TẠP VĂN CỦA LỖ TẤN
3. Lấy gậy ông đập lưng ông
Trong tạp văn của Lỗ Tấn, luận chiến với kẻ địch cũng chiếm một
phần rất lớn. Những tư liệu của ông, đại bộ phận là lấy từ kẻ địch. Về phương pháp hiểu biết, ông giỏi phân tích mâu thuẫn nội tại của kẻ
địch, dùng chiến thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” để đánh địch những đòn chí mạng. Bài “Con chó săn mệt
mỏi của nhà tư bản có tang” của ông thật là một kiệt tác vừa cười vừa chửi cũng thành văn chương. Tạp chí "Người khai hoang"
của Tả Liên vạch ra Lương Thực Thu là con chó săn của bọn tư bản, Lương Thực Thu
cãi lại. “Người khai hoang” bảo tôi là chó săn cảu
nhà tư bản thì là một nhà tư bản nào
hay tất cả những nhà tư bản? Tôi vẫn chưa biết chủ của tôi là ai, nếu tôi biết, tôi nhất định sẽ đem
theo mấy tờ tạp chí đến trước mặt chủ tấn công... Tôi chỉ biết không ngừng lao động đế có thế kiếm tiền mà duy trì đời sống, còn như làm thế nào để có thể đến buồng nhà tư bản để lĩnh đô la, làm thế nào để có thế đến đảng... lĩnh đồng rúp, cái bản lĩnh ấy, làm sao tôi có thế biết được?”. Trong trường hợp này phải phản kích lại kẻ địch như thế
nào? Theo Lỗ Tẩn thì Lương Thực Thu chẳng những là chó săn của bọn tư bản còn là loại bì ổi nhất, đê tiện nhất trong đám chó săn. Nhưng kết luận ấy không phải là biếu hiện bằng lời mắng nhiếc đơn giản và
thồ lỗ, mà ổng biếu hiện bằng cách thông qua việc phân tích một cách biện chứng và miêu tả có hình tượng làm cho mọi
người tin phục. Sau khi dẫn ra những câu nói của đối phương, ổng chỉ ra: “Đó thật là một sự tả chân sinh động về con chó săn của nhà tư bản”. Phần làm chó săn tuy là do một nhà tư bản
nuôi nhưng kỳ thực là thuộc về tất cả mọi nhà tư bản, cho nên nó ngoan ngoãn với tất cả những kẻ sang trọng, cắn sủa đối với tất cà những người
nghèo. Không biết ai là chủ của mình chính là nguyên nhân hễ nó thấy tất cả kẻ giàu là nó đều ngoan ngoãn, cũng là bằng chứng để tỏ ra rằng nó thuộc về tất cả những nhà tư bản. Mặc dù không người nuôi nấng, đói đến gầy còm, trở thành chó rông, nhưng vẫn là
gộp tất cả kẻ giàu sang đều ngoan ngoãn, gặp những người nghèo đều sủa cắn. Có
điều lúc ấy nó càng khổng biết rõ ai là chủ của nó nữa.
Lương tiên sinh tuy tự kể mình vất vả thế nàọ... lại không biết “ai là chủ” thế thì thuộc vào cái loại sau rồi, Để nói cho đúng hơn, phải thêm vào một chữ, gọi là “Chó săn của nhà
tư bản có tang”.
Xuất phát tư quan điểm
giai cấp, Lỗ Tấn đã nhận thức một cách sâu sắc thực chất hành vi của con chó săn là
phục vụ cho cả giai cấp bóc lột chứ không phải
là cho một nhà tư bản cá biệt, cho nên lời kêu than không biết
“ai là chủ” của Lương Thực Thu chính là một nhược điểm có thể nắm để vẽ ra cái trạng thái
lúng túng của “Con chó của nhà tư bản”. Qua đó, chúng ta thấy rõ tư tưởng của giai cấp đã giúp Lỗ Tấn nâng cao tư tưởng của ông và uy lực của chiến đấu. Tính sâu sắc về tư
tưởng của Lỗ Tấn không chỉ ở đó, ông còn thấy trong bài viết của Lương Thực Thu có câu “đến đảng lĩnh đồng rúp” là
muốn cắn lại một
miếng và để ám thị
cho bọn chủ biết rằng: Những người đó đều là cộng sản cả, quốc dân đảng phản động cần
phải bắt và
giết họ. Lương Thực Thu làm “văn nghệ” là một
con chó săn
dùng vũ khí “văn
nghệ”. Nhưng vì lý cùng lời cạn nên không thể nhờ
bọn quốc dân đảng dừng việc bức hại
chính trị để giúp nó một tay.
Qua đó, ta thấy Lương Thực Thu
đã là một con chó săn không được việc, sức đã kiệt, hơi đã tàn, cho nên Lỗ Tẩn nói thêm “phải
thêm hình dung từ “mệt mỏi” đi với chữ “chó săn”. Lương
Thực Thu không thừa nhận là “chó săn của nhà tư bản”, qua sự chiếu rọi của tấm kính chiếu yêu
của Lỗ Tấn, đã hiện nguyên hình là không
bằng cả “con chó săn của nhà tư bản” thông thường
nữa, mà là “con chổ
săn của nhà tư bản có tang”. Thật là một cuộc chiến
đấu vô cùng hả dạ,
tất thẩy tài
liệu đều là có sẵn,
cứ việc nhặt ở phía địch, nhưng đã phát huy cái uy lực thật là to lớn, chứng cứ
đầy đủ, Lương Thực Thu có
muốn trốn cũng không trốn được. Những chữ như vậy thật là lưỡi lê, là dao găm, đủ để giết được kẻ thù.
Chúng tôi lấy thêm một lần luận chiến ở thời kỳ Ngũ Tứ
làm ví dụ. Lúc ấy
các ngài thân sĩ thuộc phái “học hằng” để xướng văn, văn ngôn
phản đối văn bạch thoại,
nhưng văn ngôn mà họ viết ra, thì có chỗ là bất thông. Chằng hạn như một câu quen dùng như “phục quả chi hạ vô hoàn noãn” họ đã
viết sai thành “phục quả chị ha vô hoàn gia”. Tài
liệu để viết trong
bài “Đánh giá học hằng”[1]
của Lỗ Tấn, toàn bộ đều là lấy những câu văn viết của đối phương để chỉ ra loại người ấy căn bản
không có tư cách đề xướng văn ngôn, phản đối bạch thoại. Cách lấy tài liệu và phương pháp luận chiến đó, có thể người khác cũng
làm được, nhưng Lỗ Tấn cao tay
hơn. Ông chẳng những chú ý tới
bàn về câu, chữ của kẻ địch mà đến cái nhãn hiệu “học hằng” cũng được ông chú ý, và đã tìm thấy cái mâu thuẫn nội tại trên cái nhãn hiệu đó, điều đó thật
là làm cho các ngài
thân sĩ khóc dở mếu dở. Lỗ
Tấn châm biếm họ tuy tự xưng là “Hằng”[2].
Nhưng những cái dấu hoa khắc trên bản thân cái cân của mình cũng chưa được tốt, thi
càng làm sao có thể bàn được đến sự phái trái, cái nặng, cái nhẹ mà nó cân. Cho nên, chẳng cần xém kỹ, chỉ cần ước sơ qua là đã rõ rồi! “Thật là đoạn văn hết sức sắc bén và humour. Các anh chưa khắc tốt những cái dấu hoa trên cân thì căn bản chưa nói được
đến việc cân lường (bình luận) người khác được;
còn những cân lạng của các anh, chúng tôi đã rõ lắm rồi, tuy có dấu hoa nhưng cũng
chẳng chính xác, chỉ cần ước sơ qua là đủ. Thật là những chữ có lý lẽ mạnh mẽ, đã vạch ra cái bé nhỏ, bất lực của kẻ thù, mà cũng tỏ rõ sức
mạnh và lòng tin tưởng của mình.
Hơn nữa lại lấy cái đề là “đánh giá học hằng” để cho cái khí thế
coi khinh kẻ địch bao trùm lên toàn bài văn. Những bài văn như vậy, thực là đã lợi dụng được đầy đủ nhược điểm của kẻ thù, phát huy chiến thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” đến cao độ.
Phương pháp biểu hiện và luận chiến “lấy gậy ông đập lưng
ông” đã có
truyền thống rực rỡ trong văn chương luận chiến của Trung Quốc. Từ trước nhà
Tần đến nay rất nhiều tác giả đã dùng nó để bác kẻ địch, trình bày tư tưởng của mình, Lỗ Tấn đã kế thừa truyền thống đó và phát huỵ nó lên. Vì “cùng đi một bước với
những tiền bối cách mạng” và vũ trang bằng tư tưởng tiên tiến của thời đại,
nên khi Lỗ Tấn vận dụng phương pháp
này, thường là mang theo cả uy lực nặng ngàn cân đè lên đầu kẻ địch. Trong thời
kỳ kiến thiết và
cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng thường dùng
phương pháp “lấy gậy ông đập lưng ông” để tấn công chủ nghĩa đế quốc và các kẻ thù khác. Trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa hai con
đường ở trong nước, phương pháp này cũng có sức sống vĩ đại, thế lực phản động ngày nay dùng phương thức trắng trợn để chống đảng, chống chủ nghĩa xã hội thì tương đối ít mà phần lớn là ngoài mặt thì công nhận sự lãnh đạo của đảng, công nhận xã hội chủ nghĩa, mà trong bí mật hoặc gặp thời cơ thích đáng,
bèn dùng lời nói và hành động của họ đế làm nguy hại đến đảng và sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội, vì vậy vạch trần cái mâu
thuẫn cửa nó, chọc thủng cái ác ngụy trang của nó là hết sức cần thiết. Ngoài ra trong tranh luận nội bộ nhân dân, chúng ta cũng dùng
phương pháp đó để
phản đối đối
phương, tỏ rõ tư
tưỏng của mình. Chỉ cần dùng cho thích đáng, phân rõ địch, bạn và mình đế có thái độ khác nhau, thì phương pháp biểu hiện này sẽ phát huy uy lực
trong luận chiến.
4. Tiến công trắc diện vào sâu địch
hậu
Văn chương luận chiến của Lỗ Tân, còn có một loại nữa đứng về phía luận chiến mà
nhìn thì có phương pháp biểu hiện sắc bén
hơn loại trên. Lấy thí dụ như
đánh trận mà nói thì, giống như chiến thuật tiến công trắc diện,
vào sâu địch hậu, làm cho kẻ địch ở chính diện
không đánh mà tan vỡ. Bài “Văn chương với đầu đề” (xem “ngụy do thu”) là
thuộc loại đó. Lúc đó chính phủ phản động quốc dân đảng đối nội thì bất đề kháng,
đối ngoại thi tăng cường “tiễu cộng”
và giết hại nhân dân, bọn chân tay thì
dưới đề mục “dẹp trong và chống ngoài” viết các
loại văn
chương: “có kẻ nói dẹp trong tất trước hết phải chống ngoài, có kẻ nêu
dẹp trong đồng thời
với chống
ngoài, có kẻ nói dẹp trong nên cần phải chống ngoài, có kẻ lại nói
dẹp trong cấp thiết hơn chống ngoài”.
Mặc dù có
nhiều loại khác nhau nhưng thực chất đều là khẳng định sự “dẹp
trong” của quốc dân đảng, khắng
định sự “tiễu
cộng” của quốc dân đảng và sự giết hại nhân dân cho nên đó đều là những ngôn luận
chống cộng, chống nhân dân. Nổ súng thẳng vào những luận điệu họ nêu ra, vạch
trần các
loại lừa bịp của họ, tất nhiên là cố ý nghĩa chiến
đấu. Nhưng Lỗ Tấn lạỉ áp dụng chiến lược tiến công trực diện để đả kích kẻ thù. Ông vạch ra, dưới đầu đề: “dẹp trong với chống ngoài”. Đó
là “dẹp trong mà không cần chống
ngoài”, chẳng bằng nghênh đón
ngoài vào dẹp trong”, “ngoài tức là trong, có gì phải chống”. Tiếp theo là Lỗ Tấn dẫn lịch sử:
Ba ý này, viết ra văn chương, tuy có ly kỳ, nhưng sự thực là có, hơn nữa không cần phải đi xa đến Tấn, Tống, chỉ
cần xem triều Minh là đủ. Người Mãn Châu đã nhìn ngó từ lâu rồi, trong nước thì xem mệnh dân như có rác,
giết hại người
trong sạch, đó là ý thứ nhât. Lý Tự Thành vàò Bắc Kinh rồi,
những kẻ quyền quý không cam chịu cho đầy tớ làm hoàng đế, dứt khoát là
mời binh linh nhà Đại Thanh để đánh, đó
là ý thứ
hai. Còn ý thứ ba, theo lệ cũ thì cần nói trước họ Ai Tân Giác la vốn là con cháu người con
thứ mấy của vua Hiên Viên chạy lên phương Bắc, ăn ở nhân nghĩa, ân sâu đức dày rồi có thiên hạ. Nói tóm lại, chúng ta đều là một nhà cả.
Ở đây là câu chuyện lịch sử, nhưng những người có chút tri thức và biết sống
khi đó, thi ai cũng đều rõ, đều liên tưởng đến tình hình hiện
thực lức đó. Thực tế là
quốc dân đảng chỉ gỉết cộng sản, giết nhân dân, mả kiên quyết không chổng Nhật, đó là ý thứ nhát. An nhờ vào vũ khí binh lính của nước
ngoài đế giết người cộng sản và giết nhân dân, đó là ý
thứ hai. Cổ súy chủ nghĩa đế quốc là bè bạn, ca ngợi
Trung - Nhật đều là giống người da vàng (luận điệu của văn học
“dân tộc chủ
nghĩa”), mọi người nhất trí chống Liên Xô, chống cộng sản, cũng đã là ý thứ ba. Ba thứ văn chương này lúc đó còn đang làm bằng sự thực, và vẫn chưa làm xong, qua sự vạch trần của Lỗ Tấn, nhân dần nhìn càng rõ càng sâu, và các loại văn chương “dẹp trong với chống ngoài” đã viết ra, bèn trở thành những lời nói không đánh đã tan, không còn sức lừa bịp mọi người nữa.
Tôi cho rằng phương pháp văn luận chiến này, so với phương pháp tìm mâu thuẫn,
vạch mâu thuẫn ở luận điệu kẻ địch chính diện nêu ra, thì nó còn cao hơn và có uy lực chiến đấu
mạnh hơn. Tất nhiên áp dụng phương pháp nào để biểu hiện tư tưởng, tiến hành luận chiến, vẫn phải căn cứ vào đặc điếm của đối tượng,
yêu cầu của chiến đấu, chứ không phải là dùng một cách tùy tiện.
5. Phương pháp luận thuật nói
chung và đặc điểm của phương pháp đó
Rất nhiều bài tạp văn có tính chính luận rất mạnh của Lỗ Tấn thì cũng có rất nhiều phương
pháp biểu hiện khác nhau. Ngoài một số
phương pháp về mặt cấu tứ có đặc sắc nghệ thuât như đã phân tích ở trên, còn có nhiều bài, gặp
việc là bàn việc đã áp dụng phương pháp biểu hiện và cấu tứ của văn
chương bình luận nói chung.
Nhưng những bài đó vẫn rực rỡ mầu sắc nghệ thuật, trong quá trình luận thuật, cũng
không thiếu sự so sánh hình tượng và sự châm biếm về luận điểm thì mạnh mẽ, bút pháp thì linh hoạt và thú vị. Các bài “Cát”, “Bàn về việc của bà Tần Lý Trai”, “Người Trung Quốc đã mất lòng tự tin rồi sao?” (xem “Nam xoang bãi điện tập”,”hoa biên văn tập”, “thả giới đình tạp văn”) là
đều thuộc loại đó. Chúng
ta tạm lấy bài “Cát” để phân tích. Bài này viết nhằm vào dư luận xã hội nói người Trung Quốc giống như một bàn cát. Lúc đó những luận điệu như vậy có rất nhiều, ý đồ của những luận điệu đó là với những câu nói chung chung đó mà
xóa mờ sự phân tích cụ thể, và có tính giai cấp đối với sự vật. Trước hết Lỗ Tấn vạch ra: “Tiểu dân tuy rằng không học, gặp việc có lẽ không hiểu, nhưng khi biết những điều lợi hại đến bản thân, sao lại không biết đoàn kết. Trước kia có quỳ lạy thắp hương; dân biến, làm phản; bây giờ cùng vẫn có thỉnh nguyện. Họ giống cát là vì bị kẻ thống trị “trị” thành công, dùng văn
ngôn để nói tức là “trị
tích”[3]. Mấy
câu này quan điểm rõ ràng, biện chứng, hợp với thực tế lịch sử. Vậy tại sao kẻ
thống trị lại “trị” họ
thành “cát”? Bản thân họ có đặc điểm gì? Lỗ Tấn phân tích tiếp:
Mọi người lại thường nói: “thăng quan phát tài”. Kỳ thực là hai việc này không ngang nhau, sở dĩ
muốn thăng quan chỉ vì muốn phát tài... Cho nên quan tuy dựa vào triều đinh,
nhưng không
trung với triều đình; lại dịch
tuy rằng dựa vào cửa quan, nhưng chẳng cố bảo vệ cửa quan... Họ đều là những hạt cát tự tư tự lợi. Lúc nào chén
được là chén, hơn nữa mỗi hạt cát đều là một hoàng đế, ở chỗ nào xưng tôn được thì xưng tôn. Có những người dịch Nga Hoàng ra “Sa Hoàng” lấy tặng bọn này, thật là một danh hiệu rất sát. Tiền tài từ đâu tới? là nạo gọt ở người dân đen mà ra. Dân đen mà đoàn kết thì khó mà phát tài, vậy thì đương nhiên cần tìm mọi phương pháp làm cho họ biến thành những hạt cát rời mới được.
Lấy sa hoàng trị dân đen, vì thế toàn Trung Quốc đã trở thành “một bàn cát rồi”.
Lấy “Cát” để bàn
“cát”, đã vạch ra một cách sâu sắc cội rễ giai cấp của “cát” chĩa mũi nhọn của đấu tranh vào kẻ thống trị,
vấn đề đã được giải quyết tương đối đầy đủ. Nhưng là một
chiến sĩ, Lỗ Tấn khi luận thuật bất cứ vấn đề gì đều liên hệ chặt chẽ với hiện thực, ỉàm cho tính
khoa học của lý luận thống nhất
cao độ, với tính chiến đấu của hiện thực. Ông nhằm thẳng vào hiện thực lúc đó là đế quốc Nhật xâm chiếm Đồng Bắc, bức tiến Hoa Đông mà nói: “nhưng ngoài ra, vẫn còn có những người đoàn kết, họ đã tiến vào như
vào chỗ không người”. Kẻ địch đã tiến vào rồi, những ngôi “sa hoàng” làm gì đấy? nhân dân sẽ
sống như thế nào? Lỗ Tấn nói, lúc ấy “quân tử là vượn, hạc, tiểu nhân là sâu,
cát. Những ngài quân tử ấy chẳng giống bạch hạc đằng không, thì giống hồ ly trên cây, “cây đổ hổ ly tán”, nhưng còn có cây khác, họ sẽ quyết khổng chịu
khổ. Còn ở mặt đất chỉ là đàn kiến và bùn cát, tức là dồn đen...” ở đây, đã vạch ra kẻ thống trị giỏi trở
mặt, dựa vào đế quốc để cùng trấn áp nhân dân, ông trần thuật nhân dân giống
như kiến và cát, đang bị kẻ địch bên ngoài và kẻ
gian bên trong trà đạp, từ đó tiến thêm một bước nói rõ cái hậu qủa nghiêm
trọng “sa hoàng trị dân đen”, toàn quốc trở thành “một bàn cát rờí”. Đoạn văn này là nhằm vào sự thực
cục diện chính trị lúc đó, là bọn quổc dân đảng phản động hôm nay đầu hàng thỏa hiệp với Nhật Bản,
ngày mai thì cầu viện, câu kết với Anh, Mỹ, nó đã phát huy tác dụng chiến đấu
rất mãnh liệt.
Cả bài văn đó chỉ có bảy trăm chữ nhưng đã phân tích vấn đề rất
cụ thể, sâu sắc và toàn diện, bất cứ luận điểm nào trong bài đều đứng vững trên cơ sở chắc chắn của sự thực và lôgich không thể nào bác được. Cả bài tuy áp
dụng cấu tứ của văn chính luận, biểu hiện rõ rệt tư duy 1ogich, nhưng ngôn ngữ thì rất có hình tượng như lấy "sa
hoàng" để thí dụ kẻ thống trị, lấy quân tử là vượn hạc, dân đen là sâu cát so sánh với tình cảnh dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Những thí dụ ấy đều mới
mẻ và rất sát. Vì vậy, nó vẫn là sự thống nhất hoàn mỹ
của tính chinh luận với tính hình tượng.
Đặc điểm của phương pháp biểu hiện này của Lỗ Tấn rất tốt đối với việc phân tích cụ thể những vấn đề và đối tượng cụ thể, phân tích qua các
mặt và từng lớp từng lớp đi sâu vào bản chất để biểu lộ rõ tư tưởng của mình, tuy khuôn khổ bài ngắn, nhỏ, nhưng nội dung xã hội của bài, qua sự sửa gọt rút ngắn cao độ nên có một sức chứa rất phong phú như một bài chính luận xuất sắc.
6. Trữ tình và thủ
pháp hình tượng hóa
Tạp văn của Lỗ Tán còn có một
phương pháp biểu hìện nữa là chủ yếu dùng hình
tượng để cấu tứ và miêu tả. Ông kể một câu chuyện hoặc một truyện ngụ ngôn, hoặc miêu tả một mảnh hiện tượng của đời sống, ông không bao
giờ nói đạo lý trừu tượng, mà thường
làm cho người đọc rất hấp dẫn say mê. Những bài văn loại đó thường
mang lại cho
người đọc sự hưởng thụ nghệ thuật phong phú, đưa lại cho người đọc một
sự giáo dục sâu xa. Những bài tạp luận “Anh kim”, “Sự thực thắng hùng biện” (xem “Dã thảo”, “thả giới đình tạp văn”, “nhiệt phong”) đều là những bài văn loại đó. Như bài
“lập luận” viết về một cậu học trò hỏi thầy giáo về phương pháp lập luận, thầy giáo nói: “khó” và kế
cho cậu học trò một việc: Gia đình nọ sinh được một đứa con trai, cả nhà vui mừng khôn xiết. Đến khi đứa trẻ đầy
tháng bèn bế ra cho khách xem. Một người nói: “Đứa trẻ này sau sẽ phát tài”. Người
đó liền nhận được lời cảm tạ. Một người khác nói: “Đứa bé
này sau sẽ làm quan”. Người này cũng được mấy câu cảm ơn
cung kính. Một người khác nói “Đứa bé
sau này nhất định chết”. Người
này được cà nhà xúm lại đánh cho một trận. Nói sự tất yếu của cái chết, nói sự hứa hẹn
giả dối của giàu sang. Nhưng nói hứa
hẹn gỉa dối thì được
cảm ơn, nói sự tất
yếu thì bị
đánh. Vậy thì “vừa
khổng dối người,
cũng không bị đánh”, phải nên nói cái gì? Nội đung câu chuyện này rất giản đơn, dường như một câu truyện cười, nó sinh động, nhưng bao hàm một chân lý rất nghiêm túc. Trong xã hội cũ, người ta lừa dối lẫn nhau thì khó mà nói được sự thật. Đó là một sự ẩn đau đớn của một nhà văn hiện thực có tính chiến đấu, là có lẫn máu và nước mắt của bản thần đã phải trải qua. Ý nghĩa tích cực của nó là đưa người
đọc đi tới nhận thức và căm ghét cái xã hội tối tăm đầy rẫy lừa lọc và giả dối.
Đặc điểm của tính văn nghệ của tạp văn, quyết định nó có thế dùng hình tượng để tư duy như các tác phẩm văn nghệ khác, có thể ở trên mặt chữ không lộ rõ một chút dấu vết của tư duy logich nhưng nó vẫn là “luận văn xã hội” là vũ khí chiến đấu, cần để cho độc giả qua hình tượng mà thấy được kết cấu logich rõ ràng. So với các loại tạp văn khác thì các loại tạp văn này, cái nhân tố của bình luận được xử lý càng hàm súc, càng kín đáo mà thôi. Nếu coi nhẹ
đặc điểm đó, nó sẽ mất cái đặc
sắc của tạp văn, nó sẽ trở thành loại tác phẩm như tản văn thông thường hoặc truyện ngắn vậy.
Trong tạp văn dùng phương pháp hình tượng hóa để miêu tả hiện tượng của đời sống, có phần trữ tình cao độ, giống như rất nhiều bài trong “Dã thảo” và một số bài trong các tập khác như bài “Kỷ niệm bạn Lưu Hòa Trân”, “Thu dạ du ký” (xem “Hoa cái tập tạp biên”, “Chuẩn phong nguyệt đàm”). Những bài văn này, trên ý nghĩa rộng mà nói thì cũng quy
vào loại tạp văn, vì có tính chiến đấu sắc bén. Những chất liệu chủ yếu của những bài
văn đó là tản văn trữ tình, trên ý nghĩa hẹp mà nói
thì không gọi là tạp văn phương pháp biểu hiện của loại văn này.
7. Viết quanh co
“Khúc bút”
Cuối cùng xin nói về vấn đề “viết quanh co”. Như
mọi người đều biết “viết quanh co” nguyên là sản vật của sự bức hại chính trị của bọn phản động Trung Quốc cũ. Trong lời tựa của tập “Hoa biên văn học”, Lỗ
Tấn đã viết: “Lúc đó thật ghê gớm, nói thế này không được, nói thế
khác không xong... trong cái lúc mà ban ngày khen tốt, ban đêm thủ tiêu ấy, nếu muốn kéo dài được chút hơi tàn, gặp mặt với độc giả, vậy thì phi
văn chương nô lệ còn là gì nữa”. Biết tình hình đó, chúng ta sẽ hiểu được phần tạp văn này của Lỗ Tấn, cho nên dùng cách “viết quanh co”, viết tương đối lắt léo, lập lờ. Nguyên là cùng bất đắc dĩ vậy. Có một số người cho rằng “viết quanh co” là bút pháp Lỗ Tấn, dường như là Lỗ Tấn xưa nay thích dùng phương pháp này để sáng tác, đó là một sự hiểu lầm rất lớn. Trên thực tế, chỉ cần có thể được là Lỗ Tấn
viết hết sức thật rõ ràng dễ hiểu, “viết quanh co” đã là sản vật của sự vật bức hại chính trị, vậy nó không phải là một hình thức nghệ
thuật đã thành quy luật, nó cần thích ứng với các đề tài khác nhau, đối phó với điều kiện chính
trị khác nhau, để áp dụng phương pháp biểu hiện khác nhau.
Có bài, toàn dùng cách ẩn dụ, như bài “sử hiện đại” (xem "Ngụy tự
do thư”). Ngoài ra còn nhiều phương pháp như kể chuyện, dẫn cổ trích kim v.v... Đối với loại văn này, chúng ta chủ yếu là nhận thức ý nghĩa
và tác dụng chiến đấu của nó, kế thừa tinh thần chiến đấu kiên cường của Lỗ Tấn, chứ khổng
nên học hinh thức quanh co. Vì ngày nay căn bản không giống với thời đại Lỗ Tấn sống nữa. “Lỗ Tấn sống dưới sự thống trị của thế lực hắc ám, khổng có tự do
ngôn luận, cho nên dùng hình thức tạp văn cười nhạo, châm biếm để tác chiến, Lỗ Tấn làm như thế là hoàn toàn đúng đắn... Nguyên tắc trên, đến ngày nay vẫn còn
hoàn toàn thích hợp. Tôi cho ràng, những người có chí viết tạp văn cần nỗ lực theo phương hướng đó để rèn luyện bản thân.
*
* *
Tạp văn của Lỗ Tán là không cậu nệ với hình thức cố định, nó phong
phú nhiều màu nhiều vẻ. Trong bài này chi phân tích
mấy phương pháp biểu hiện có tính chất đại biểu quan trọng nhât, chứ không phân tích toàn bộ. Lỗ Tấn đã căn cứ vào yêu cầu của đẩu tranh và đặc
điểm của đối tượng mà áp dụng phương pháp biểu hiện khác nhau. Chúng ta đã có
thể thấv rõ sự phân tích ở trên. Thoát
ly yêu cầu chiến đấu, thoát ly đời
sống hiện thực, thì không thể nói đến sáng tác tạp văn, tẩt nhiên càng
không thể nói đến phương pháp biếu hiện của tạp văn. Đó là điếm thứ nhất chúng
ta cần nhận thức rõ. Điểm thứ hai là tạp văn cf Lỗ Tấn sở dĩ tinh luyện, hay,
quyết không chỉ phải là vấn đề phương pháp biểu hiện, nguyên
nhân căn bản ờ chỗ ông là một người cách mạng và nhà tư tưởng vĩ đại. Ông đứng vững trên mặt trận đấu tranh cách
mạng và trên mảnh đất của đời sống hỉện thực, cùng chiến đấu, cùng sổng với
quảng đại nhân đân, sự hiểu biết đời sống xã hội, hiểu biết về lịch sử, văn hóa
rất sâu rộng của ông, thế giới quan của ông, được tư tưởng tiên tiến của thời
đại (tư tưởng cách mạng dân chủ và tư tưởng Mác xít) vũ trang, đó là điều căn
bản bảo đảm cho uy lực tư tưởng và nguồn sáng tác tạp văn phong phú của ông.
Như vậy, phương pháp bỉểu hiện nghệ thuật kiệt xuất của ông mới như cá gặp nước
vẫy vùng trong khoảng trời rộng lớn.
Cho
nên học tập tạp văn Lỗ Tấn, trước hết là phải học cái nhân cách của người cách
mạng và sự tu dưỡng của nhà tư tưởng của ông. Trên cơ sở đó,
học tập phương pháp biểu hiện nghệ thuật của ông, mới có thể có hiệu quả và tác
dụng nhất định.
Ngoài
ra, tôi cho rằng những tác phẩm của
những nhà nghệ thuật lớn, tuy có giúp cho chúng ta học tập, đưa lại cho ta nguồn
dinh dưỡng, nhưng những cái có sức sống thực sự thì không phải là dựa vào sự bắt
chước mà phải có sự nỗ lực sáng tác của tác giả. Dù cùng là một chủ đề, cũng đòi hỏi tác giả giải thích nó dưới giác độ
mới để biểu hiện được cái mặt mới của nó; cũng là một phương pháp, nhưng đòi hỏi tác giả dùng nội dung mới để
làm phong phú cho nó, khai thác cái tiềm lực biểu hiện mới của nó phát triển cái đặc trưng biểu hiện mới của nó. Như vậy, văn chương của chúng ta mới càng ngày
càng hay, thành tựu của chúng ta mới có thể đuổi kịp và vượt được những lớp người trước, sáng tạo ra những tác phẩm ưu tú, chiến đấu xứng đáng với thời đại xã hội chủ
nghĩa của chúng ta./.
Theo Lâm Chí Hạo (Trung Quốc)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét