Vũ Ngọc Phan
|
Số ngày 16/12/1945 |
Dưới một chế độ cấm đoán tân thư,
ngăn ngừa sự phát triển tư tưởng mới, dưới một chế độ hẹp hòi và khe khắt, tuy
những loại văn chính trị, xã hội không nẩy nở được, nhưng nếu theo sự tương
đối, những loại văn chương thuần tuý đã tiến triển một cách khả quan.
Chỉ trong vòng ba mươi năm
mà văn học Việt Nam
đã tiến hoá rất mau, phân ra đủ các loại thơ văn, như ở những nước đã trải
nhiều phen biến đổi.
Ở những nước mà nền văn
học đã vững vàng, những văn phẩm hay thi phẩm ra đời cách nhau hàng ba bốn mươi
năm, người ta mới thấy có sự khác nhau, nhưng ở nước ta, vài ba năm đã có thể
kể như ba bốn mươi năm của người.
Nhờ sự tiếp cận với văn
hoá thế giới, tràn ngập khắp nơi, không sức gì ngăn cản nổi, nên bước tiến
trình của văn học Việt Nam đă mau lẹ khác thường tuy những mục đích chính của
nhà văn còn chưa đat đươc.
Đã
thế, cái học cũ của Đông phương chứa chất trong não chúng ta, mà ông thầy Trung
hoa vẫn là ông thầy giàu về đạo lý, rồi đến cái học mới của Tây phương mà bà
giáo khoa học thật đáng là người cầm cân nẩy mực, đã gây nên một sự giao hòa
đặc biệt, giúp ích rất nhiều cho sự tiến triển của văn học Việt Nam hiện đại.
Thật ra, văn học cũng
chẳng khác nào các loài động vật, thực vật, văn
học cũng chịu chung một luật tiến hoá như như muôn loài. Các loại văn nẩy nở,
biến đổi, tự cấu tạo, phát đạt, chịu đựng sự đào thải, sinh sinh hoá hoá như vạn vật vậy.
Trong khoảng 1915 - 1930,
phong trào dịch thuật và biên khảo ở nước ta rất là sôi nổi. Những tiểu thuyết
Trung hoa, từ những tập vô giá trị, đến những tập giá trị đều được các nhà văn lục tỉnh diễn ra quốc âm
trước nhất. Rồi ở ngoài Bắc, những sách cổ điển và triết học Đông Tây đều được
lược thuật hay biên khảo ra quốc văn và đăng vào các tạp chí văn học. Hình như
các nhà văn ta hồi đó chưa dám nghĩ đến sáng tác, mà có lẽ vì những nguyên do
này từ thuở xưa, ta đã nghiền ngẫm mãi về kinh sử của
Trung hoa, coi bách gia chư tử như
một kho vô tận, quán tuyệt cổ kim về đường trí tuệ và đạo lý, đến khi
nhìn gần cái học rất phong phú của Tây phương, ta không khỏi kinh ngạc. Lẽ tự
nhiên là đứng trước những cái hoàn toàn mới mẻ, các nhà văn Việt Nam trong buổi
giao thòi phải rụt rè và cho là chỉ có cách đem ngay cái mối ấy cống hiến đồng
bào.
Văn học Trung hoa cũng đã trải qua một thời kỳ dịch
thuật và biên khảo như thế. Các nhà văn hiện
đại lớp đầu ở nước ta, dù là Tây học, cũng đã chịu ảnh hưởng Hán học ít nhiều,
nên theo ý các ông cái gương sáng nhất đáng noi theo là cái gương Trung hoa mới
duy tân trong hồi đó. Có người đã cho cái lối biên dịch trong
thời quốc văn phôi thai ở nước ta do ở
sự lười biếng về đường tinh thần và do ở óc nô lệ. Sự chỉ trích ấy có một phần
đúng, nhưng sự thật thì cái lối dịch thuật, biên tập và khảo cứu các sách tiểu
thuyết, các sách tư tưởng hoc thuật của Trung hoa, của Âu Tây, đã do ở hoàn cảnh chính trị và cũng do ở cả
trình độ tri thức của phần đông dân chúng nữa.
Cái kết quả của phong trào dịch thuật biên khảo hồi
đầu ấy là làm cho người đọc so sánh văn học mgoại quốc với thứ văn học phôi
thai Việt Nam và đưa dắt nhiều nhà văn lớp sau đến cuôc thí nghiệm các loại văn
Âu Tây trong sự sáng tác. Sự thí nghiệm ấy
diễn ra lúc đầu ở văn thể, rồi
dần đến ý kiến và tư tưởng.
Về văn thể chúng ta đã thấy từ lối văn
dài giòng, cân đối, dùng đầy chữ Hán, biến chuyển ra một lối văn cộc lốc, đặc
nôm na. Đó là hai cái thái cực. Đó là một phản động lực có nhiều quá đáng,
nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến cách hành văn đương thời.
Dần dần với thời gian, mọi người đều thấy rằng cần
phải có sự phải chăng: văn chương mỗi nước là tấm gương phản chiếu tinh thần
nước ấy, vậy trước hết văn chương Việt Nam cần phải có đặc tính Việt Nam, tuy những
sự lôi thôi dài dòng vẫn là những điều nên tránh.
Đến các nhà văn hiện đại lớp sau, quốc văn không
dùng nhiều chữ Hán nữa, câu văn sáng suốt không cộc cỡn, ngớ ngẩn như những câu
dịch bất thông; văn lại phong phú, dồi dào, đủ diễn tất cả những ý tưởng cao
sâu, nên chẳng bao lâu, chúng ta có đủ tất cả các loại: nào bút ký, truyện ký,
lịch sử, ký sử, phóng sự, phê bình, biên khảo, dịch thuật, kịch, thi ca, tiểu
thuyết. Rồi tiểu thuyết cũng chia ra nhiều thứ: phong tục, luận đề, luân lý,
truyện ký, phóng sự hoạt kê, tả chân, xã hội, trinh thám. Những tính chất này
của tiểu thuyết Việt Nam
rất là rõ rệt. Người ta có thể chỉ trích những tiểu thuyết này bắt chước Âu Tây,
những tiểu thuyết kia bắt chước Trung hoa, nhưng người ta cũng phải nhận rằng
có một số tiểu thuyết tuy chưa đi đến chỗ tận thiện tận mỹ, nhưng đã có nhiều
đặc điểm Việt nam và đang tiến hoá điều hoà.
Đối với các nhà văn hiện đại, đoán định hẳn sự tiến
hoá của họ là một sự điên cuồng. Tất cả đều chưa dừng bưóc, và nhiều người mới
bước bước đầu. Chỉ có thể xét nhận khuynh hướng của họ và tính chất văn học của
họ, mà về điều này, cũng nên dè dặt, thận trọng. Đối với những nhà văn quá cố,
người ta còn phải đợi thời gian lọc bớt những cái mờ ám có thể lừa dối con mắt
quan sát, vậy đối với những văn nhân đang suy nghĩ, đang tìm tòi, đang tiến
bước và chưa ngả hẳn về đường nào, ta có thể nào đoán định ngay sự tiến hoá của
họ được...
Một điều mà ta nhận thấy trước nhất là thơ văn Việt Nam hiện đại đã tiến hoá rất đều, đi qua những
giai đoạn tình cảm, lãng mạn, ngả về phong tục, lịch sử, rồi đi đến tả chân là
những đặc điểm người ta nhận thấy ở
những văn phẩm trội nhất gần đây. Trong các thi phẩm và văn
phẩm, người ta lại nhận thấy điều này nữa: sự bắt chước Trung hoa đã tàn hẳn,
sự bắt chước Âu Tây cũng phai lạt rất nhiều, và có nhiều thi phẩm, văn phẩm đã
có tính chất Việt Nam, có xu hướng dân tộc hoá. Nhưng có hai cái khuyết điểm
lớn là hầu hết các văn phẩm và thi phẩm hiện đại đều không gần dân chúng và còn
thiếu sự sáng suốt của khoa học. Không gần dân chúng, vì một số đông thi phẩm,
văn phẩm chỉ là phản ảnh những cuộc sống tinh thần và vật chất cùa một thiểu số
trong giai cấp phú hào; không gần dân chúng vì những thơ văn ấy có tính chất
bác học hơn là có tính chất bình dân. Còn thiếu óc khoa học, là vì các nhà văn,
nhà thơ nước ta vẫn chưa phân biệt được rõ ràng tinh thần cố hữu của Đông
phương với những cái cẩu thả di truyền của Đông phương: một đằng là những đặc
sắc nên duy trì, còn một đằng là một sự cổ hủ, trái với tinh thần khoa học.
Văn học Việt Nam hiện đại đã trải qua một thời áp
bức, đã lượm được ít nhiẻu kinh nghiệm bằng một giá rất đắt, nhưng cũng đã tỏ rõ
một sự gắng sức trên đường tiến triển, làm cho người bi quan đến đâu cũng tin
cậy được rằng ở vào một chế độ ban hành triệt để nhừng quyền tự do dân chủ, văn
học Việt Nam sẽ nẩy nở khác thường.
Về văn học, chúng ta có thể đặt rất nhiều hy
vọng vào tương lai, nhưng cái điều kiện trước nhất là các nhà văn Việt Nam phải
biết nhận xét cho rõ sự đổi hướng từ lâu của tư tưởng thế giới và hoàn cảnh
Việt Nam hiện thời, không nên ôm chặt những thành kiến cũ và tưởng như thế mới
là biệt phái./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét