|
PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ
Trường ĐHKHXH
& NV, ĐHQG Hà Nội
|
Trong xã hội Việt Nam
truyền thống, nho sĩ (sĩ) là giới đứng đầu trong bảng xếp hạng “tứ dân”
(sĩ
- nông - công - thương), thiên nhiều về mặt danh nghĩa. Trên thực tế,
đó là một tầng lớp dọc, có gốc ăn khá sâu trong khối quần chúng bình
dân, còn đỉnh thì vươn tới đẳng cấp thượng lưu thống trị. Cùng nằm trong giới
đó, có nhiều bộ phận nho sĩ với những thân phận rất khác nhau. Có những nho sinh
bình dân đang dùi mài kinh sử, chưa hề đỗ đạt gì hoặc nhiều lần thi hỏng (hàn
nho). Có những nho sĩ thành đạt trong khoa bảng và quan tước (hiển nho),
đó là bộ phận nho sĩ - quan liêu. Lại cũng có những nho sĩ đã từng làm quan, vì
nhiều lý do đã treo ấn từ quan về nhà ở ẩn (ẩn nho).
Ở đây, chúng ta muốn xét đến những nho sĩ - quan liêu (đương tại chức
hoặc không còn chức), kể cả một số ít nho sĩ thực thụ nhưng tự nguyện không đi
thi hoặc không chịu ra làm quan. Phần lớn họ đều xuất thân từ những gia đinh bình
dân ở nông thôn, là những thanh niên có chí học hành, với mộng ước “đi
học, đi thi để làm quan”, vì ngày xưa đó là con đường độc đạo để tiến
thân. Sau hàng hơn chục năm đèn sách, lên kinh ứng thí, một số khá ít trong họ
đã may mắn có tên trên bảng vàng, võng lọng vinh quy và có nhiều cơ may được bổ
nhiệm quan chức. Từ đó, họ thực sự đổi đời, chuyển dịch đẳng cấp từ dân thành
quan, từ giai tầng bị trị qua giai tầng thống trị.
Trước hết, người nho sĩ quan liêu là một môn đệ, tín đồ của Khổng giáo.
Hầu như trong suốt tuổi thanh xuân, họ đã thấm đượm trong lý tưởng, học thuyết
và đạo đức Khổng - Mạnh. Trước hết họ được dạy làm người, một nhà nho trí thức
mẫn tuệ (thông thiên địa nhân viết nho), có một nhân cách cao quý (nhân
- trí - dũng) với phương châm sống “phủ quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất”. Với tri thức và phẩm hạnh đó, khi ra làm
quan họ có bổn phận phải phục vụ dân chúng (sự dân), làm tôi tớ của dân
chúng (dân chi nô bộc). Mặt khác, họ cũng lại là những người cai trị dân,
sai bảo dân (sử dân), chăn dắt dân (mục dân), dạy dỗ nuôi dưỡng
dân, là bậc cha mẹ của dân chúng (dân chi phụ mẫu), bản thân điều đó đã
là một nghịch lý. Về cách ứng xử, họ được dạy cho lẽ “xuất -xử”, “hành - tàng” theo nguyên
tắc trung dung, tuỳ thời của nhà nho.
Ở một bình diện khác, người nho sĩ - quan liêu là người phụng sự, ăn
bổng lộc, hưởng nhiều ân sủng khác của triều đình và của cá nhân nhà vua mình
tôn thờ. Do đó, với đạo quân - thần đứng đầu tam cương, người quan liêu này phải là một
nô thần tuyệt đối trung thành với nhà vua của mình một cách vô điều kiện. Quân
xử thần tử, thần bất tử bất trung, đó là một nguyên tắc không phân biệt
ngoại lệ.
Cùng với nhà vua, người nho sĩ - quan liêu cũng phải luôn luôn thấm
nhuần và trung thành với những giáo điều, tín điều được ghi trong các kinh sách
thánh hiền, nghĩa là với hệ tư tưởng nho giáo chính thống. Bất kể một tư tưởng
nào ngược, khác với những khuôn mẫu, chuẩn mực đã có sẵn đều bị coi như một sự
phản bội, lầm lạc.
Tất nhiên, từ tư biện thuần lý đến đời sống còn là một khoảng cách để
người nho sĩ - quan liêu có thể tự điều chỉnh, biện hộ cho những hành xử của
mình. Bản thân Nho giáo đã là một học thuyết hai mặt, chiết trung mang tính nhị
trùng, về bản chất, người nho sĩ - quan liêu đã mang trong mình một nhân
cách hai mặt, lưỡng phân nghịch lý, một bộ mặt của Janus. Có thể nói đó
là một nhân cách ẩn mờ, che giấu hai con người trí thức khai sáng và quan liêu
nô bộc trong cùng một con người. Ở những vương triều thịnh trị có vua sáng tôi
hiền, người nho sĩ - quan liêu còn có điều kiện kết hợp, điều hoà được hai mặt
lưỡng phân đó. Nhưng trên những quãng đường gập ghềnh, quanh co của lịch sử
hoặc trong những vương triều suy thoái vua tối tôi gian, người nho sĩ - quan
liêu đã rất khó làm được việc kết hợp, điều hoà nhân cách. Họ bị lâm vào một
tình thế lưỡng nan và buộc phải có một quyết định chọn lựa dứt khoát trên một
mức độ nào đó.
Thời Lê - Trịnh là một quãng đường lịch sử gập ghềnh, quanh co dẫn đến
suy thoái như thế. Đây vừa là những những thế kỷ của suy sụp, đồng thời cũng là
những thế kỷ của trỗi dậy. Mô hình thiết chế chính trị quân chủ tập quyền cũ và
hệ tư tưởng Nho giáo chính thống bị đem ra thử thách và chao đảo trước thực tế
sinh động và khắc nghiệt của cuộc sống với nhiều chuyển biến mới, nhưng vẫn
không bị giải thể. Kết quả đã xuất hiện một hình ảnh của một xã hội mờ
nhoà, vá víu, trong giai đoạn cuối càng đi đến gần sự suy thoái về chính trị và
hệ tư tưởng. Lý tưởng ly khai với cuộc sống, cái danh ngày càng xa rời
cái thực. Khuôn vàng thước ngọc và những thần tượng bị sụp đổ trước thế lực của
đồng tiền lên ngôi. Nói như Phạm Đình Hổ, lúc này “đời suy thói tệ, danh
phận lung tung
Những người nho sĩ - quan liêu đương thời, với vốn tri thức và trải
nghiệm, chắc chắn đêu cảm nhận được được điều đó. Có chăng là họ nói ra hay
không nói ra. Nhưng trong tâm thức họ, ở những cung bậc khác nhau, đều có những
trăn trở, dằn vặt trước thời thế, xã hội và thân phận con người. Đúng như
Nguyễn Trãi nói, “cổ kim thức tự đa ưu hoạn”, xưa nay người biết chữ nghĩa thường lắm nỗi
ưu phiền. Văn thơ nho sĩ bác học và truyền miệng bình dân đã cất
lên nhiều tiếng nói.
Một cuộc đấu tranh tư tưởng, âm thầm hay phát lộ, đã diễn ra trong toàn
giới và trong từng con người nho sĩ - quan liêu. Nhiều câu hỏi đặt ra nhưng đâu
dễ trả lời. Để mặc cho người quan liêu nô bộc với nhiều danh lợi giết chết
người trí thức cương trực, hay quyết gìn giữ khí tiết của nhà nho và chấp nhận
thiệt thòi, trả giá?
Liệu có chăng một giải pháp dàn hoà, thoả hiệp để mưu cầu sự an toàn?
Lúc này, đã có một sự phân hoá các nhân cách, và những nhân cách bị phân hoá, thể
hiện trong tâm tư và hành xử. Nhân cách lưỡng phân của người nho sĩ -
quan liêu vôn đã mờ ẩn, nay càng trở nên khó định hình. Vì vậy, mọi sự phân
loại, bóc tách rõ ràng những mẫu hình nhân cách ở đây đều là khó khăn và có thể
là khiên cưỡng, mặc dù rằng chúng ta vẫn nên cố gắng phác hoạ một bức tranh
toàn cảnh nào đó với những sắc màu nhân cách biểu trưng, đậm nhạt khác nhau.
Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn có nhận xét về sĩ khí vào
cuối đời Lê sơ, nhưng có thể hiểu là hàm ý muốn nói tới tinh thần, nhân cách
nho sĩ thời ông đang sống:
“Từ đời Đoan Khánh [niên hiệu Lê Uy Mục] trở về sau, lối thanh nghị suy
kém quá, thói luồn cúi thịnh dần. Kẻ quyền vị ít có người giữ được lẽ liêm
khiết nhún nhường, nơi triều đình ít thấy lời dám can ngăn kích thiết. Gặp
chuyện khó thì chịu hèn để khỏi vướng bận, thấy cơ nguy thì bán nước để cầu an.
Cả đến những bậc gọi là danh nho cũng yên lòng nhận lấy cái ân sủng bất nghĩa,
mà vẫn thơ ca đi lại, khoe hay khoe đẹp với nhau. Phong thái sĩ phu thật hỏng
nát không bao giờ bằng. Sự tệ hại của cuộc biến đổi không thể nói xiết được”.
Phạm Đình Hổ đã nhận xét chung về nhân cách khí tiết của các nho sĩ
quan liêu thời Lê Trịnh dưới góc độ văn thể trong khoa cử :
“Từ đời Lê Trung Hưng trở về sau, văn thể ngày càng kém... Những kẻ ra
ứng dụng cho đời thì phần nhiều là những phường hủ lậu, ít người tài giỏi. Học
trò Thanh Nghệ trải qua buổi loạn lạc không được học mấy, khi ra làm quan chiếm
được địa vị trọng yếu coi giữ việc công, chỉ làm theo ý đồ riêng của mình...
Những kẻ chuộng công danh lúc bấy giờ chỉ theo đòi hóng gió, nhặt lấy những chữ
bã mía của tiền nho, tập làm cái lối văn chương hoa hoè, chứ không có căn bản
gì cả” (Vũ trung tuỳ bút).
Còn trong dân gian cuối thời Lê - Trịnh thì đã lưu truyền lời cười
nhạo:
“Tiến sĩ đời Lê hàm bon vị
Tám chân, tám ngụy, tám chân ngụy.
Nào biết ai phi và ai thị?
Sĩ khí suy kém, thói cầu an xu nịnh tràn lan, thị phi lẫn lộn, chân
ngụy khó phân, điều đó đã phản ánh một sự phân hoá sâu sắc về nhân cách trong
giới nho sĩ - quan liêu thời Lê - Trịnh.
Trong số những nho sĩ - quan liêu xu thời nịnh thế, đánh tráo thực
danh, đánh mất nhân cách (đúng hơn là chưa từng có nhân cách), phải kể đến một
gương mặt khá tiêu biểu, đó là vị Tri Quốc tử giám, Tham tụng Quận công, Thái
phó Quốc lão Nguyễn Hoãn (1713 - 1791). Ông đã leo lên đến tột đỉnh của bậc
thang danh vọng và quyền lực, một đại triều thần kiêm đại trí thức.
Nguyễn Hoãn từng đỗ đầu kỳ thi Hương và thi Hội, nhưng nhiều người
đương thời nghi ngờ về tài thực học của ông, cho rằng khoa bảng của ông là dựa
vào thế lực bố là quan lớn (cũng là một Tham tụng Quận công, võ tướng lâu năm
“mọi người đều sợ hãi”) để biết trước đầu đề và có “đến sáu người làm giúp hộ” (Vũ
trung tuỳ bút).
Là vị nho sĩ đại khoa, ngồi ở chiếu trên điều khiển cuộc bình văn trong
nhà Giám, mà ông không hề bình “trước sau nín lặng, không nói câu nào, thỉnh
thoảng chỉ cười hi hi” (Vũ trung tuỳ bút).
Là quốc lão đại thần, khi ở triều đình phủ chúa, ông cũng “chỉ y a dựa
theo ý của vua chúa, mà không có ý kiến riêng gì, cốt để củng cố quyền vị của
mình” (Đăng khoa bị khảo).
Gặp buổi chính trị đổi thay, ông sẵn sàng lần lượt bỏ rơi cả chúa Trịnh
lẫn vua Lê, môt mình tìm cách lẩn trốn thoát thân, lại còn giả bộ khóc lóc, làm
cho Nguyễn Huệ cũng có mặt ở đó phải phá lên cười khinh bỉ (Lê sử toản yếu).
Lúc về già, có lẽ muốn đi tìm sự thanh thản muộn màng của tâm hồn, ông
đã ham đọc sách đạo gia và cho mời kẻ hậu sinh Phạm Tấu - con của tiến sĩ Phạm
Công Thế mà ta sẽ nói sau đây, và là một nhà Đạo học nổi tiếng khác đời - đến
nhà để xin được học phép tu tiên. Phạm Tấu cười nhạt mà rằng: “Ồng là người nổi
chìm trong bể hoạn, làm sao mà tôi dạy được?”. Vị quốc lão im lặng rồi mời
khách ra về (Tang thương ngẫu lục).
Nhân cách bán đi, tài lộc thu về, Nguyễn Hoãn thọ đến gần 80 tuổi,
hưởng vui thú lâu dài, do đó mà người đương thời đã gọi ông là “Trường lạc
lão”.
Ở đối cực bên kia, một bộ phận nho sĩ khác đã có một khuôn mẫu hành xử
không khoan nhượng. Họ không chịu thoả hiệp, mà rất quyết liệt thậm chí cực
đoan để giữ gìn, bảo vệ khí tiết, nhân cách của mình, bộc lộ phẩm chất “dũng”
của kẻ sĩ, cho dù tính chất của sự nổi loạn, phản kháng đó có thể được đánh giá
cao hoặc bị coi là không hợp lý.
Người nho sĩ Nguyễn Hữu Cầu thực sự là một “con chim dám phá lồng”, dám
vượt qua quan niệm trung quân chật hẹp của nho giáo chính thống, tiến tới một
chủ nghĩa dân bản đích thực của Mạnh Tử. Chính vì thế mà ông đã không đi theo
con đường mòn chính thống như người bạn học thời trẻ của mình là Phạm Đình
Trọng, mà lại chọn con đường nổi loạn chông gai, lãnh đạo nông dân khởi nghĩa
với danh hiệu “Bảo dân đại tướng quân”.
Có những nét tương tự nhưng ở một hoàn cảnh khác, tiến sĩ Phạm Công Thế
- cháu gọi Tham tụng Nguyễn Công Hãng bằng cậu - đã đi theo nghĩa quân Lê Duy
Mật, bị bắt, thụ án xử trảm. Nơi pháp trường, trước khi bị hành quyết, triều
đình kể tội: “Nhà ngươi là người trong khoa giáp, làm sao lại đi theo đảng
nghịch?”. Ông cười: “Bấy lâu nay danh phận không rõ, lấy gì mà phân thuận
nghịch?”. Nói rồi vươn cổ ra chịu hình (Tang thương ngẫu lục). Ở đây,
Phạm Công Thế sẵn sàng trả giá bằng sinh mệnh mình để bảo toàn khí tiết, nhân
cách người nho sĩ mà không uy vũ nào có thể khuất phục được.
Ở một tuyến khác, cũng có những nho sĩ phái thủ cựu đã kiên quyết bảo
vệ nhân cách của mình, dám hy sinh cả đến tính mạng vì lòng trung thành với vị
quân vương mà mình thờ phụng. Lý Trần Quán hối hận vì không cứu được chúa Trịnh
Khải trên đường lánh nạn, đã sai người đào huyệt đặt quan chôn sống mình để
cùng đi theo chúa. Lê Quýnh tháp tùng vua Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc cầu
viện, bị triều đình nhà Thanh lừa, đã cương quyết không chịu nhục, thà phải
ngồi ngục chứ nhất định không gióc tóc, thay áo, để lại câu nói nổi tiếng: “Đầu
có thể chặt, tóc không thể gióc; da có thể lột, áo không thể đổi”.
Có thể nhiều người sẽ phê phán những hành xử như vậy là không thức
thời, cực đoan, cố chấp, “ngu trung”, nhưng ai dám nghi ngờ về lòng kiên trung,
dũng cảm, về nhân cách, khí tiết của những nho sĩ đó?
Phản kháng mà không nổi loạn, khước từ một cách ôn hoà, nói không với
mọi thứ phù phiếm trong cõi đời trần tục như công danh, lợi lộc, quyền vị, tiền
tài mà Nguyễn Gia Thiều đã gọi là “mồi phú quý, bả vinh hoa”, bằng lòng với
cảnh “an bần lạc đạo”, đó lại là nhân cách được chọn lựa của một số nho sĩ thời
Lê - Trịnh, những người chưa từng làm quan hoặc đã từng làm quan nhưng sớm biết
giã từ con đường sĩ hoạn. Noi gương Đào Tiềm thuở xưa “không vì năm đấu mà đành
còng lưng” (bất năng vị ngũ đẩu chiết yêu), cái dũng của những nhà ẩn
nho treo ấn từ quan này không phải là “dám làm” mà là “dám không làm”, dám từ
chối trước cám dỗ và uy lực. Ở đây, trong ứng xử, cái mềm nhiều khi còn khó và
mạnh hơn cái cứng.
Những nhà ẩn nho này có thể là những con người lánh đời. Nóí như La Sơn
phu tử, một khi đạo đã mất, họ tìm đến chốn rừng suối (đạo khuất, lâm tuyền
dã như nhân) sống đời ẩn dật. Đó là trường hợp của “ông lười” Lê Hữu Trác,
biếng nhác công danh nhưng lại chăm chỉ chữa bệnh cứu người, noi theo phương
châm sống “Phàm con người ta đi ở ẩn thì phải giữ gìn
được đạo, ra làm quan thì phải cứu giúp cho đời” (Thượng kinh
kỷ sự). Hay phu tử Nguyễn Thiếp thờ ơ với khoa hoạn, mang tâm sự của một
con người giác ngộ sớm biết thoái thân “đã trót lên đèo phải xuống đèo” (Cảm
đề), nhưng vẫn đầy tâm huyết với sự nghiệp dạy dỗ, trồng người giúp đời.
Cũng có những nho sĩ chọn con đường “ẩn giữa chốn thị thành”. Họ vẫn
sống giữa đời thường, nhưng biết tìm tự do bằng cách tự thoát mình khỏi cái
lồng cũi của ý thức hệ và nếp sống lề thói cũ mòn, náu mình trong một góc suy
tư, cảm xúc phóng khoáng của riêng mình, đó là những nhà “ẩn sĩ trong tư tưởng”.
Đặng Trần Côn tự nguyện giam mình nơi hầm sâu, thắp nến đốt cháy lên những vần
thơ khóc than cho nỗi cô đơn của người chinh phụ. Nguyễn Gia Thiều đắm chìm vào
những suy tưởng “khổ, nghiệp” của nhà Phật, sống giữa ban ngày mà vẫn cảm thấy
cảnh “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” (Cung oản ngâm khúc). Hay như nhà
đạo học cực đoan Phạm Tấu đã nói đến trong một đoạn bên trên, sống khác lạ với
người đời, áo rách chân đất, uống rượu thay cơm, nhận tiền của khách hảo tâm
nhưng lại vung vãi ném cho đàn trẻ nhỏ.
Đó là loại hình nhân cách của những nho sĩ nhẫn nhưng không hèn, dũng
nhưng không bạo, có những phẩm chất khác thường hoà trong cuộc sống bình thường,
nhưng không bao giờ chịu để rơi chìm vào vũng lầy của sự tầm thường. Như một ý
người xưa mà La Sơn phu tử tâm đắc, con người ta sinh
ra trong trời đất, cái vinh chính là đừng sống nhục. (nhân
sinh thiên địa gian, sở vinh tại bất nhục)
Loại mẫu hình nhân cách phổ biến thường gặp ở số đông các nho sĩ - quan
liêu thành đạt thời Lê - Trịnh là một thế ứng xử mang tính chiết trung thoả hiệp,
cố gắng điều hoà những xung đột giữa hai con người nho sĩ trí thức và quan liêu
nô thần trong bản thân mình, dàn xếp những mâu thuẫn nghịch lý trong tâm thức
khi phải chọn lựa giữa xuất/xử, hành/tàng. Những nho sĩ này cũng trải
ra trong một cung bậc có biên độ rộng với những gam màu những cá tính mạnh yếu
khác nhau, những cuộc đời may mắn và bất hạnh.
Họ thường bước vào con đường khoa hoạn, sự nghiệp công danh với lòng
hăm hở nhiệt thành của tuổi trẻ, đầy ắp ý chí, tham vọng, kể cả những ảo mộng.
Nhưng trong quá trình dấn thân và trải nghiệm chốn quan trường, ngoài dân chúng
cũng như trong cung vua phủ chúa, họ ngày càng chín chắn già giặn thêm, minh
triết và tỉnh táo hơn. Với túi khôn ngày càng đầy, chứa đựng lẫn lộn những nỗi
lòng chân thực cùng với những xảo thuật giả trá, họ học được cách sống khéo
léo, khôn ngoan “trong thẳng ngoài cong” (nội trực ngoại khúc). Có những
nho sĩ - quan liêu với lối sống thuận thời, lựa theo chiều gió, đã may mắn được
hưởng phúc lộc dài lâu. Nhưng cũng có những vị quan, chỉ vì một lỗi lầm sai
sót, hay bởi trong một nỗi bức xúc không kìm nén nổi đã thốt lên những lời nói
thẳng can ngăn vua chúa không đúng lúc, đã phải trả giá, gánh chịu những tai
hoạ, từ chuyện bị giáng chức, cách chức đuổi về quê đến bị tống giam trong tù
ngục, thậm chí nguy hại đến tính mạng.
Phùng Khắc Khoan - người nho sĩ ngay từ thời trẻ đã nuôi chí công danh,
ôm mộng công hầu - là một người may mắn. Là bậc lương đống của triều đình trong
buổi đầu thời Lê - Trịnh còn nhiều âm hưởng của khí thế trung hưng và chưa có nhiều
tì vết, ông có điều kiện thi thố tài năng, phò vua giúp nước, giúp dân. Tuy
cũng đã nếm mùi tân khổ trên quãng đường đời khi vì trái ý vua bị đầy lên vùng
sơn cước Tương Dương (Con Cuông, Nghệ An) heo hút, nhưng ông không hề nản chí,
chùn bước trong sự nghiệp. Nhìn chung, người nho sĩ - quan
liêu chính thống Phùng Khắc Khoan đã sống một cuộc đời toại nguyện, tâm hồn
thanh thản.
Thượng thư Lê Hy lại là một gương mặt nho - sĩ quan liêu khác. Có tài
ngay từ thời trẻ, đạt đỉnh cao trong nấc thang danh vọng quyền lực được triều
đình sủng ái và giao nhiều trọng trách, nhưng ông lại mang nhiều tai tiếng là
con người nghi ngờ giảo quyệt kèn cựa hại bạn bè đồng sự, cầu cạnh để con là Lê
Thuyên gian lận trong thi cử. Dân chúng phê phán ông về tư cách, đặt vè chế
giễu: ”Thượng thư Lê Hy, thiên hạ sầu bi.
Và dư luận người đời cũng rất công bằng. Ngay trong câu vè chê trách Lê
Hy, họ đã lại ca ngợi người đồng sự kế nhiệm ông là Nguyễn Quán Nho (quê làng
Vân Hà): “Tham tụng Vân Hà, bách tính âu ca”. Quán Nho được đánh giá là
con người “an hoà, nhân hậu, dân được ơn nhờ”, giống như hai nho sĩ - quan liêu
khác sống gần đồng thời với ông là các tham tụng Phạm Công Trứ và Nguyễn Quý
Đức. Nhưng không phải thời nào cũng có người hành xử được êm đẹp như các ông,
quan lộ hanh thông, trên dưới đều trọng nể, yêu mến.
Không may cho những nho sĩ - quan liêu sống đúng vào thời buổi rối loạn
nhiễu nhương như những năm 30, 40 của thế kỷ XVIII với những âm mưu biến động
trong giới cầm quyền thống trị cùng với những cuộc bạo loạn nông dân ngoài xã
hội.
Tấn bi kịch điển hình nhất đã xảy ra với cặp nho sĩ - quan liêu đồng sự
thân thiết là hai tham tụng Lê Anh Tuấn và Nguyễn Công Hãng. Cùng là người có
thực tài, khí phách, cùng đồng thời giữ chức quan đầu triều, hai ông khi nắm
quyền bính đã cho thi hành nhiều biện pháp chấn chỉnh, cải cách về chính trị,
kinh tế, văn hoá giáo dục. Hai ông cũng đã được chúa Trịnh Cương thăng thưởng
nhiều lần, Nguyễn Công Hãng lại được chúa tín nhiệm giao cho viêc dạy dỗ thế
tử. Nhưng có lẽ chính sự nổi tiếng quá mức đó lại là nguyên nhân gây ra tai
hoạ. Có thể là hai ông quá tự tin mình, dám can thiệp sâu vào nội tình phủ chúa
khi can ngăn việc Trịnh Giang lên kế nghiệp chúa. Cũng có thể là do hậu quả của
những bê bối, tì vết trong đời tư của hai người như vụ Lê Anh Tuấn đã dùng uy
thế cá nhân tác động cho con mình thi đỗ, để sau đó phải thi lại rồi bị đánh
trượt. Nguyễn Công Hãng thì bị cho là có âm mưu chính trị trong vụ để mồ mả tổ
tiên mình vào nơi đắc địa đế vương. Nhân những chuyện đó, có nhiều lời đồn đại
cho là Lê Anh Tuấn lộng quyền, Nguyễn Công Hãng độc đoán ác nghiệt. Trịnh Giang
sau khi lên làm chúa, đã quyết định trả thù, cách chức và điều các ông lên miền
núi (Lạng Sơn, Tuyên Quang) rồi tìm cách giết hại cả hai vị đệ nhất công thần,
trong đó Nguyễn Công Hãng chính là thày học của mình. Từ bi kịch này, có thể rút ra những bài học, trong đó có lời khuyên thấm
thìa nhưng cũng đáng buồn cho các nho sĩ đương thời là phải biết dừng, biết đủ
(tri chỉ, tri túc), luôn luôn phải biết tự kiềm chế.
Cũng ngay trước vụ thảm sát đó chừng một năm, một nho sĩ - quan liêu
khác là Bùi Sĩ Tiêm “tính tình khẳng khái, cứng cổ” (lời Phan Huy Chú), với
tinh thần “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”, đã dâng lên chúa Trịnh Giang một tờ
khải rất dài gồm 10 điều, mang tính chất một bức tâm thư thỉnh nguyện. Trong
đó, một phần là đề nghị, phần lớn là những lời phê phán gay gắt chính sự đương
thời. Chúa Trịnh xem xong, thấy toàn nhưng điều trái ý mình, nổi cơn giận dữ.
May mà chúa lúc đó có thể còn cho là vị nho sĩ bướng bỉnh này không có âm mưu
chính trị, nên không bắt chết mà chỉ “tước đoạt hết quan chức, đuổi thẳng về
quê”.
Người nho sĩ - quan liêu, nhà học giả uyên thâm và vị tham tụng danh
tiếng Lê Quý Đôn là một trường hợp đặc biệt, không phải vì ông là một nhà bác
học với số tác phẩm nhiều nhất và đa dạng nhất trong lịch sử văn hoá Việt Nam,
cũng không hẳn là vì ông đã kết hợp tài tình gia tài văn hoá kinh điển truyền
thống phương Đông với những tri thức khoa học cập nhật, mới mẻ nhất của nhân
loại lúc đó mà ông tiếp cận được qua ngả đường du nhập từ phương Tây vào Trung
Quốc.
Cá nhân con người Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi những tì vết. Có
những điều tiếng không hay chung quanh việc ông để con trai mình là Lê Quý Kiệt
gian lận trong thi cử, cũng như vụ ông đưa hai cháu gái mình gả làm vợ lẽ cho
hai vị tiến sĩ tân khoa Võ Tôn Diễm và Nguyễn Bá Tôn, gây nên những cảnh gia
đình bất hoà, bất hạnh. Nhưng những bê bối đó không làm lu mờ được công lao
to lớn và sự nghiệp sáng lạn của ông trong lĩnh vực văn hoá cũng như trong hành
trạng chính trị quan trường.
Cái tài đặc biệt của Lê Quý Đôn là bằng trí thông minh, nghệ thuật ứng
xử mềm dẻo uyển chuyển trong một thời tao loạn đầy nghịch lý, ông đã kết hợp được một cách tương đối hoàn hảo nhân cách của hai
con người trí thức uyên bác có tư tưởng khai phóng và một vị quan chức chính
thống cấp cao đòi hỏi phải hành xử trong khuôn phép, đạt tới
đỉnh cao mà không vấp váp, được trên yêu dưới kính, cuộc đời viên mãn theo đúng
đạo Trung dung. Không biết trong tâm tư, Lê Quý Đôn có lúc nào cảm thấy tự mâu
thuẫn, trăn trở dằn vặt không, và nếu có, thì ông đã dùng bí quyết, biện pháp
nào để vượt qua.
Một gương mặt độc đáo trong giới nho sĩ - quan liêu sống gần cuối thời
Lê - Trịnh là Ngô Thì Sĩ, một con người của thể chế, nhưng đã gắng tìm ra một
lối thoát cho riêng mình theo phương châm ứng xử “hoà nhi bất đồng, biệt nhi vô
dị”. Ông là một con người có cá tính mạnh, luôn luôn gìn giữ một nhân cách độc
lâp, tự do, “rất ghét ăn cắp áo mặc của thiên hạ mà thích làm một khung cửi dệt
riêng cho một nhà” (Độc bạch tập ngũ thập tứ vận).
Ông đã từng nếm trải đủ mùi cay đắng trong thuở hàn vi: nặng gánh gia
đình, “ma nghèo” hành hạ, bị các quan trường - những vị “giết người đâu há phải
cầm dao” (Ngẫu thành thất ngôn cổ phong) - đố kỵ cố tình đánh trượt, sau
do một sự cố rủi ro lại “chẳng may mà đỗ đạt”. Ông cũng đã từng bị vấp ngã trên
đường hoạn lộ, bị vu oan rồi bị cách chức đuổi về làm dân thường chịu sai dịch
(hoàn dân thụ dịch). Nhưng có lẽ những thử thách đó trong cuộc sống lại chính
là một vốn quý cho sự nghiệp của ông.
Ngô Thì Sĩ đã làm tròn trách nhiệm xuất sắc của một quan liêu mẫn cán
cho đến những ngày cuối đời, trong triều đình cũng như ngoài biên ải. Nét độc
đáo của ông ở chỗ tuy vẫn trung thành với thể chế và hệ tư tưởng chính
thống, nhưng đã biết vượt rào một cách an toàn, có được tự do tự tại trong nhân
cách cũng như trong cuộc sống, mà vẫn gắn bó với đời thường.
Ông tự cho mình là một con người “nét mặt nhà nho, mặc áo đạo sĩ” (nho
diện đạo phục). Nhưng có lẽ bản chất phóng khoáng, không chịu câu thúc trói
buộc mới chính là con người thực của ông. Ông tự hoạ ông là một người “bình
sinh mắc bệnh đa tình, càng đa tình càng hay phiền muộn”. Ông là một thi nhân
lãng mạn, đồng thời là một nhà tư tưởng khai mở, khoan dung, cổ vũ cho tinh
thần “Nho - Phật - Đạo tịnh tồn”, chủ trương tôn trọng sự khác biệt tư tưởng,
phủ nhận độc quyền chân lý khi thường viện dẫn câu nói nổi tiếng của Trang Tử
“Thị vô cùng, phi diệc vô cùng” (Nói phải là vô
cùng, mà cho rằng không phải cũng vô cùng - Tề vật luận, Nam
Hoa kinh).
Nhưng tìm cho được một chỗ đứng dưới mặt trời, có một sự yên ổn trong
cõi “ánh sáng hoà cùng bụi bậm” (hoà quang đồng trần - Đạo đức kinh),
giữ cho được nhân cách vững vàng với một tâm hồn thanh thản như ông trong cõi
thế gian này đâu phải là chuyện dễ?
Quá khứ luôn nhắn nhủ hiện tại. Thời thế đổi thay, nhưng
trong những bước thăng trầm của lịch sử, xưa cũng như nay, con người trí thức
thường dễ bộc lộ bản chất của mình, hoặc là một khí phách cao thượng hoặc là
một tính cách yếu hèn. Người trí thức chân chính thường hay thao thức, mẫn cảm
trước những thân phận, cuộc đời ở bên ngoài bản thân họ. Họ có một tài sản và
một quyền lực vốn ở dạng ảo, nhưng lại có thể biến thành tài sản và quyền lực
thực. Dùng vào mục đích tốt hay xấu những tài sản, quyền lực đó là do cái tâm
và cách sử dụng của từng người.
Không có gì lạ nếu ngày nay vẫn còn một số trí thức - không biết là ít
hay nhiều - vẫn đang lừa mình dối người, tự giam hãm và trói buộc, tự giết nhân
cách và bản lĩnh của mình để mun cầu một sự an vinh nhở mọn. Đó là những con
người mà nói như Đào Tiềm, đã “vị ngũ đấu chiết yêu” (vì năm đấu gạo mà đành
khom lưng). Đúng như người xưa nói “ai mạc đại ư tâm tử”, không gì đáng thương
bằng tấm lòng đã chết ở ngay những người còn đang sống.
Nhưng chắc chắn rằng trong khúc quanh của lịch sử Việt Nam ngày nay,
vẫn còn nhiều, rất nhiều những con người trí thức chân chính, kế thừa phẩm chất
trí - dũng của nhà nho, giác ngộ bản lĩnh vô uý của nhà Phật, đã và đang tự
nguyện dấn thân vào cuộc sống, với tinh thần trách nhiệm xã hội và ý thức công
dân cao của kẻ sĩ phu trước xã tắc. Trong những điều kiện khác nhau, ở những mức
độ khác nhau và bằng những con đường khác nhau, họ đang vượt qua những trói
buộc của tư duy thủ cựu, tự giải phóng mình khỏi thói dối trá, sự vô cảm và nỗi
sợ hãi để tiếp cận đến những chân trời chân, thiện, mỹ.
Thời Lê - Trịnh, những người tâm huyết như Bùi Sĩ Tiêm và Ngô Thì Sĩ
từng phản đối lối học hình thức sáo rỗng, đề nghị phải quay về với chính cái
cốt lõi của nho giáo nguyên thuỷ nhằm chấn chỉnh lại nhân cách giới nho sĩ. Mà
phẩm chất kẻ sĩ, theo như Tăng Tử đã khái quát nêu lên trong sách Luận ngữ
(chương Lý nhân) là: “Đạo của Thầy chỉ tóm gọn lại trong chữ trung
và thứ” (Phu tử chi đao, trung thứ nhi dĩ hỹ). Nó có giá trị như một
thông điệp nhắn nhủ cho giới trí thức trong mọi thời đại: “Hãy trung thực với
mình, thành thực với chính lòng mình, và nên khoan thứ với người khác, khoan
dung với những ý kiến, tư tưởng khác biệt với mình” vẫn biết rằng đối với người trí thức, mang trên vai gánh nặng mà đường thì
còn xa (nhậm trọng nhi đạo viễn). Nhưng có đi thì ắt đến. Thời
gian và cuộc sống bao giờ cũng là những vị quan toà công minh, là phép thử
nhiệm màu sẽ phủ định đồng thời khẳng định toàn diện và triệt để nhất mọi điều
tồn hữu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét