Khiemnguyen

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

Tạp văn Lỗ Tấn (phần 1)



TẠP VĂN CỦA L TẤN

Trong lịch sử tân văn của Trung Quốc, tp văn là một thể tài có truyền thống chiến đấu quang vinh, nó nảy sinh từ thời kỳ cách mạng văn hóa Ngũ - Tứ và cách mạng tư tưởng và cùng với cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, nó phát triển khá cao lên tới mc to lớn. Trong qúa trình phát sinh và phát triển của tạp văn, L Tấn là một người đặt nền móng đại nhất. Tác phẩm của ông chng những chứa đầy nội dung của tạp văn phản ánh lịch sử đấu tranh tư tưởng của Trung Quốc từ Ngũ tứ trở lại”, mà còn làm phong phú rt nhiều c hình thức của tạp văn, làm cho tạp văn tr thành đóa hoa nghệ thuật chói lọi. Bài này chỉ tập trung tìm hiểu những thành tựu trong tạp văn của Lỗ Tấn về một phương pháp biểu hiện, xem tác giả đã căn cứ vào yêu cầu của chiến đu đời sống như thế nào để vận dụng phương pháp biểu hiện nhiều vẻ phong phú.
1. Vạch ra quan hệ nội tại giữa các sự vt
Đọc tạp văn của Lỗ Tấn, chúng ta đều nhận thức rằng: việc chọn tài liệu trọng tạp văn, Lỗ Tấn thực sự đã đạt đến mức thoải mái dễ dàng. Một câu hi, một đoạn tin, một câu chuyện, một chút hiện tượng đi sống... cái gì cũng đều có thể viết thành văn chương, thật là cúi xuống là nhặt được”; hơn nữa cái nào cũng có nội dung tư tưởng, có tính chiến đấu. Vậy mấu chốt là ở chỗ nào? Theo tôi, vấn đề mâu chốt không phải ở chỗ tài liệu tạp văn nhiều hay ít, mà là ở chỗ tác giá có năng lực quan sát và xử lý những tài liệu đó. Việc chọn tài liệu trong tạp văn ca L Tấn sở dĩ có thể thoải mái d dàng, nguyên nhân căn bản ở chỗ đó.

Cái năng lc ấy của Lỗ Tấn biểu hiện nổi bât ch ông giỏi phát hiện quan hệ giữa một sự vật này với một sự vt khác. Có thể từ một việc nh trong đời sống hoặc một câu chuyện trong lịch sử khêu gợi, ri thông qua mối liên hệ bản chất của sự vật mà biểu hiện một chủ đề lớn. Trong thời kỳ thống trị của quân phiệt Bắc Dương, tiền giấy thường mất gía, có một ln trong tay Lỗ Tn cm my chục đồng nhưng không mua được gì ăn làm cho ông hầu như nhịn đói. Sau đó, hi thăm, có thế hạ giá đổi thành bạc nén, sáu đổi mấy ông vội đi một nửa, sau đó lên giá đến by đối mẩy, ông rất vui mng, nên đổi hết ra bạc nén. Trong những năm tháng dưới sự thống trị của bọn phản động, những sự việc và tâm tình như vậy thường gặp phải và thường xảy ra, nhưng có rt ít người như L Tn nhn thức sâu sc ý nghĩa của nó. Ông không dừng lại trên ý thức về sự việc đồng tiền giảm giá, mà phát huy sự liên tưởng phong phú, sự thay đổi trong tâm tình của mình qua sự việc đó khơi gợi mà liên tưởng đến cái tâm lý xã hội phổ biến: Khi một bao bạc trắng nhét ở trong người, tôi cảm thy vui mừng, yên tâm một cách chc chn thì đột nhiên khơi lên một ý nghĩ khác, đó là chúng ta thật dễ ng biến thành nô lệ, và sau khi đã biến đổi rồi cũng vẫn muôn phần vui sướng. Đó là một sự liên tưởng tương đối đặc biệt, cáí tâm tình từ đồng tiền gim giá đổi thành bạc trng, vi con người rt dễ dàng tr thành nô lệ hơn nữa sau khi đã biến đổi rồi vẫn muôn phần vui sướng, hầu như hai sự việc không dính líu với nhau, đối với người quen nhìn vn đề từ ngoài mặt, thật khó liên hệ được hai việc đó lại với nhau. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ càng hơn, chúng ta sẽ phát hiện cái tâm tư vui mừng từ đồng bạc gim giá đổi ra bạc trng, thực chất là phản ánh cái nhược điếm tưởng dễ cu an, thỏa mãn.
Là một nhược điểm tưởng nó không phải là hiện tượng cá biệt nữa mà là hiện tượng phố biến của một người dễ nảy ra trong nhiu trường hợp. Như vậy thì khoảng trời liên tưởng của chúng ta sẽ vô cùng rộng lớn. Lỗ Tẩn hiếu sâu sắc lịch sử Trung Quốc, hiu những con người bị áp bức, ông bèn liên tưởng rất tự nhiên đến số phận lịch sử ca họ, nhìn thấy cái tư tưởng d cầu an thỏa mãn của họ là vết thương chí mệnh của nhân dân bị áp bức, tư tưởng ấy thúc đy họ chịu đựng sự áp bức của giai cấp, chng những về mặt sinh hoạt mà cả v tư tưởng đã biến thành lệ, mà vn an bần bạc đạo. Như vy, trong hai sự việc dường như không nh với nhau, đã tìm ra quan hệ nội tại của chúng. Lỗ Tấn viết:
Giả dụ có một bạo lực "bắt người không được là người, chng những không người mà còn không bng trâu ngựa, không đáng kể là một cái gi nữa; ch đến khi mọi người hâm mộ trâu ngựa mà phát ra tiếng than thở” người loạn ly không bng chó thái bình", rồi sau cho họ cái giá c ngang với trâu ngựa... thì mọi người bèn sẽ vui mừng phn khi ca tụng cái đời thái bình. Tại sao thế? Vì hn tuy không phải là người rốt cùng đã ngang với trâu ngựa ri!”.
đây Lỗ Tấn chính là đã thông qua việc vạch ra tư tưởng dễ cầu an, thỏa mãn đ liên hệ cái cảm xúc nhỏ trong đời sống của ông với vận mệnh lịch sử của nhân dân bị áp bức. Trong khi Lỗ Tấn vạch ra tư tưởng này; đồng thời cũng v ra cho chúng ta bộ mặt nguyên vn của lịch sử. Ông rạch ra cái thời thịnh thái bình mà mọi người ca tụng thực tế cái thời đại tại thời nô lệ của nhân dân, là năm tháng binh mã loạn ly, đó chỉ có thể là một loại “thời đại muốn làm nô lệ mà không được”. Cách nhìn này, đứng về mt phn ánh vận mệnh lịch sử bi thảm của nhân dân mà nói thì đã vạch ra cái chủ đề vô cùng sâu sắc. Tất nhiên, Lỗ Tấn không thỏa nãn với việc chỉ vạch ra bộ mặt thật của lịch sử, dụng ý tích cực của ông là liên h với cuộc đấu tranh thực tế, chỉ rõ ra sáng tạo cái thời đại thứ ba chưa từng có trong lịch sử Trung Quc, là sứ mệnh của thanh nn hiện nay. Tư tưởng chủ đề của bài Dưới đèn mạn bút là rt nghiêm túc, nhưng phương pháp biểu hiện của bài bình dị. Chng những bài đó đ chúng ta nhận thức cái chân lý của lịch sử, mà còn khơi gợi chúng ta suy nghĩ, làm cho chúng ta có nhận thức đầy đủ về mối liện hệ của đời sống xã hội, nhận thức được dù chỉ là một hoạt đông tư tưng thoáng qua cũng vẫn thường hàm súc nội dung lịch sử xã hội sâu xa. Tôi nghĩ những khêu gợi ấy sẽ mở rộng sự liên tưởng của chúng ta, làm phong phú phương pháp biu hiện nghệ thuật của chúng ta.
Trong bài “Xuân mạt nhàn đàm”, L Tấn kế cho chứng ta sự việc của giới động vật, con tò vò dùng cái ngòi độc thần kỳ của mình trích lên thần kinh vận động ca con sâu, làm cho con sâu tê liệt, rơi vào trạng thái nửa sống nửa chết, rồi đẻ trứng lên con sâu, vít kín tổ lại. con sâu không sống mà cũng không chết cho nên không động đậy, nhưng cũng vì không sống không chết nên không thối, cho đến khi trứng của con tò vò n thì cái mồi này vẫn còn tươi như khi mới bắt. Chúng ta thử suy nghĩ, nếu trong kho trí thức cùa chúng ta cũng chút trí thức ấy, chúng ta sẽ nảy ra sự liên tưởng gì? Từ sự cảm thông sâu sc với nhân dân bị áp bức qua hiện tượng tư nhiên, Lỗ Tấn đã liên tưởng đến ngay sự áp bức giai cấp trong đời sống xã hội. Muốn phục tùng tác uy thì cần không sống, muốn cống hiến thức ăn thì cần không chết, muốn bị trị thì cần không sng, muốn cung dưỡng cho kẻ trị người thì cần không chết. Nhân loại đã tiến lên cái linh của vạn vt (vạn vật chi linh), tất nhiên là đáng chúc mừng, nhưng không có cái nọc độc của con tò vò thì rt làm cho thánh quân, hiền nhân... cả đến những người giàu, học gi, nhà giáo dục hiện nay cảm thấy bó tay: Qua đó, đã vạch ra mạnh mẽ sự tàn khốc của áp bức giai cấp. Sự liên tưởng đó thật là tự nhiên cht chẽ, cách biếu hiện thật lối cuốn, hấp dẫn. Chng những cho chúng ta trí thức mà đồng thời còn biểu hiện rất rung động cái tư tưởng rất sâu sắc là “kẻ trị người btkẻ bị người trị phải không sông không chết, làm cho người đọc hiểu được thấu triệt và tiếp thu d dàng.
Nếu chúng ta quan sát kỹ sự vt, không dừng lại ở hiện tượng ca sự vật, mà đi sâu vào thực chất của nó, nhận thức được ý nghĩa tư tưởng của sự vật, thi chúng ta có thể từ một gợi ý ca một sự vật mà phát hiện ra sự liên h rộng rãi của nó, ny sinh ra sự liên tưởng phong phú. Đó là một nhận thức rút ra được qua sự phân tích nói trên. Đi với tác giả của tạp văn mà nói, đó là cái tài năng tư tưởng rt quan trọng. Khuân khổ bài tạp văn ngn, nh, nhưng phi giống như Lỗ Tấn nói: “Nó không có nhỏ, nói nên từ nh mà nhìn cáí lớn, từ sự vật cụ th vụn nhỏ mà khai thác ý nghĩa xã hội và sự liên hệ xã hội rộng lớn của nó, qua đó mà diễn đạt tư tưởng của mình. T hình thức biếu hiện mà nói, sự vật cụ thế, nhỏ cũng d hình tượng hóa, d nói được đầy đủ. Từ góc độ chọn tài liệu mà nói, cũng thể từ cái nhỏ mà nhìn cái lớn, vạch ra mối liên hệ của sự vật, sẽ nảy sinh ra sự liên tưởng phong phú. Tôi nghĩ rng giỏi lấy cái nhỏ nhìn cái lớn, phát hiện mối liên hệ rộng rãi giữa sự vật với sự vật, là một nhân tố tương đối quan trọng trong việc lấy tài liệu thoải mái d dàng trong tạp văn của Lỗ Tn.
2. Nắm được hiện tượng xã hội có mâu thuẫn đối lập
Tạp văn của L Tấn chẳng nhng giỏi vạch ra những mối liên hệ giữa sự vật với sự vật, mà cũng giỏi vạch ra cái mâu thuẫn giữa sự vật với sự vật. Sự vật liên hệ với nhau có thể in dấu lên nhau và bổ sung cho nhau, sự vật mâu thuẫn với nhau sẽ tác dụng đối chiếu và tôn nhau lên. Năm 1933, chẳng những có sự xâm lược cuồng bạo của đế quốc Nhật, mà còn có thiên tai nhân họa khác, nhân dân rơi vào cảnh đói rét chết chóc mà không được cứu giúp; nhưng ở trên mặt đất của Thượng Hải (thực ra chẳng phải chỉ có Thượng Hải) những thiện nam tín nữ còn mải với hội hè đền chùa, lo cho quỷ hồn chết đói, gặp lúc nguyệt thực, còn đì đẹt đốt pháo, để cứu mặt trăng ra khỏi miệng chó ngao. Đó ỉà một hiện tượng xã hộỉ có mâu thuẫn sâu sắc, tác giả nắm lấy. Thông qua sự đối lập của mâu thuẫn, tác giả vạch ra sâu sắc cái căn nguyên đẻ ra hiện tượng đó: đất nước lần lượt bị mất, nhân dân bị tai nạn không kế xiết "chẳng những cứu mà không được cứu, dù rằng chỉ nghĩ đến cứu, hễ mở mồm nói, biết đâu minh đã bị nguy hiểm rồi”, chớ nên thỏa đáng nhất là cứu quỷ hồn, cứu mặt trăng. Cho dù pháo có nổ vang khắp trời, chó ngao cũng không ra cắn ma, chú cuội (nếu như có chú cuội) trong mặt trăng cũng không ra cấm, không trừng mất coi là phản động mà”. Qua sự châm biếm ẩn dụ đó của Lỗ Tấn, đã giáo dục nhân dân nhận thức và căm ghét bọn phản động thống trị gây ra việc bán nước hại dân và bao nhiêu hiện tượng kỳ quái. Trong nước Trung Quốc cũ, dưới sự thổng trị của quốc dân đảng, những hiện tượng mâu thuẫn đó, nơi nào cũng có, quen rồi nên coi là thường, kỳ quái mà không thấy kỳ quái, đem tập trung nó lại thì thật là mọi người chú ý. Thủ pháp biểu hiện của tác phẩm đặc biệt nhấn mạnh mặt đối lập của mâu thuẫn: người sống trong hiện thực với hồn quỷ ở hư vô: trên mặt đất đang sống với mặt trăng ở tít khoảng không: đối với kẻ hư vổ phiêu diêu nào đấy thì cứu đấy mà sợ rằng bất lực, đối với kẻ thực tế ở sát ngay bên cạnh thì tránh đấy mà sợ ràng không xa (không tránh được xa). Nói tóm lại, không cứu người sống mà cứu hồn quỷ, không cứu đất nước mà cứu mặt trăng như vậy đã đem lại cho bài văn một sức mạnh chấn động lòng người thật mãnh liệt và vô cùng trong sáng.
Là một kỹ sư tâm hồn vĩ đại, Lỗ Tấn có sức quan sát rất sâu đối với mọi trạng thái tâm lý và mọi hiện tượng xã hội trong xã hội cũ. Những trạng thái tâm lý của mọi người có lúc biểu hiện ra bằng hình thức phân tán, phức tạp, rất dễ làm cho mọi người coi nhẹ lướt qua, nên đặc biệt cn nhà văn tập trung và khái quát nó lại, L Tấn thường thông qua việc vạch ra mâu thuẫn giữa hiện tượng với hiện tượng (hoặc sự vật với sự vật) để đánh vào xã hội cũ. Chng hạn những bài Napoleong với Jen-ne hoặc phần thứ nht của bài vài việc về Trung Quốc. Bài trên trích dẫn ra tương đối dễ. Chúng tôi xin dẫn chứng:
Chiến công của Napoleong có liên quan gì đến chúng ta? Thế mà chúng ta cứ khâm phục cái anh dũng của con người ấy.
Nhưng chứng ta hãy nhìn lên cánh tay ca mình, đại để đều có mấy vết sẹo, đó là những vết của chủng đậu, làm cho chúng ta thoát khỏi cái nguy hiểm của bệnh đậu mùa. Từ khi phương pháp chủng đậu đến nay, trên thế giới thật đã cứu sống không biết bao nhiêu trẻ con - mặc dầu có một số lớn lên cũng vẫn đi làm bia đỡ đạn cho các ngài anh hùng, nhưng chứng ta liệu ai nhớ được tên Jen-ne, người phát minh ấy không?”.
Đây là một đoạn văn chỉ có ba bốn trăm chữ, hai sự việc trong đời sống của xã hội cũ, tác giả đã tập trung và khái quát đã vạch ra một cách hết sức nổi bật cái mâu thuẫn trong ý thức xã hội. Tác giả đã phân tích hiện tượng mâu thuẫn đó như sau: kẻ giết người đang hủy hoại thế giới, kẻ cứu người đang tu sửa thế giới, còn chư vị có tư cách làm bia đỡ đạn thì tôn kính kẻ giết người". Đó là nêu rõ tư tưởng, ch đề của bài văn một cách như v rng đim mt, làm cho hình tượng mâu thuẫn được mu tả thành thống nht (còn nữa).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét