|
Đỗ Thị Ngọc Chi (22 /02/2012)
|
Nghĩ về truyền thống của nền
báo chí cách mạng Việt Nam, suy ngẫm về Vũ Bằng, người đọc nhận thấy những phẩm
chất cao quý của một nhà báo trong ngòi bút của ông. Đó là một con người có
những quan niệm đúng đắn về nghề nghiệp, một nhà báo hay kể tội mình, thành
thực với mảng sáng tối trong con người mình. Hơn hết, dũng khí là phẩm chất nhà
báo đặc biệt trong con người ông. Vũ Bằng đã dựng được bức tranh chân thực về
diện mạo báo chí Việt Nam
trong già nửa thế kỷ XX.
“Người mẹ nào sanh con ra lại chẳng muốn cho
con sau này ăn nên làm ra, có vai có vế, nhưng Mẹ ơi, con đành chịu bất hiếu
với Mẹ: nếu trở lại làm người, con cứ lại xin làm báo” [1].
Kết thúc cuốn hồi ký về nghề nghiệp - Bốn mươi
năm nói láo, Vũ Bằng đã có những lời tâm huyết đến gan ruột như thế. Giờ
đây nghiên cứu về Vũ Bằng nghĩa là đã đặt chân lên “địa hạt” đã được “cày đi
xới lại” nhiều lần. Tuy nhiên việc khám phá về ông chưa có điểm dừng bởi những
nhà văn - nhà báo lớn luôn nhận được tầm đón đợi mạnh mẽ từ bạn đọc. Ở bài viết này, chúng tôi muốn nhìn tác phẩm của ông dưới
ánh sáng lý luận từ góc độ báo chí.
Nghĩ về truyền thống của nền báo chí Cách mạng Việt
Nam, thắp một nén nhang tưởng nhớ đến Vũ Băng, suy ngẫm về tác phẩm của ông,
người cầm bút hôm nay càng thấm thía hơn nhiều bài học bổ ích...
Nhà văn Vũ Bằng (1914-1984) tên thật là Vũ Đăng
Băng, quê gốc ở Lương Ngọc, Hải Dương, sinh tại Hà Nội. Từ nhỏ, ông đã được mẹ
gửi vào trường học Albert Sarraut - một trường trung học Pháp nổi tiếng với
mong muốn Vũ Băng sẽ trở thành một thầy thuốc. Không làm theo nguyện ước của
mẹ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Vũ Bằng đã nhanh
chóng tiếp cận với văn hóa phương Tây và nghề viết báo - một nghề hoàn toàn mới
lạ với trí thức Việt Nam thời đó. Năm 16 tuổi, nhà văn đã say mê
viết văn, viết báo và là cộng tác viên thường xuyên của những tờ báo nổi tiếng
lúc đó như tạp chí Hữu Thanh
và nhật báo Trung Bắc Tân Văn.
Cùng thời gian này, ông trình làng tập tùy bút châm biến Lọ văn - được
người đọc đương thời xếp ngang hàng với Essais của nhà văn Pháp
Montaigne. Đặc biệt, với Miếng ngon Hà Nội, Thương nhớ mười hai, Bốn mươi
năm nói láo, nhà văn đã hoàn toàn chinh phục người đọc và khẳng định được
vị trí độc đáo của mình. Theo nhà báo Thượng Sỹ - bạn chí cốt của Vũ Bằng thì
tác phẩm của Vũ Bằng đã được in có khoảng hai chục cuốn gồm đủ các loại: tùy
bút, phóng sự, truyện dài, truyện ngắn, dịch thuật, hồi ký, khảo luận nhưng nếu
được tuyển chọn, thu thập những bài đã đăng rải rác trên khắp báo chí suốt gần
nửa thế kỷ thì ít nhất cũng được khoảng một trăm cuốn nữa. Có thể nói, sức viết
của nhà văn, nhà báo Vũ Bằng thật là lớn!
Đăng sau những trang hồi ký về nghề nghiệp, người
đọc luôn nhận thấy ở Vũ Bằng - một nhà báo có những quan niệm rât đúng đắn,
nghiêm túc về “nghề nói láo” mà ông sớm dấn thân và theo đuổi suốt cuộc đời.
Vượt qua những nhận thức ấu trĩ, sai lầm ban đầu khi quan niệm về nghề nghiệp
như: “làm báo là nói láo ăn tiền”, mê nghề báo chỉ vì “nó là một nghề
đã oai mà là hốt bạc”; “làm cái anh nhà báo oai biết mấy, danh giá bao nhiêu”;
“làm báo là trò chơi, ai muốn viết gì thì viết, quăng bài vào tòa soạn rồi in
ra, thế là xong, không cần phải có đường lối chánh trị, không cần phải có quan
điểm, lập trường”[1]. Vượt qua nhiều biến cố, tác động ghê gớm, xảy ra với
các tờ báo: báo này đổ, báo kia lại lên, người viết báo thì kẻ mất người còn,
người lại đi xa. Đó là những “cú huých” đánh động vào cách nhìn, vào tâm hồn
nhà báo Vũ Băng tạo nên những thay đổi lớn về nhận thức nghề nghiệp trong ông.
Theo đó, Vũ Băng nhận thức sâu sắc về vấn đề: vận mệnh dân tộc, danh dự đất
nước trở thành vấn đề cấp thiết trong đấu tranh bằng báo chí và văn chương. Ông
cho rằng “thà chịu khổ sở”, thiếu thốn hiểm nghèo chớ không chịu vì tình người
Pháp hay vì tiền của họ mà thay đổi lập trường, chí hướng. Lúc này, với Vũ Bằng,
làm báo là tất cả những sự thiêng liêng, cao cả: “làm báo là làm một cái gì
lớn lao, nói lên được phẩm chất văn minh, hoặc ưu việt, hoặc thoái hóa của một
chế độ và hơn thế nữa, mổ xẻ tình tiết, tâm tư của con người, đi sâu vào khía
cạnh trớ trêu, uẩn khúc và giả tạo của một chế độ chống lại chế độ ấy, nếu cần,
làm cho xã hội vươn lên và cho giống nòi tồn tại và tiến bộ” [1].
Như vậy, trong nhận thức của nhà báo Vũ Bằng về nghề
nghiệp đã có bước tiến dài, một sự thay đổi lớn. Từ việc chỉ coi báo chí là một
trò chơi đến việc coi báo chí là một vũ khí, một lực lượng để đấu tranh “cải
tạo xã hội”, đâu phải nhà báo nào cũng làm được? Trong phần thứ năm của tập
sách Bốn mươi năm nói láo, dưới đề mục “Báo là gì?”, những quan
điểm, luận thuyết, suy nghĩ của Vũ Bằng về nghề nghiệp đã thực sự tạo một gương
mặt Vũ Bằng trong làng báo và trong mắt độc giả - một Vũ Bắng có quan niệm rất
nghiêm túc về nghề nghiệp, luôn trăn trở để sống và viết tốt hơn. Từ đây cũng
bắt đầu một giai đoạn đấu tranh thực sự, đấu tranh không khoan nhượng bằng báo
chí, bằng ngòi bút của các nhà văn - nhà báo thế hệ Vũ Băng. Cho đến nay, người
làm báo đương thời và có lẽ cả hậu thế nữa, vẫn phục ông, học tập ông bởi những
quan niệm đúng đắn: “báo chí là môn văn hóa phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất
tính chất của một chế độ, cho một chế độ xã hội”, đặc
biệt báo chí phải “trung thành với lí tưởng chống áp bức chuộng tiến bộ và
quyền lợi tinh thần đã ủy thác cho nó; báo chí luôn có tính năng đấu tranh và
dựng xây” [1].
Xưa nay, có người vẫn gọi nghề làm báo là nghề “nói
láo ăn tiền”. Với nhà báoVũ Bằng, mặc dù vào nghề đã lâu, vậy mà mỗi lần nghĩ
về kí ức nghề nghiệp, ông vẫn nhận ngay là mình làm nghề “nói láo”. Vì thế tác
giả đã lấy nhan đề tập ký ức nghề nghiệp là Bốn mươi năm nói láo chứ
không đề là “Bốn mươi năm làm báo”. Bởi Vũ Bằng nhận thấy rằng: “nói
láo” là một vinh dự, làm nghề “nói láo” là làm một nghề đặc biệt cao quý, lãnh
một sứ mạng quan trọng là “hướng dẫn dư luận... phụng sự lớn mạnh vào bực thứ tư trên
trái đất này” [1].
Là một nhà văn, một tiểu thuyết gia, một người mà Vũ
Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” xếp vào cây bút phóng sự tả chân xuât sắc, Vũ
Bằng đã cho độc giả thấy những tư liệu quý chân thực, đầy thú vị về nghề báo.
“Nói láo” mà là nói thật, sự thật về đời sống báo chí Việt Nam trong già
nửa thế kỷ XX. “Đó là lịch sử của một kiếp sống, gắn theo nhiều người, cùng
theo đuổi một nghề và cùng nuôi một hoài bão như nhau” [1]. Dưới ngòi bút
Vũ Băng, bao nhiêu cái thăng trầm được mất, cái hay cái dở của mấy chục tờ báo
có tên tuổi trải dọc suốt bốn mươi năm của thế kỷ XX được hiện lên một cách
thuyết phục, sắc sảo, có lý có tình. Như một chứng nhân, một người hoạt động
dài hơi (kể từ khi mới bắt đầu lớn lên đến khi lìa đời vẫn chưa chịu quẳng
bút), Vũ Bằng đã khắc họa rất rõ một bức tranh chân thực về diện mạo báo chí
Việt Nam: từ “Báo tếu” đến “Báo đấu tranh”, từ “Báo xây dựng” đến “Báo hại”.
Cũng nhờ trang viết của Vũ Băng, người đọc hiểu hơn sự ra đời, hoạt động, phát
triển của phong trào Đông Tây, Tiểu thuyết thứ bảy, Trung Việt Tân Văn... Ông đã dựng nên dòng chảy báo
giới nước ta băng những tư liệu quý hiếm với bức tranh báo chí khá sống động mà
ngày nay chúng ta nên nhìn ngắm lại. Nếu có thời kì ta quên nó hoặc không công
bằng với nó, vô hình chung chúng ta đã làm nghèo đi, thậm chí đánh mât một mảng
quan trọng của đời sống tinh thần và trí tuệ dân tộc nước nhà.
Bức tranh sinh động của diện mạo báo chí công khai,
tự do nước nhà được Vũ Bằng đặt trong bầu khí quyển của những biến động lịch sử
văn nghệ dân tộc và cả tình hình chính trị - xã hội đầy phức tạp của một đât
nước có chiến tranh. Có lẽ không thể thống kê hết những dòng chữ như những tư
liệu quý của Vũ Bằng. Hãy nghe ông ghi về hoạt động của tờ Vịt Đực: “Báo
Vịt Đực không nghỉ một số nào. Trụ sở từ đường Cột Cờ dọn lại phố nhà thương
Phủ Doãn trên một cái gác bé nhỏ, oi bức. Nhớ vì chi tiêu ít, mà cũng may là có
một vài sự việc xảy ra, báo lên lần lần” [1]. Nhà báo ấy cũng cập đến là:
Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Băng và Tô Hoài. Nguyễn Công Hoan được Vũ
Ngọc Phan viết trong 29 trang, Nguyễn Đình Lạp được viết trong 6 trang, Tô Hoài
15 trang và Vũ Băng được viết trong 19 trang. Tuy Vũ Ngọc Phan còn dè dặt khi
viết về Vũ Băng nhưng chứng tỏ từ năm 40 của thế kỉ XX, Vũ Bằng đã thuộc lớp
nhà văn có hạng.
Thấu hiểu hơn ai hết tình hình báo chí của một đất
nước trong lửa đạn: “chiến tranh tàn khốc nào có muốn cây có trồi, bông có
trái, người có con, xuân có bướm, khói lửa tràn lan từ hậu phương ” và rồi “sự
hiện diện của người Mỹ ở Việt Nam đã rõ rệt hơn. Pháp bắt đầu lúng túng. Báo
chí của ta đã trải qua một thời kỳ đặc biệt hoang mang vì tình thế rối ren gây
ra thất bại liên tiếp của quân đội Pháp” [1]. Nhưng trong ngay chính thời
đại binh lửa ấy, người đọc cũng được chứng kiến tình cảm của những người dân
nơi tản cư với những người làm báo lao động ở khu Ba: “Những ngày kháng
chiến đầu tiên ở hậu phương thật là cực khổ nhưng cũng thật là vui lạ (...)
Ngày tháng nặng nề trôi, đời sống thiếu thốn đủ mọi cách nhưng lòng người hả hê
như chết mà sống lại... đồng bào thương xót nhau như ruột thịt; người
dân giúp đỡ nhau thực tình; anh lính ho thì người dân thấy ngực mình đau nhói”
[1]. Những biến chuyển đến chóng mặt trong cơn lốc báo chí thời Mỹ - Ngụy mà Vũ
Băng gọi là thời kì Báo hại và những biến cố xảy ra trước những tác động
ghê gớm của tình hình chính trị, xã hội, văn hóa trong nước cũng như thế giới,
báo này đổ, báo kia lại lên. Tất cả được Vũ Bằng kể lại một cách chân thực.
Có thể nói, hiếm thấy tác phẩm văn học nào dựng lại
bức tranh toàn diện về hiện thực đời sống báo giới Việt Nam hơn Bốn
mươi năm nói láo. Đọc tác phẩm của Vũ Băng, người đọc có cảm giác như đang
đọc báo chí Việt Nam
trong già nửa thế kỷ XX. Hơn thế, không chỉ xây dựng bức tranh lịch sử báo chí
nước nhà trong sự vận động của các sự kiện đã và đang diễn ra, Vũ Bằng còn tạo
nên hình ảnh của báo chí ngày mai. Nhà văn thấm thía: “nước còn hay mất, dân
tộc sướng hay khổ là ở trong tay thanh niên” [1]. Vũ Băng tỏ ra tin tưởng
vào diện mạo của báo chí Việt Nam trong tương lai bởi có những con người nhất
là các “thanh niên thương mến” trong nghề báo biết học hỏi, biết cầu tiến và
không bạc bẽo với những đàn anh về nghề báo. Vũ Bằng khẳng định và hy vọng bộ
mặt của báo chí trong tương lai bằng một niềm vui phơi phới: “Rừng có không
biết bao nhiêu cây cối: cây này chết đi, cây kia lại mọc lên, nhưng các cây
chết đi và những lá vàng kế tiếp rụng xuống hết mùa này qua mùa khác không phải
là làm việc vô ích mà chính là để hòa vào với đất rồi ải đi, mủn đi, để làm màu
cho đất, nuôi những cây lớn đâm chồi nảy lộc” [1].
Vũ Bằng không chỉ dựng lại bức tranh hiện thực đời
sống báo chí Việt Nam mà ông còn phác họa được chân dung những nhà văn - nhà
báo có tên tuổi như Thanh Châu, Ngọc Giao, Trần Huyền Trân, Tô Hoài, Thâm Tâm,
đặc biệt là Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng.... Con người đó
luôn nhớ tiếc, trân trọng về một thời làm báo với những bạn bè, văn nhân một
thuở. Chúng ta có cảm giác, khắp trang viết của Vũ Bằng đâu đâu cũng thấy được
khoác bằng chiếc áo nhớ thương. Vũ Bằng đã “kéo nỗi nhớ thương ấy đi qua
nhiều tác phẩm, rót đầy vào mỗi trang viết, rõ thấm vào từng con chữ”[2].
Nỗi nhớ ấy có căn nguyên bởi Vũ Bằng xa quê hương trong hoàn cảnh đặc biệt. Đất
nước phân đôi hai miền Nam - Bắc. Năm 1954, Vũ Bằng nhận nhiệm vụ là một chiến
sĩ tình báo hoạt động cách mạng trong lòng địch. Đã có 40 năm gắn bó với Hà Nội
- Bắc Việt, nhà văn đã thân thuộc với không gian văn hóa nơi đây. Hà Nội - Bắc
Việt đã “hóa tâm hồn” thành máu xương không thể thiếu trong cơ thể Vũ
Bằng. Như một cây non đang phát triển đầy sức sống trên vùng châu thổ thích hợp
nay bị đánh bật rễ sang mảnh đất khác, Sài Gòn với Vũ Bằng chỉ là nơi duy trì
sự sống và hoạt động cách mạng. Tâm hồn ông luôn hướng về nơi ông sinh ta và
lớn lên mà ở đó có gia đình, bạn bè đồng nghiệp, có những năm tháng không thể
nào quên của một thời ông đã từng sống và viết. Vì thế nỗi sầu xứ của Vũ Bằng
mang bóng hình của một con người đơn côi luôn “giơ hai bàn tay lên đếm, đếm
một tháng, một ngày, một năm, một đời”[3] trong vòm trời thương nhớ. Con
người ấy bơ vơ trên khắp mọi nẻo đường của hiện tại nên nhớ về gia đình, bạn bè
đồng nghiệp thực chất là cuộc hành trình tìm lại con người của chính mình trong
mấy chục năm về trước. Đằng sau chân dung tinh thần của Vũ Bằng (qua sự phơi
trải nỗi niềm của tác giả trên những trang viết), người đọc nhận ra chân dung
của những nhà văn - những người làm báo với ông một thuở. Kì diệu thay, đó là
những chân dung được dệt nên từ nỗi nhớ - chân dung hồi ức, hoài niệm. Họ là
những bạn bè cùng thế hệ, những đồng nghiệp gần gũi thân tình, những người cùng
hội cùng thuyền.nay kẻ còn người mất, kẻ Bắc người Nam. Tình cảm thiêng liêng ấy đã
theo Vũ Bằng suốt cuộc đời. Cho nên khi cầm bút ghi lại một quãng đời sôi động,
đầy biến cố của mình trên làng báo, Vũ Bằng không thể không nhắc tới họ như một
sự tri ân. Khi đọc những dòng tiếc nhớ, trân trọng của Vũ Bằng về một thời làm
báo với bạn bè, đồng nghiệp giữa đất Hà Thành, ta nhận ra những tình cảm không
nhỏ mà Vũ Bằng dành cho các nhà văn - nhà báo tên tuổi như Thanh Châu, Ngọc
Giao, Trần Huyền Trân, Tô Hoài, Thâm Tâm và đặc biệt với với Nguyễn Tuân, Ngô
Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng. Ông khắc họa chân dung về họ thật tự nhiên,
chân thực và đầy tôn trọng. Có lẽ khi viết về những dòng này về họ, Vũ Bằng
muốn lấy cái kỉ niệm của những năm tháng không thể quên để khỏa lấp phần nào
cái trống vắng nơi phồn hoa đô thị Sài Gòn mà ông đang sống, đặc biệt với những
biến chuyển đến chóng mặt trong cơn lốc báo chí thời Mỹ - ngụy, thời kỳ “báo
hại”. Đây không chỉ là cách ông ôn lại những kỷ niệm của một thời mà còn là
cách để nhà văn bộc lộ niềm khao khát tự do dân chủ và sự ý thức, tranh đấu không
nguôi cho thân phận của những người dân ở một nước bị nô lệ, bị áp bức.
Chân dung của cả một thế hệ những nhà văn - nhà báo
thế kỷ XX dưới ngòi bút Vũ Bằng được hiện lên với chất đời thường sắc nét. Ông
đặt họ vào trong những quan hệ thông thường của đời sống hằng ngày: quan hệ với
vợ con, gia đình, quan hệ với ông chủ, đặc biệt quan hệ với gánh nặng áo cơm.
Đọc những dòng chữ của Vũ Bằng khi viết về vấn đề này, ta chợt nhớ đến hình ảnh
những trí thức tiểu tư sản nghèo trong mối lo cơm áo gạo tiền đã được khá nhiều
những cây bút đề cập. Nếu như Xuân Diệu thừa nhận: “Nỗi đời cay cực đang giơ
vuốt. Cơm áo không đùa với khách thơ” thì Vũ Bằng viết về điều đó với đầy
đủ những cung bậc hiện thực sắc nét và cả sự cảm thông sâu sắc. Hãy nghe Vũ
Băng chia sẻ về đời sống của nhà thơ Thâm Tâm: “Anh Thâm Tâm lúc ấy ở Nhà
Diêm với đại gia đình. Mấy em gái sống bằng nghề đóng sách mướn cho các nhà
xuất bản, kiếm ăn chật vật. Được đồng nào, anh chỉ mang về cho gia đình được
một ít.còn phải trả lại anh em nên trong nhà ít khi có đủ tiền tiêu. Thâm Tâm
phải vay trước tiền của nhà báo[1]. So với Thâm Tâm, Trần Huyền Trân
và Nam Cao còn đáng thương hơn. Theo lời kể của Vũ Băng, Trần Huyền Trân “viết
truyện thì hay và thơ thì tuyệt nhưng thông thường mỗi tháng phải nhịn ăn ít nhất
năm, sáu ngày”. Cũng qua trang văn Vũ Bằng, ta biết đến đăng sau một Nam
Cao - cây bút hiện thực phê phán xuất sắc là người “nghèo nhất tỉnh Nam Định, bần
cùng bất đắc chí lắm mới chịu hớt tóc vì tiền chi tiêu trong nhà, anh phải tính
toán từng đồng xu. Ngoài số nhuận bút hàng tháng, tất cả gia đình anh trông vào
một giàn trầu mà bà anh vừa ăn vừa đem ra chợ bán lấy tiền nuôi thêm các cháu”[1].
Vũ Trọng Phụng cũng vậy: thật nghèo khổ, túng quẫn. Vũ Bằng viết về ông vua
phóng sự đất Bắc đầy lòng cảm thông và trắc ẩn. Qua dòng hồi ức của Vũ Băng, Vũ
Trọng Phụng hiện lên “phủ phục xuống giường như con voi viết tiếp, mắt hiếng
hẳn đi mà lưỡi lè ra như con thằn lằn (...) vừa viết vừa chửi thề sao mình lại
khổ đến thế này, cứ phải viết mới có tiền sanh sống”. Vũ Bằng còn rât rõ
câu nói của Vũ Trọng Phụng: Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn thì
đâu có phải sống khổ sở như vậy [1].
Khi viết về mỗi nhà văn - nhà báo, Vũ Bằng không
quên khẳng định những đóng góp của họ vào nền văn học và báo chí Việt Nam. Vũ Bằng
khẳng định “anh em văn nghệ sỹ góp công vào việc xây dựng ba tờ báo đó thật
đông và kỳ lạ, y như một cảnh vườn có trăm hoa đua nở’ ’ [1]. Có những đánh
giá của Vũ Băng về các nhà văn, nhà báo ra đời vào thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XX
nhưng phải đến nhiều năm sau giới nghiên cứu mới đạt được, thậm chí cho đến bây
giờ, nó vẫn còn đang mới mẻ. Nếu như giới nghiên cứu văn hóa, văn học của ta
còn mắc nợ với những tên tuổi như Nguyễn Văn Vĩnh, Vũ Đình Long, Thanh Châu…
thì những trang văn của Vũ Bằng về những cây bút này thật là những tư liệu quý
và bổ ích cho những ai muốn tiếp tục nghiên cứu về cuộc đời cũng như sự nghiệp
của họ. Đằng sau những dòng chữ của Vũ Bằng, người đọc cảm nhận được phẩm chất
của một nhà phê bình toát ra từ ngòi bút của ông với sự am hiểu sâu sắc và nghệ
thuật viết chân dung văn học đầy tài năng, sắc sảo. Chẳng hạn, Vũ Bằng nhận xét
về Thanh Châu: “Thanh Châu vừa viết Tiểu thuyết thứ bảy vừa học thêm, lúc
nào cũng cầu tiến, lúc nào cũng phục thiện, và có một cái tính đáng khen là
không có tiền không sao, chớ phàm đã viết thì phải thích, chớ không viết miễn
cưỡng”[1]. Vũ Bằng cắt nghĩa vì sao lúc ra ngoài kháng chiến Thanh Châu cho
ra đời không nhiều tác phẩm bởi Thanh Châu không mấy tha thiết đến danh tiếng,
đến tiền tài. Anh còn trẻ, lại đủ xài, cho nên anh muốn sống cho mình nhiều
hơn, sống với nội tâm một mặt, và mặt khác hưởng lạc, nhưng luôn luôn gìn
giữ chớ không sa đọa. Vũ Bằng đánh giá cao tài năng của Thanh Châu. Ông
khâm phục Thanh Châu ở sự đọc nhiều mà lại có tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt sự việc
gì cũng rung cảm mà lại viết rất nhanh, rất khỏe. Ngoài ra, Vũ Bằng giúp chúng
ta hiểu hơn về đóng góp của Vũ Đình Long với sự phát triển và hoạt động của Tiểu
thuyết thứ bảy. Trong hồi ức của Vũ Bằng, Vũ Đình Long là một người tự
tay làm hết các công việc của báo: từ việc đọc các bài của độc giả... đến
cách sắp đặt trang báo, trình bày tranh vẽ, và chọn lựa tiểu thuyết Tàu, Tây để dịch. Một nhà báo lớn, tài năng như Vũ Bằng
cũng phải thừa nhận đã đọc được rất nhiều điều hữu ích từ Vũ Đình Long. Tài
năng của Nguyễn Văn Vĩnh cũng xứng đáng với lời ngợi ca hết mực của Vũ Bằng: “Thú
thực cho đến bây giờ, tôi sợ nhiều người nhưng chưa sợ gì như sợ cái tài viết
của Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi vẫn chưa thấy có ai viết báo nhiều loại khác nhau một
cách tài tình và nghĩa lý như ông Vĩnh”[1].
Vẻ đẹp hình tượng của rât nhiều chân dung văn học -
báo chí được hiện lên qua những “định giá” đầy ý nghĩa nơi ngòi bút Vũ Băng.
Với một người cả đời làm báo, từng trải và đặc biệt am hiểu nghề báo chí, Vũ Bằng
có cái riêng để tồn tại trong địa hạt văn học. Thông qua chân dung những nhà
văn, nhà báo, Vũ Bằng đã giúp người đọc hiểu và yêu thêm những cây bút có tên
tuổi của dân tộc. Người đọc, qua trang viết của Vũ Bằng, cũng cảm nhận rõ hơn
tình hình chính trị, văn học và báo chí nước ta nhất là từ đầu thế kỉ XX đến
năm 1945 ở miền Bắc cũng như giai đoạn sau năm 1945 ở đô thị Sài Gòn tạm chiếm
miền Nam.
Đến lượt mình, những chân dung nghệ sỹ được Vũ Bằng khắc họa cũng giúp ta nhận
ra một Vũ Băng - cây bút không thể thiếu được trong đội ngũ những người làm nên
diện mạo văn học, văn hóa của dân tộc Việt Nam đến thế kỷ XX.
Nếu như đây đó chúng ta vẫn bắt gặp những cuốn gọi
là “hồi ký” song nội dung chủ yếu là để thanh minh hoặc đánh bóng tên tuổi thì
điều đó sẽ rất khó gặp ở nhà văn - nhà báo Vũ Bằng.
Ngày nay, khi nhận thức về “bản chất người”, chúng
ta thường không dừng lại ở việc xem “con người là tổng hòa của các mối quan hệ
xã hội” mà tiến tới việc nhận thức sâu hơn “mỗi con người là một tiểu vũ trụ”.
Điều này, cũng có nghĩa là, cái Tôi cá nhân được đề cao, thừa nhận “mỗi số
phận chứa một phần lịch sử” (Khchrapchenco). Thế giới nội tâm với những bí
mật không cùng, càng ngày càng mời gọi con người đi sâu khám phá với những
chiều kích khác nhau của nó. Những người nghệ sĩ, hơn ai hết là những người
tiên phong đi sâu khám phá những bí mật nội tâm của bản thân mình và gửi gắm
vào trong tác phẩm như một sự đề xuất cách lý giải riêng về cuộc sống. Vũ Bằng
cũng vậy, sống với cả hai tư cách: tư cách một con người và tư cách một nhà văn
- tình báo, chắc chắn ông có rất nhiều những nỗi niềm, những tâm sự không thể
nói hết trong vài câu, vài dòng. Vì vậy, trang văn là nơi để ông kí thác, giãi
bày tất cả.
Đóng vai trò là tác giả cuốn hồi ký nghề nghiệp, Vũ
Bằng trong Bốn mươi năm nói láo không quá “chăm bẵm” cái Tôi của mình.
Đúng như lời nhận xét của một nhà phê bình: “Cái Tôi của Vũ Bằng mịn màng
giữa bao khuôn hình khác. Ông thuật chuyện mình, chuyện bạn bè đồng nghiệp suốt
đời làm báo thuê cho các nhà tư sản nhưng ông không hề nói điều gì xúc phạm đến
hệ thống báo chí ở phía bên kia chỗ đứng của ông”[4]. Nếu như người đọc
cũng đã từng biết đến một Vũ Băng “vọc vạc, to béo” như lời miêu tả của
Tô Hoài, một Vũ Băng “mập tròn quay, nước da ngăm đen, đôi mắt ti hí thật
ranh mãnh, nụ cười mỉa mai trào lộng nở trên đôi môi thâm xì, là người nghịch
nhất của làng văn Bắc Hà thời tiền chiến” như lời khắc họa của Nguyễn Vỹ
thì ở bài viết này, chúng tôi không có ý định đi cắt nghĩa một Vũ Bằng với
ngoại hình như thế mà muốn đi sâu vào thế giới tinh thần, vào “tiểu vũ trụ” đầy
bí mật của một nhà báo - người đã làm việc không cùng cho nghề báo. Đó thực sự
là bức chân dung của Vũ Bằng với nghề báo. Làm báo, đó là tất cả nhiệt thành và
tâm huyết của cuộc đời ông.
Điều đặc biệt mà chúng tôi nhận thấy ở Vũ Bằng - ấy
là một nhà báo luôn “tự giễu” mình, dũng cảm dám đối diện với những cái xâu
trong bản thân mình. Bên trong mỗi con người, như đã nói, là cả một tiểu vũ trụ
chứa đầy bí mật, là sự giao tranh của tốt – xấu, của rồng phượng lẫn rắn rết.
Tiến hành những cuộc tự kiểm thảo chính mình dưới sự điều khiển của “tòa án
lương tâm” không phải ai cũng dám làm. Trước đây, từ khi Tô Hoài nhận xét về
Nam Cao - một nhà văn luôn trăn trở, day dứt để sống và viết tốt hơn, Tô Hoài
đã gọi Nam Cao bằng cái tên đầy sự trìu mến và niềm ngưỡng vọng - “người trí
thức trung thực vô ngần”. Nay, đứng trước nhà báo Vũ Bằng, chúng tôi cũng “mạn
phép” mượn cách nói ấy của Tô Hoài để nói về Vũ Bằng: Vũ Bằng - một nhà báo
trung thực vô ngần! Theo chúng tôi, dám tiến hành những cuộc xét duyệt tâm
hồn như thế, còn có cả sự dũng cảm nơi Vũ Bằng nữa.
Qua những trang viết, Vũ Bằng dường như quá yêu, say
cái đẹp nên ông cũng có cảm xúc, thái độ mãnh liệt trước cái xấu. Một Vũ Bằng
nhiệt thành ngợi ca cái đẹp bao nhiêu thì cũng có một Vũ Bằng phê phán, giễu
nhại trước những cái xấu bấy nhiêu, nhất là cái xấu của chính mình! Nếu như ở
hồi ký Cai, Vũ Bằng không chỉ dừng lại ở việc giãi bày những tâm tư tình
cảm, nỗi niềm của mình trong quá khứ mà thông qua việc tái hiện một cách đầy đủ
và chân thật những hành động, việc làm sai trái của mình, Vũ Bằng còn gián tiếp
thể hiện thái độ không đồng tình với những yếu kém, chưa hoàn thiện trong chính
bản thân. Đó là sự yếu kém, sa ngã và thái độ “thỏa hiệp” với những cái xấu của
chính ông. Đó là thói tự phụ, sĩ diện hão của tuổi trẻ đã đây ông trượt nhanh
vào sự sa đọa. Vì thế, trong tác phẩm Cai, ta nhận thấy Vũ Bằng không
ngần ngại tự nhận mình là: “kẻ rồ dại”, “thăng hủi”, “thăng bần cùng thối
thây”, “là quái gì chứ không phải là người” [5] như một sự phê phán trực tiếp
bản thân mình. Ở Bốn mươi năm nói láo, nhiệt tình phê phán, luôn “kể
tội” mình ấy của Vũ Bằng được bộc lộ một cách mạnh mẽ ở giọng điệu, văn phong
và cách sử dụng ngôn từ.
Nó tập trung trước hết vào bản thân ông. Điều này vô
hình chung đã hỗ trợ đắc lực cho việc bộc lộ chính con người Vũ Bằng. Hãy nghe
Vũ Bằng viết về sự kiện đầu tiên quan trọng đến với cuộc đời làm báo của ông: “Bài
báo thứ nhất của tôi đã viết hồi Phạm Tất Đắc xuất bản cuốn Chiêu hồn nước. Bài
báo ấy vẻn vẹn có mấy câu đại khái. “Chúng tôi xin biếu quý báo cuốn sách nhỏ
này, nếu tiện cho đăng mấy dòng sau đây: Sách Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc
đã có bán ở khắp các hiệu sách, rất hay, rất lâm ly, xin hải nội chư quân tử
tìm đọc ngay kẻo hết”. Cái bài đặc biệt dờ dẫn đến thế mà có báo hồi ấy đăng
lên thật. Tôi đọc đi đọc lại mãi đến thuộc lòng; chưa đủ, tôi cắt ra dán vào
anbum. Và từ đó tôi thấy mình là nhà báo thực sự mà chính tôi không tự biết,
cũng như ông Jourdain trong hài kịch “Trưởng giả học làm sang” của Molie’re nói
lên văn xuôi mà không biết mình làm văn xuôi”[1]. Ở đây, Vũ Bằng muốn giễu
cái bệnh “dốt mà không tự biết mình dốt”, “trưởng giả học làm sang” của chính mình.
Nhại một câu nói của một bậc tiền nhân: “Nghề báo
đưa người ta đến bất cứ đâu”, Vũ Bằng vận ngay để giễu những chuyện thực của
mình: “Nghề báo đưa người ta đến bất cứ nơi đâu. Thì quả như thế thật: nghề báo
đưa tôi đến chỗ trốn học, nói dối, nhưng chưa đủ, nó còn đưa tôi đi xa hơn thế
nữa”. Chưa hết, Vũ Bằng còn tự phê phán thói nhát gan, giả dối nhưng lại “hợm
một cây” của mình như sau: “Không chửi Tây được như ai (vì tôi sợ bị Tây bắt ra
Côn Đảo) tôi bèn buộc ngay lên cổ tôi một thứ bịnh: bịnh chán đời. Tôi làm ra
vẻ chán chường thế sự, uât ức vì những cảnh chướng tai gai mắt, đât nước lầm
than, tìm đủ các cách trác táng hình hài, tìm đủ các cách để hủy hoại mình đi”.
Vũ Bằng cũng không ngại “lột mặt nạ” của kẻ tự cho mình là quan trọng lắm, khi
được phân công làm “thư ký” với trách nhiệm sửa sang bài vở: “Nghe thấy mang
máng rằng làm thư ký tòa soạn báo thì phải sửa văn người khác, tôi cũng trịnh
trọng gạch xóa, lộn câu đầu xuống đít, rồi tâm tắc tự cho mình là bảnh lắm”[1].
Đến với Bốn mươi năm nói láo, bạn đọc có thể tìm thấy những dòng giễu
nhại như thế có mặt dày đặc trong những chương đầu, đặc biệt là những chương Vũ
Bằng viết về thời tuổi trẻ đầy ngông cuồng của ông, thời “báo tếu”. Rõ ràng, Vũ
Bằng đã hoàn thành “bức biếm họa” về chân dung mình trước độc giả.
Ý thức “bổn phận” và sứ mệnh người cầm bút, Vũ Bằng
luôn luôn tỏ rõ dũng khí của người làm báo một cách khiêm nhường và kín đáo. Từ
thời Pháp cai quản Hà Nội đến thời hoạt động ở Sài Gòn Vũ Bằng không bao giờ
“bẻ cong ngòi bút”. Ông luôn “đứng về phe nước mắt” nói lên bao nỗi oan khiên
của những con người lao động trong thế giới cần lao. Ông cho rằng “thà chịu khổ
sở”, thiếu thốn hiểm nghèo chớ không chịu vì tình người Pháp hay vì tiền của họ
mà thay đổi lập trường, chí hướng. Trên nhiều trang viết, Vũ Bằng không giấu
được nét trăn trở tinh thần một con người tuy chưa bao giờ biết đến nghèo khổ
nhưng luôn ý thức được rừng mình cũng chỉ là công dân, là người viết báo của
một đất nước bị áp bức, bị nô lệ. Người đọc vẫn còn nhớ rất rõ câu chuyện về
thời Pháp thuộc, trong một lần, Vũ Bằng chạm trán trực tiếp với một nhân vật có
uy quyền người Mỹ và giới làm văn làm báo đất Hà Thành: “Một hôm, tổng giám đốc
người Mỹ - Gregory ở Sài Gòn ra Hà Nội, mời tôi sang phòng thông tin nói
chuyện, có Metcaffe và Donell cùng dự thính. Sau một tiếng đồng hồ nói chuyện
về văn hóa văn nghệ, tâm lý của quảng đại quần chúng Việt Nam, Gregory đưa ra
một đề nghị: dịch một ít sách vui của Mỹ cho dân chúng đọc. Ông hỏi tôi đã đọc
cuốn “L’Oeuf et Moi” chưa, tôi gật đầu. Ông nhờ tôi dịch. Tôi nói:
- Tôi không dịch.
Gregory trợn tròn con mắt, hỏi: Sao lại không dịch?.
- Là vì thế này: Người Việt Nam cười khác người Mỹ. Tôi không biết người Mỹ
xem cuốn “L’Oerf et Moi”thì cười ra sao, chớ tôi dám chắc răng, nếu dịch cuốn
sách ấy ra thì người Việt Nam
không thể nào cười được, dù có cù vào nách họ. Gregory lại tròn mắt lên: Sao
lại không cười? Thấy “tác phong Mỹ” của Gregory lúc ây hiện ra rõ rệt, tôi muốn
sửng cồ lên ngay, nhưng cố nén lòng, trả lời một cách châm biếm nhưng lễ độ:
- Thưa ông Gregory, người Việt Nam không cười
là vì họ không buồn cười. Thế thôi, và ... hết! Ông mời tôi đến đây là để nhờ
tôi dịch sách, chớ không phải tôi đến xin ông việc, hay để ông chất vấn tôi.
Chào ông!” [1].
Một câu chuyện nhỏ nhưng là bức thông điệp lớn của
Vũ Bằng gửi đến với người cầm bút: dũng khí là phẩm chât quan trọng hàng đầu
của người cầm bút, bởi báo chí không chỉ phản ánh thông tin khách quan mà ngòi
bút của nhà báo chính là vũ khí quan trọng để đâu tranh cải tạo xã hội. Hơn ai
hết, người cầm bút phải là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Dũng khí người
cầm bút của Vũ Băng không chỉ bày tỏ trên các trang báo mà còn bộc lộ không
khoan nhượng trong những cuộc “đụng đầu” với người Mỹ, người Pháp, người Nhật,
ngay cả với những nhân vật chóp bu trong hệ thống kiểm duyệt của chế độ cũ Sài
Gòn trước kia.
5. Lời kết
Trung thực vô ngần với những mảng sáng tối trong
chính con người mình; một quan niệm đúng đắn về nghề nghiệp; luôn trân trọng,
tiếc nhớ một thời làm báo với bạn bè, đồng nghiệp. Đó là điểm hội tụ những phẩm
chất của một nhà báo chân chính. Và chân dung nhà báo Vũ Băng còn được hoàn
thiện hơn bởi vẻ đẹp: yêu nghề, tâm huyết với nghề nghiệp. Không có gì là khó
hiểu nếu trong mắt bạn đọc, đằng sau một chân dung Vũ Bằng không giâu giếm kể
về ngày xưa, lao vào hút xách chơi bời; dân vào các cuộc chơi đầy hưởng thụ;
con người chưa có gan đặt chân trực tiếp vào đời sống kháng chiến của dân tộc
lại là người sống không cùng với nghề báo. Vũ Bằng đã thật sự chiếm trọn tình
cảm trong lòng bạn đọc bởi đức tính say mê và nhập cuộc đó với nghề nghiệp. Ông
luôn thổn thức, trăn trở day dứt với nghề cho đến hơi thở cuối cùng:
“Lúc ít tuổi, coi cái gì cũng là thường cả,
không trân trọng, sự sống chỉ là một trò chơi, làm báo chỉ là giải trí; đến khi
lớn tuổi, thâu được ý kinh nghiệm xót xa và kiến thức thông thường, manh nha
nhận thức được các tầm lớn rộng và tất cả sự nghiêm trọng của nghề mình thì mình
đã già rồi (...) Mẹ ơi, con đành chịu bất hiếu với Mẹ: nếu trở lại làm người,
con cứ lại xin làm báo” [1].
Xưa vua Lê Thánh Tông có nói: “Giấy làm ruộng,
bút làm cày”. Vũ Bằng đã “cày” trên mảnh đất màu mỡ và gieo vào đó hạt
giống tốt nhất của mình mà trái ngọt của nó, chính chúng ta - những hậu thế của
ông đang tận hưởng. Tôi tin rằng trong hành trang của những nhà báo chân chính
hôm nay, sẽ mang theo không ít những bài học bổ ích từ ngòi bút Vũ Bằng - một
bậc đàn anh trong báo giới.
Tài liệu tham khảo
[1] Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
[2] Văn Giá, Vũ Bằng- Bên trời thương nhớ,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
[3] Tô Hoài, Vũ Bằng “Thương nhớ mười hai”,
NXB Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1991
[4] Phạm Ngọc Luật, Cảm nhận khi đọc lại Bốn mươi
năm nói láo (chuẩn bị cho tái bản lần đầu), báo Người Hà Nội ngày
22/06/1996.
[5] Vũ Bằng, Cai, NXB Văn hóa Thông tin, Hà
Nội, 2002.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét