếng Nôm cho quốc văn
mỗi ngày một phong phú thêm lên. Lại người thì cho rằng bao
nhiêu những chữ về cách trí triết học, Tàu tuy cũng dịch theo Âu châu mà chữ
Tàu lão luyện thâm thúy, dịch vừa đúng nghĩa, vừa trang nhã, tiếng Nôm mình
không bao giờ dịch cho bằng được, ta cứ nên mượn cả của Tàu mà dùng; còn các
chữ thường khác thì để tùy ý nhà văn muốn dùng thế nào thì dùng, miễn là lời lẽ
được chải chuốt thanh thoát mà thôi.
Bấy nhiêu
người nói đều có lẽ phải cả, mỗi người phải ra một đường, nhưng chưa ai bàn
thấu triệt đến căn để mà bày được một phép tắc nhất định làm chuẩn đích.
Cứ
thực mà nói, sự dùng chữ nho trong quốc văn thật không thể nhất định thế nào là
vừa phải được, không biết lấy gì làm bằng mà đặt phép tắc được.
Như
luận giả thứ nhất nói chỉ nên dùng những chữ thông dụng mà thôi, nhưng cùng khó
lòng mà biết chữ gì là thông dụng, chữ gì là không thông dụng, chữ gì là đã
“nhập tịch” tiếng Việt Nam, chữ gì là chưa “nhập tịch”. Nếu gọi chữ thông dụng
là những chữ dễ hiểu, nhiều người biết, thì những chữ ấy phần nhiều là chữ
trong tiếng Nôm ta đã có rồi, có cần gì phải dùng, và dùng nữa thì có bổ ích gì
cho quốc văn cho lắm? Như: nhĩ
mục là “tai mắt”, tâm tư là “bụng nghĩ”, sơn xuyên là “núi sông”, hoa thảo là “hoa
cỏ”, thì dùng chữ hay dùng Nôm cũng
vậy, tùy cái điệu câu văn ưa Nôm thì dùng Nôm, ưa chữ thì dùng chữ, không hề
gì. Đến như những chữ nghĩa đã hơi cao một chút, tiếng Nôm đã khó tìm được
tiếng tương đương, mà người nào biết thì cho là chữ thường, người không biết
tất cho là khó, là lạ. Như chữ đĩnh ngộ, chữ lỗi lạc, chữ hoài bão, chữ cảm
khái, tất người biết chữ cho là thường, mà người biết ít đã lấy làm khó
hiểu rồi.
Cho
nên muốn phân biệt cho rõ chữ nào là thông dụng, chữ nào là không thông dụng
thật không phải là dễ.
Luận
giả thứ nhì nói nên hết sức chỉ dùng Nôm mà thôi, không có tiếng cũ thì đặt
tiếng mới ra, bất đắc dĩ mới dùng đến chữ. Nói thì dễ lắm, mà làm thường không
được dễ như vậy. Sự đặt tiếng không phải là một việc dung dị, xưa nay không ai
dụng tâm mà đặt được tiếng mới bao giờ: phàm các tiếng mới là tự nhiên mà tạo
thành, tự nhiên mà phổ thông. Một người tình cờ nói ra trước: nếu cái tiếng ấy
gọn ghẽ dễ nghe thì người khác cứ thế mà nói, bao giờ nghĩ đến sự đó tất dùng đến
tiếng đó, thế là thành tiếng thông dụng. Đến như nói rằng bất đắc dĩ hẵng nên
dùng chữ nho thì cứ các lẽ đã giải trên kia, tưởng sự bất đắc dĩ cũng là một sự
thường vậy; bất đắc dĩ mà đã thành lệ thường thì sao gọi là bất đắc dĩ được?
Luận
giả thứ ba nói rằng sự dùng chữ nho trong quốc văn phải để tùy ý nhà làm văn
cân nhắc lựa lọc mà dùng, không thể hạn định trước được. Điều đó thì rất phải:
nghề văn cũng như mọi nghề khác, phải để cho nhà nghề được rộng quyền tự do mới
được. Nhưng tự do không phải là không có phép tắc, tha hồ muốn dùng chữ thế nào
thì dùng. ít ra cũng phải biết cách cân nhắc lựa lọc thế nào là thích nghi. Cái
đó là ở tài lành nghề của nhà văn phải tự biết hạn định lấy.
Luận
giả thứ tư nói những chữ về cách trí triết học nên theo Tàu, còn các chữ thường
nên tùy tiện mà dùng. Chắc rằng chữ nho dịch các danh từ về cách trí triết học
của Âu châu
nhiều chữ dịch đúng và gọn ghẽ lắm, tiếng ta không tài nào dịch được bằng, và
mượn ngay tiếng Tây ra cũng khó cho được thanh
thoát; ta nên mượn của Tàu mà dùng, nhưng cũng phải lựa lọc mới được, chữ nào có thể theo tiếng Tây
được nên theo, chứ nói nhất thiết, mượn chữ nho cả thì cũng quá.
Ấy ý
kiến của nhiều người về sự đường chữ nho còn phân vân như vậy. Muốn đặt phép
tắc nhất định
cho biết dùng chừng nào là phải, chừng nào là quá, thì khó lắm. Cái giới hạn đó
phải để tùy nhà làm văn ước lượng lấy, dùng thế nào mà lời văn được thanh thoát
là vừa, dùng thế nào mà lời văn phải trắc trở là quá. Phải đương khi viết văn
mới cân nhắc được, không thể đặt lệ trước được.
Vậy
chỉ nên khuyên các nhà văn nên cẩn thận về sự dùng chữ: tùy mỗi lối văn nên
dùng nhiều hay dùng ít, phải chọn những chữ thật đích đáng, vừa gọn ghẽ, vừa
trang nhã, vừa dễ đọc, dễ nghe, mà cốt nhất là đúng với cái nghĩa nên dùng,
xứng với cái ý cầu văn; nếu bạ đâu dùng đấy, làm cho câu văn bề bộn những chữ
vô ích, hoặc lời Nôm đã đủ gọn ghẽ mà còn pha thêm chữ vào cho phiền, hoặc dùng
những chữ sáo tầm thường không hay bằng Nôm, đều là quá đáng cả. Văn nào như
vậy là văn không thông thoát, người đọc tất không ưa, và người làm văn ví sành
nghề cũng tự biết.
Song
sự dùng chữ tuy không có phép tắc nhất định, mà cũng không ngoài mấy lệ thường
như sau:
Phải
tùy tính cách và trình độ bài văn. Thế nào gọi là tính cách văn? Văn có nhiều
lối đã đành, mà văn cũng có nhiều hạng. Có hạng văn phổ thông nói những sự tầm
thường cho ai ai cũng dễ hiểu dễ biết, như văn chép tin tức trong các nhật báo. Văn ấy
thì cần gì phải dùng đến chữ nho nhiều? Có hạng văn tả tình, du hí, khôi hài đã cao hơn
hạng trên một tầng và phải có ý vị lý thú mới hay, tất có nhiều ý lời ta nói
không hết, nhiều cảnh tiếng Nôm tả không thấu, phải mượn răm ba chữ nho cho nó nổi ý nghĩa, chỉnh
lời văn và khỏi tục tằn: như tả người anh hùng thường dùng những chữ can đảm,
chí khí, khảng khái, oanh liệt, v.v..., tả người tài hoa thường dùng những chữ
nho nhã, phong lưu, thông minh, tuấn tú, v.v... lại muốn nói đến cái bụng người ta mưu muốn những
sự to lớn, mong mỏi những việc cao xa tết phải dùng đến như hoài bão
v.v... ấy đại loại hạng văn này phải mượn chữ như vậy, phần nhiều cũng là những
chữ nho thường dùng cả. Thợ vẽ ta có cái lối gọi là “điểm nhỡn”, nghĩa là khi
vẽ bức tranh người, các phần vẽ xong cả rồi duy có hai con mắt là chưa, nên tuy
vẽ đẹp đến đâu coi vẫn chưa có tinh thần; bấy giờ người thợ mới điểm hai con
ngươi, tức khắc trông bức tranh nổi ngay và coi như có vẻ linh hoạt. Trong lời
văn Nôm cũng vậy, phải tùy chỗ mà đặt một vài chữ nho cho xứng đáng, tức như
cái lối “điểm nhỡn” của thợ vẽ; không thời lời văn lạt lẽo và không khỏi tục
tằn.
Lạị có
hạng văn kỹ thuật, nghị luận, hạng này cao hơn hạng trên một tầng nữa. Văn kỹ
thuật tức là văn sử; mà làm sử phải có ngọn bút nghiêm trang, đời xưa cho sử là
có quyền bao biếm, nghĩa là phán đoán khen chê các công việc người đời, tất phải công bằng lắm mới được. Theo
nghĩa đời nay, sử tuy không có cái ý nghiêm khắc như vậy, nhưng những việc đã
đáng chép đáng thuật để lưu truyền lại, không phải là việc tầm thường, tất có cái ý nghĩa sâu ở đó, vậy văn
kỹ thuật, lời phải trang nghiêm, phải xứng đáng mới được; rất kỵ là những giọng
hoặc tục tĩu sỗ sàng, hoặc tầm thường quá, vì tầm thường cũng không được, bình
dị thì được, tầm thường với bình dị có khác nhau. Nay muốn dùng rặt
tiếng Nôm cả không dùng chữ, có thể tránh được những điều đó không ? Chắc rằng
không, vì Nôm thường là tục, quá Nôm không khỏi tục. Thí dụ như thuật việc vua
ra Bắc kỳ, nếu nói: “Ông vua Việt Nam đi chơi Bắc kỳ, nay đã về Kinh rồi”, nghe nó sống sượng quá,
như lời người ngoại quốc mới học tiếng ta vậy, không phải là thể văn kỹ thuật
một việc lớn trong nước. Nếu dùng mấy chữ nho thông dụng về những cơ hội đó mà
nói: “Hoàng thượng ngự giá Bắc kỳ, nay đã hồi loan”, có phải là lời văn trang
trọng và có sự thể biết bao! Những chữ Ngự giá, hồi loan là những chữ
thường dùng về việc vua di lại, nhà làm văn Nôm tất phải biết. Hoặc giả cho
cách làm văn thế là phiền, nhưng đã gọi là “văn” tất phải có “phiền” một chút,
nếu cứ trơ như không thì dầu không tục cũng không văn được. Và ngay tiếng
Tây cũng vậy, cũng một ý mà cũng có nhiều hạng chữ, cao thấp khinh trọng khác
nhau, phải tùy chỗ mà dùng. Trong tiếng ta, đại để nghĩa thường bao giờ nói bằng Nôm cũng đủ,
đến cái ý nghĩa đã cao
cao một chút thì tiếng Nôm thường hụt không tới kịp, tất phải mượn ít nhiều chữ
mới diễn được hết ý.
Đến
như văn nghị luận cũng vậy. Nghị luận là đem ý kiến ra bàn bạc tức là chọi ý
kiến với nhau, lời văn tất phải tinh tường gãy gọn mới được; rất kỵ là những
tiếng ám nghĩa, những giọng hàm hồ, hiểu ngược cũng được, hiểu xuôi cũng được,
như vậy thì lời bàn sao cho xác lý? Tiếng ta gọi
là tiếng “Nôm”, nghĩa là tiếng thông thường trong dân gian thường có nhiều
tiếng hàm hồ, vì người thường cứ nghe lẫn nhau mà biết, không hay định nghĩa
được phân minh. Dùng vào văn nghị luận tất phải mượn thêm chữ nho để diễn những
ý nghĩa mà tiếng ta nói không hết được. Những ý nghĩa ấy trong một bài nghị
luận thường nói đi nhắc lại nhiều lượt,
bàn ngược xét xuôi nhiều lần, nếu không có chữ gọn ghẽ mà nói, phải
diễn ra lời Nôm lôi thôi, thì thật là phiền cho sự nghị luận vô cùng. Ví dụ bàn
về sự người mình bắt chước và hóa theo người Âu châu là hay dở thế nào, nếu phải nói dài như vậy mà nhắc đi nhắc lại đến mười lần
thì phiền biết dường nào? Chi bằng dùng một chữ “âu hóa” tiện biết bao nhiêu?
Đại để văn kỹ thuật và văn nghị luận đã là hạng văn trang nghiêm thiết thực tất
phải mượn chữ nho nhiều hơn hạng văn đạo tình tiêu khiển trên kia.
Sau
nữa đến văn
thuyết lý giảng học, hạng ấy là hạng cao hơn nhất, xưa nay người mình không
dùng tiếng Nôm bao giờ. Ngày nay nghiệm ra thấy tiếng Nôm cũng có đủ tư cách mà
dùng về các lốì văn đó được, nhưng phải mượn chữ nhiều hơn các hạng trên. Điều
đó không những một tiếng Việt Nam mình mới thế. Dẫu các tiếng Âu châu về hạng
văn thuyết lý giảng học cũng không thể không mượn cổ văn cổ điển mà đủ dùng
được. Tiếng Âu châu thì mượn chữ Grec (Hi Lạp), chữ Latin (La
Mã), là hai cái văn cổ điển của các nước Tây phương. Tiếng Việt Nam mình tất
phải mượn chữ nho, là cái văn cổ điển của Đông phương ta. Văn thuyết lý giảng
học lại càng trọng trang nghiêm lắm: không nói rằng tiếng Nôm mình không tài
nào đủ mà diễn được những lý tưởng học thuyết mới, cho dẫu một đôi khi cố tìm
tòi mãi, cố đàn diễn mãi ra cũng có thể tiệm tiệm đủ được, nhưng thường không tránh khỏi cái tệ Nôm na. Nói những sự
cao xa mà dùng lời Nôm na quá, không những không được gọn ghẽ thanh tao, mà sao
cho xứng đáng! Các tiếng Âu châu, kể còn giàu hơn tiếng Việt Nam mình biết bao
nhiêu, mà về đường học thuật nghĩa lý phần nhiều chữ dùng là gốc tự grec,
latin ra cả: cứ giở ngay một quyển tự điển Pháp, bất cứ trang nào, nhìn qua
một lượt, có phải nhan nhản những gốc
tự grec tự latin không? Còn chữ gì tầm thường bằng chữ individu
(mỗi người, người một, cá nhân); thử tra xem gốc tự đâu? Gốc tự chữ La Mã individuus,
nguyên nghĩa là cái gì không phân dời ra được, trọn vẹn một mình, tức là riêng
một phần,
biệt một người, không dính dáng với phần khác, người khác. Lại chữ société
(xã hội) là do chữ La Mã societas; chữ autocrate (vua chuyên
chế), do chữ Hi Lạp autokrates, bởi hai chữ autos nghĩa là tự
mình, kratos nghĩa là quyền lực, quyền lực tự mình, muốn làm gì thì làm;
chữ autonomie (tự trị), là gồm hai chữ Hi Lạp autos, tự mình, nomos,
pháp luật, pháp luật tự mình v.v. Ai có thời giờ cứ thử ngồi giở chơi một quyển
tự điển Pháp xem có phải trang nào cũng đầy những chữ như vậy không. Tiếng Pháp
mượn chữ của La Mã Hi Lạp mà phát âm ra giọng Pháp, có khác gì tiếng ta mượn
chữ nho mà phát âm ra giọng ta không? Người Pháp nói autocrate mà không
nói autokrates, có khác gì ta nói chuyên chế mà không nói tchoen-tche
(theo tiếng quan thoại Tàu) không? Đó còn là tiếng thường thường, đến những
tiếng nội' về nghĩa lý cao, thì lại mượn của Hi Lạp La Mã nhiều hơn nữa. Như : philosophie
(triết học), là do chữ Hi Lạp philos, người bạn, người hay ưa sự gì, sophia,
sự nghĩa lý, điều khôn ngoan tức là người ưa xét những điều nghĩa lý khôn
ngoan; esthétique (mĩ học, học về sự đẹp), là do chữ Hi Lạp aistêtikos;
métaphysique (siêu hình học, thuần lý học) do chữ Hi Lạp meta và phỵsica,
chính nghĩa là học sau những vật có hình, tức là học về những sự ở trên, ở ngoài hình thức, về các lẽ mầu nhiệm siêu việt của trời đất; géographie
(địa dư học), bởi hai chữ Hi Lạp geo, đất, graphein, tả, vẽ,
nghĩa là hình dung tả vẽ về đất; v.v...
Ấy bao nhiêu những chữ về học lý đều do cổ văn mà đặt ra; có ai kêu
rằng tiếng Pháp phải đi mượn chữ ngoài nhiều không? Coi dó thì biết sự mượn chữ
cổ văn là những chữ đã thành thuộc lão luyện rồi dể diễn những điều nghĩa lý
cao xa, không có ngại gí cả. Càng mượn được càng hay, miễn là mượn cho cẩn thận
thì thôi. Tất những chữ mới mượn nghe có lạ tai, nhưng vì những sự vật những
nghĩa lý của các chữ ấy chỉ ra cũng là mới cả, xưa nay chưa từng biết bao giờ,
đã có tên đâu mà gọi thường? Đến khi những chữ nghĩa lý, những sự vật ấy trong
trí đã quen rồi, thì chữ dùng để gọi nó ra ta nghe cũng không lấy làm lạ nữa.
Trước kia đã từng lấy sự đẹp làm một môn học đâu, mà ta thường dùng chữ “mĩ
học” (esthétique). Trước kis ta đã từng phân biệt đâu trong tâm giới
người ta có hai phần, một phần “ý thức” (conscience) là cái phần
sáng suốt để cảm biết các vật các lẽ, một phần “tiềm thức” (subconscience)
là cái phần u âm, ở dưới ý thức gồm những tư tưởng cảm giác phảng phất mập mờ,
trong khi mơ ngủ thường xuất hiện ra trong trí người ta; ta đã từng phân biệt
đâu như vậy mà thường dùng đến những chữ “ý thức” và “tiềm thức”? Chữ chẳng qua
là cái áo bọc, cái tên gọi những tư tưởng cùng sự vật; có biết đến sự vật ấy,
có nghĩ đến tư tưởng ấy thì mới tìm tên gọi cho xứng đáng, tìm áo bọc cho vừa vặn.
Học giả là người hay sưu tầm nghiên cứu những điều hay lẽ phải, ý mới vật lạ, cố diễn giải ra
lời nói câu văn mà đem công bố ra trước mọi người, tất lúc mới đầu nhiều người chưa quen chưa hiểu lấy
làm lạ mắt lạ tai, nhưng dần dần đã hiểu đã quen rồi thì có lạ gi? Chữ mới chỉ
mới một lúc đầu thôi; nếu là cần dùng thiết thực thì chẳng bao lâu thành phổ
thông ngay.
Dùng
một lần còn mới, dùng vài ba lần thì nghe dã quen tai, đến mười lần thì đã cũ
rích vậy. Mười năm trước ai từng nói đến những tiếng như văn minh, xã hội?
Thế mà bây giờ những tiếng ấy thông dụng rồi. Ngày nay những tiếng như quan
niệm, thái độ nghe còn lạ tai, an trí ít lâu nữa lại chẳng thành những
tiếng thường dùng? Tiếng Việt Nam ta đối với chữ Tàu vốn có cái “hấp lực” rất
mạnh, cốt là bây giờ dùng chữ nào phải định nghĩa phân minh chữ ấy là đủ.
Nay
nói riêng về sự mượn những danh từ khoa học mới, phải nên phân biệt như sau
này.
Đại
khái các môn học mới của Thái Tây ngày nay chia làm hai hạng: một hạng chuyên
học về “vật giới” (sciences pliysiques et naturelles) nghĩa là những vật
có hình trong thế gian, như hóa học, địa chất học, động vật học, v.v.; một hạng
chuyên học về “tâm giới” (sciences morcdes), nghĩa là những sự vô hình
thuộc về tâm trí người ta, như triết học, mĩ học, tâm lý học, v.v…
Muồn
đặt một lệ chung đại khái làm bằng thì có thể nói rằng bao nhiêu những chữ về
“tâm giới” nên mượn chữ nho nhiều hơn, vì chữ nho về phần ấy vốn giàu lắm và
thâu nhập vào tiếng Nôm cũng đã nhiều; còn những chữ về “vật giới”, thì phần
nhiều hoặc nên tùy hình chất mà đặt tên Nôm cho dễ gọi, hoặc nên theo chữ Tây
mà phiên dịch ra cho tiện hơn, khi nào cần hãy nên mượn chữ nho. Song lệ đó cũng
không thể cho là nhất định hẳn được;
khi mượn chữ đặt tiếng phải tùy nghi châm chước, cầu cho thích đáng.
Ấy là
kể qua tính cách các hạng văn ưa dùng chữ nho ít nhiều thế nào. Đến trình độ
văn cũng là do ở tính cách ấy mà ra, nghĩa là tùy thể văn mà trình độ cao hoặc
thấp, hoặc trung bình. Lối văn phổ thông nói những điều tầm thường cho phần
nhiều người dễ hiểu, thì không cần phải mượn chữ nho mấy tý, chỉ những chữ nào
đã thành thuộc lắm mới nên dùng mà thôi. Thuộc về lối đạo tình tiêu khiển, thì
tiếng Nôm khá
giàu, các thơ Nôm, truyện Nôm, ca Nôm, vè Nôm, đã đầy những tiếng những chữ
sẵn; lại tục ngữ ca dao cũng là cái kho rất phong phú, nhà văn bất tất phải dùng chữ nho cho lắm,
chỉ thỉnh thoảng điểm một vài chữ nho cho nó nổi câu văn mà thôi. Văn kỹ thuật
nghị luận, đã vào bậc cao rồi, như trên kia đã nói cần phần phải mượn chữ nho nhiều hơn các
hạng trên thì lời văn mới được trang nghiêm và khỏi sốc nổi. Đến văn thuyết lý
giảng học là văn cao hơn nhất, mượn chữ nho lại phải nhiều hơn cả, vì tiếng Nôm
quyết không đủ dùng.
Coi đó
thì biết trình độ văn càng cao bao nhiêu lại càng cần dùng chữ nho bấy nhiêu.
Đó cũng là lẽ cố nhiên, vì văn Nôm xưa nay chỉ dùng vào bậc phổ thông mà thôi,
từ văn nghị luận trở lên các cụ ngày xưa không từng viết Nôm bao giờ, cho nên
trình độ văn càng cao lên lại càng phải mượn chữ nhiều mới đủ dùng.
Cách
dùng chữ nho trong văn quốc ngữ phải tùy trình độ văn đã đành rồi, trong khi
dùng chữ các nhà làm văn lại phải cẩn thận về cách kén chọn lựa lọc nữa, dù lối
văn nào cũng vậy. Chữ nho có chữ tục, có chữ nhã, có chữ điểm vào lời Nôm dễ
nghe, làm cho tôn trọng lên, có chữ dùng lẫn với tiếng ta sông sượng khó nghe,
có chữ đặt vào đoạn này thì xứng đáng mà để vào đoạn kia thì bề bộn, khéo biết
dùng cho thanh thoát là tài riêng của nhà văn, không thể định trước được. Người
làm văn khéo thì chữ dùng hồn nhiên, nghĩa là chải chuốt trơn tru, đặt vào lời
Nôm, như hóa thành Nôm, để vào chỗ nào như in vào đấy, tưởng bỏ ra mà đặt chữ
khác thay không được.
Phàm
dùng chữ nên định nghĩa cho rất phân minh, nhất là các danh từ mới. Danh từ mới
là diễn dịch các nghĩa lý mới, dùng phải đường và trúng nghĩa thì hay lắm, nếu
hàm hồ hỗn độn thì không gì hại bằng, vì làm lầm người sau cứ theo đó mà dùng
sai đi. Chữ mới phần nhiều là của Tàu dịch hoặc định nghĩa theo tiếng Âu châu,
nhưng chữ Tàu vốn phong phú, xếp đặt dễ và khéo, vừa đúng nghĩa, vừa gọn ghẽ,
lại vừa hồn nhã, có chữ hay hơn nguyên văn Tây nhiều. Nhà văn ta phải
thuộc các chữ mới mới hiểu rõ được. Cho nên nhiều nhà nho cũ thông chữ nho mà
không hiểu được các chữ nho mới đó, có khi dùng cũng sai lầm như người không
biết chữ vậy.
Tư
tưởng với văn tự phải tiến ngang nhau: có tư tưởng mà không đủ chữ nói, như
phần nhiều các nhà Tây học ngày nay cũng phiền; có chữ dùng mà không hiểu các
nghĩa lý mới, dùng chữ hàm hồ, như phần nhiều các nhà cựu học bây giờ, cũng
bực.
Thường
nghe nhiều người mới đọc qua mấy quyển tân thư Tàu như tập Ẩm băng của
Lương Khải Siêu hay tập Du ký của Khang Hữu Vi, thuộc được ít nhiều chữ
mới, chưa hiểu rõ ý nghĩa thế nào, cầm bút viết tất dùng những chữ: thiên diễn,
đào thải, tiêu cực, tích cực, khách quan, chủ quan, v.v... bấy nhiêu chữ đều có
nghĩa nhất định cả, mà không hiểu rõ thường dùng lộn bậy chẳng đâu vào đâu; lại
nhiều người hay chứng dẫn các tên người, vơ váo chẳng ăn thua vào đâu: bất cứ
nói chuyện gì tất phải gọi đến tên ông Nã Phá Luân (Napoléon) ông Tỉ Ti Mạch
(Bismark)y ông Kha Luân Bố (Chrỉstophe Colomb), ông Đạt Nhĩ Văn (Darwin),
ông Lư Thoa (Rousseau), ông Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu)y ông Ti Tân Tặc (Spencer),
kéo một thôi một sốc các ông Thánh mới ra, thật là vô vị quá. Không hiểu chữ mà
dùng chữ loạn không gì hại bằng. Cho nên trong khi mượn chữ mới của Tàu phải
hiểu rõ những chữ ấy chỉ sự gì vật gì; phải định nghĩa cho phân minh, rồi chỉ
dùng về một nghĩa đó mà thôi. Có vậy thì sự mượn chữ mới có lợi, không thời hại
cho quốc văn nhiều lắm.
Còn
một điều nữa về các tên đất tên người: nên dịch theo tiếng Tây hay bắt chước
chữ Tàu? Cứ lẽ thời theo tiếng Tây cả là phải lắm, chỉ trừ những tên người tên đất
riêng của Tàu thì nên đọc theo chữ nho mà thôi. Nhưng có nhiều tên đất tên
người ta đọc theo của Tàu đã quen rồi (Như Âu châu, Á châu, nước Pháp, nước
Đức, ông Nã Phá Luân, ông Hoa Thịnh Đốn) không ai là không dùng, và không ai là
không hiểu. Vả những tên ấy dịch âm ra giọng mình dễ nghe hơn là đọc ngay giọng
Tây: trong một bài quốc văn, “Âu châu” đọc chẳng dễ nghe hơn là Europe,
“Đại Tây Dương” hơn là Océan Atlantique ư? Vậy nay tưởng có thể định một
lệ chung như sau này: trừ tên các đại châu, các bể lón, cùng mấy cái sông cái
núi lớn trong thế giới, đọc theo chữ nho đã quen lắm rồi thì cứ đọc theo như vậy, có muôn rõ
khi viết nên chua tên ấy ở bên cạnh còn hết thảy tên người tên đất khác trong
sách tây nên đọc theo viết theo tiếng Tây cả cho có bằng cứ và dễ tra khảo.
Ngày nay, dầu người không biết chữ Tây mà chỉ biết quốc ngữ đọc văn Tây cũng
được, có sai cũng không sai mấy, còn hơn là theo hẳn chữ Tàu, vì Tàu đã theo
tiếng nước khác, mình lại theo Tàu, thành ra cách mấy lần, còn biết dò đâu mà
tra cứu được. Như nói: “Dublin, Manchester, Edimbourg là ba tỉnh thành
lớn của nước Anh”: tên “Anh” đó tuy là đọc theo chữ Tàu mà đã thông dụng lắm
rồi, ai cũng biết là Angleterre, cứ nên dùng như vậy, vừa tiện vừa dễ
hơn; còn tên ba thành kia thì ít người biết, nên viết theo chữ Tây, dầu đọc có
sai tiếng Anh ít nhiều mà còn có nguyên văn, muốn tra trong địa đồ cũng dễ; hơn
là đọc theo Tàu: Đô Bội Linh (Dublin) Mãn Triệc Đức Nhĩ (Manchester),
Ai Dính Bộ Nhĩ (Edimbourg), tuy âm vận cũng vẫn dễ nghe, hợp với giọng
ta hơn, nhưng không có chữ Tây thì còn ai biết là tên những tỉnh thành nào? Nếu
có sợ những người không thuộc văn Tây gặp những tên Tây như vậy ở
giữa bài văn quốc ngữ bị ngắt lại không đọc luôn được, thì dưới mỗi tên Tây nên ngoặc hai cái
(...) và chua âm ra chữ quốc ngữ, cũng không phiền gì: như Manchester
(Mang-xet-te), Edimbourg (E-đinh- bua), v.v...
*
Văn
quốc ngữ đã không dời được chữ nho, không thể bỏ chữ nho mà thành được, thì sự
dùng chữ nho trong văn quốc ngữ là một lẽ tất nhiên. Duy phải biết cách dùng
cho phải đường. Trở lên là kể ra mấy cái lệ chung các nhà văn nên
chú ý. Đó cũng là
những điều đại khái mà thôi, còn việc dùng chữ phải tùy cái tài cái khéo của
nhà văn, không thể đặt phép tắc nhất định được. Dùng chữ khéo có thể làm cho
quốc văn mỗi ngày một trang nghiêm phong phú thêm lên.
Bài
này chỉ bàn riêng về sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ mà thôi. Chắc văn quốc
ngữ cũng phải mượn của văn Tây nhiều, vừa mượn chữ, vừa mượn phép làm văn;
nhưng đó lại là một vấn đề khác.
*
Làm
người Việt Nam phải nên yêu, nên quí tiếng nước mình. Phải đặt quốc văn của
mình lên trên cả chữ Tây chữ Tàu. Nhưng yêu quí tiếng nước mình không phải là
ruồng bỏ tiếng nước ngoài. Yêu quí tiếng người mình là phải khéo lợi dụng tiếng
nước ngoài
để làm cho tiếng quôc âm mình giàu có thêm lên. Cho nên
những người vì “thương tiếng nước nhà” mà muôn “bài trừ chữ Hán” là tỏ ra ý kiến thấp hẹp
vậy.
Than
ôi! Thương tiếc nước nhà, thương tiếng nước nhà cũng năm bảy đường. Thương mà
phải đường ra thì ích lợi cho quốc văn
biết dường nào. Thương mà sai đường thì không những không lợi mà lại hại cho
quốc văn hơn là ghét bội phận. Tôi đây chính là một người nhiệt thành thương
tiếng nước nhà, lâu nay đã tự nguyện cúc cung tận tụy một đời để gây dựng cho
tiếng ấy thành văn chương, cho nước ta có một nền quốc văn đứng riêng được một
cõi, cho người mình khỏi phải cái cực chung thân cùng kiếp đi học mướn viết nhờ.
Lắm lúc bình tâm tĩnh trí, tự mình hỏi mình nên dùng cách nào cho đạt tới mục
đích đó. Nghĩ cùng mà không tìm được một cách nào, ngoài cái lề lối của ông cha
để lại. Nhìn ngược, nhìn xuôi, trông xa, trông gần, chỉ thấy rừng “nho” man
mác, là rậm um tùm, muôn thoát ra ngoài mà không thoát được, đi mãi không cùng.
Bấy giờ mới tĩnh ngộ mà biết rằng người mình sinh trưởng trong góc rừng nầy đã
mấy mươi đời, những khi gió táp mưa sa được ẩn thân ở dưới cây cao cỗi lớn, nay
muôn thoát ly mà ra ngoài, bông lông trong đồng rộng bể khơi sao đành? Chi bằng ta cứ nương náu ở đây, mở rộng phá quang, đặt đường
xẻ lối, cho
tiện sự giao thông, để đón lấy gió Âu mưa Mỹ, mà ra công ráng sức tài bồi cho
cái đất cũ mấy nghìn năm này có ngày được rạng vẻ phong quang, tốt tươi đẹp đẽ.
Ai ơi! Xin cố gắng lên, nhưng chớ nên thương quẩn xót quanh mà làm cho người ta
thiên lòng rối trí. Có thương tiếng nước nhà, xin thương cho phải đường./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét