TỔNG LUẬN VỀ LỊCH SỬ BÁO CHÍ VIỆT NAM
TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1945
|
(Tài liệu tham khảo đặc biệt)
|
1. Trên phương diện chính trị - xã
hội:
Đấu tranh chính trị - xã hôi là một trong những thiên chức cơ bản của báo
chí.
Khi mới ra đời, về cơ bản báo chí nước ta nằm trong
vòng kiểm tỏa của thực dân, nhiều tờ báo trực tiếp “chui từ ống tay áo” của Soái phủ Nam Kỳ
hoặc của Phủ Toàn quyền Đông Dương. Nhiều nhà báo (“Bỉnh bút”, “Người làm nhựt trình”, “Ký giả”... chỉ là
những “Nhà báo quan lại”, “Nhà báo - viên chức”, chưa thể có “Ký giả thứ thiệt”).
Vì thế, báo chí buổi đầu hoàn toàn lệ thuộc vào
người Pháp. Thậm chí, cho đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, báo chí (hết p.226)
nước ta vẫn ở trong tình trạng là công cụ tuyên truyền trong khuôn khổ đường lối, chính
sách báo chí thực dân mà tiêu biểu là của A.Sarraut vạch ra.
Trên cái nền các phong trào chính trị, xã hội sôi
động sau chiến tranh, làng báo có vị thế “có chiếu ngồi”, dần trở thành diễn
đàn của các lực lượng xã hội của dân chúng, dĩ nhiên không phải tờ nào cũng làm
được.
Do những điều kiện riêng, Nam Kỳ đã xuất hiện dòng
báo đối lập, khuynh tả, trong và sau cao trào yêu nước và dân chủ 1925 -
1926, ghi một dấu son trong lịch sử báo chí nước nhà.
Hà Huy Giáp trong bài Nguyễn An Ninh một lãnh tụ
cách mạng hùng biện đưa ra sự so sánh "tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rè) của Nguyễn An Ninh xuất bản ở Sài Gòn 10/12/1923 với tờ báo Le
Paria của Hội Liên hiệp Thuộc địa mà Nguyễn Ái Quốc là linh hồn, xuất bản ở
Paris
1/4/1922, thấy như hai
anh em sinh đôi ở hai thời điểm khác nhau.
Nội dung nói chung, đều tố cáo chế độ thực dân,
giới thiệu nước Nga bônsêvích, đăng tải những bài của báo L' Huraanité (Nhân
Đạo) của Đảng Cộng sản Pháp...
Đối với Le Paria, Nguyễn Ái Quốc lo liệu hầu như
tất cả: nội dung, tài chính, in, phát hành thì đối với La Clocle fêlée, Nguyễn
An Ninh cũng lo tất cả mọi việc. Có số báo anh viết 3,4 bài với các bút danh
khác nhau. Thực dân khủng bố các nhà in nhận in (hết
p.227) báo
anh. Chị Ninh phải bán hết đồ nữ trang của chị dành dụm được, để anh chạy lo cho được một nhà in riêng. Với một chiếc xe đạp
xoàng, mặc áo dài
trắng, anh đạp khắp nơi vừa bán “Cù là An Ninh” vừa phát hành báo, vừa tuyên truyền cổ động”[1].
Dòng báo “đối lập” (triệt
để hay ôn hòa) dĩ nhiên
hoạt động không dễ dàng, nhưng ảnh hưởng tích cực của nó đối với tình cảm cộng
đồng, tinh thần dân tộc là điều khẳng định. Ngay một tờ báo “thân chính quyền” ở xứ Huế lúc đó cũng phải thừa nhận:
“Trọng số biết bao tiếng nói sắc bén hoặc hấp dẫn,
êm ái, hay sấm sét nổi lên trong lòng đất Đông Dương, trong cuộc dấy lên tranh đấu cho những lý tưởng khác nhau, quả thật báo chí có vai trò
quan trọng, hàng ngũ báo chí lúc đầu thưa thớt nhưng lần hồi đông đảo, tăng thêm ảnh hưởng và tầm quan trọng”[2].
Trên phương diện xã hội
nói chung, báo chí cũng có vị trí đặc biệt. Gần như các lực lượng xã hội đều
xuất bản báo chí riêng. Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam vừa ra đời đã có những tờ bạo khá tiêu biểu ở Hà Nội
như Khai Hóa
Nhật Báo, Thực Nghiệp Dân Báo tiền cơ sở “dòng
báo kinh tế” đã
xuất hiện ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX với tờ Nông
Cổ Mín Đàm
(1901).
Khuynh hướng Quốc gia cải lương có nhiều tờ báo mà sức ảnh hưởng của nó
trong báo giới một thời gian dài là không nhỏ. Đó là những Đông Dương tạp
chí (1913) và Nam Phong tạp chí (hết p.228) (1917) ở Bắc Kỳ và La Tribune Indochinoise, Le voix Annatnite, Progrès Annamite... ở Nam Kỳ, mà nhiều tờ đã sớm tiếp cận với
phong cách báo chí hiện đại của Âu - Mỹ.
Sôi động hơn cả là những tờ báo của tầng lớp tiểu
tư sản năng động và giầu lòng yêu nước. Ngoài các tờ báo “Khuynh tả” nổi tiếng kể trên,
lực lượng này còn hàng loạt những tờ báo với mầu sắc chính trị khác nhau: Nhật Tân Báo (1922), Đông Pháp Thời Báo (1923), Tân Thê kỷ (1926), Kỳ Lân Báo, Đuốc Nhà Nam (1928) Thần Chung (1929), đặc biệt là
các tờ Phong Hóa - Ngày Nay(1919) - 1940), Tri Tân, Thanh Nghi (1941)...
Các tờ báo đó, đa số phản ánh được
nguyện vọng dân tộc, dân chủ của dân chúng ở những mức độ khác nhau, góp phần
tạo ra môi trường chính trị xã hội sôi động từ sau chiến tranh thế giới thứ
nhất. Báo chí
không chỉ là phương tiện thông tin mà còn là mảnh đất tạo thêm tình cảm cộng đồng, phối hợp
tranh đấu. Người ta không quên những ví dụ sinh động như thế qua
cuôc tranh đấu của đồng bào cả nước đòi thả Phan Bội Châu (12/1925), đám tang Phan
Chu Trinh (1926), Lương Văn Can (1927)... Đó là không kể những sự kiện còn có qui mô lớn, tính
cách chính trị rõ rệt và có tổ chức cao hơn: Các cuộc biểu tình, đấu tranh
chính trị sôi động như, ngày 1/5/1937 ở Hà Nội và ở Sài Gòn 1938 do các
nhóm báo Tin Tức, Dân Chúng của những người mác xít tổ chức.
Báo chí cũng là nơi nảy sinh nhiều danh từ, khái
niệm chính trị, xã hội mới lạ: đồng bào, đồng chí, Tổ quốc, dân chúng, Đảng
Nghiệp đoàn, Hội đoàn biểu tình, bãi công, Tân văn, Văn hóa, Văn minh, Văn
học, nghệ thuật, khoa học, logic... (hết p.229).
Nhưng lớn nhất, sâu sắc nhất về mặt đấu
tranh xã hội phải thuộc về dòng báo chí cách mạng.
Kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khai sinh tờ
báo Thanh Niên (21/6/1925) ở Quảng Châu, đến Cách mạng tháng Tám thành công, chỉ qua
hai thập kỷ, dòng báo chí bí mật, cách mạng của khuynh hướng dân tộc xã hội chủ
nghĩa đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Từ những tờ báo đơn sơ ở nước ngoài
ở trong các nhà tù đế quốc ở các chiến khu cách mạng, dòng báo này dần dần có
những tờ báo lớn, có lúc được in typô rất hiện đại với tirage hàng vạn số, phát hành công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều thành phố khác, có tờ còn vượt biên giới ra nước ngoài đến tay những
nhà cách mạng Việt Nam chưa có điều kiện về nước.
Báo chí cách mạng Việt Nam vói sự nỗ lực của nhiều
thế hệ người cầm bút - chiến sĩ, dần dần đã xây dựng được cả một hệ thống báo
chí từ Trung ương xuống các địa phương, báo các cấp bộ Đảng là chủ yếu, bên
cạnh là hệ thống báo của Mặt trận Việt Minh xuất hiện từ sau 1941, gồm cả báo
và chí với những tờ tiêu biểu như báo Thanh Niên (1925 - 1932),
Lao Động (1929), Tranh Đấu (1930), Tạp Chí Đỏ, Tạp chí Cộng
sản (1930), tạp chí Bônsovíc (1934), Tin Tức (1938), Dân Chúng (1938 - 1939) Việt Nam Độc
Lập (1941 - 1945). Cờ Giải Phóng (1942 - 1945), Cứu Quốc
(1942) Sự Thật (1945 -1950)...
Báo chí cách mạng của Đảng ta chẳng những là phương
tiện, là vũ khí quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến tri thức cách
mạng, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mà còn là một hình thức tổ
chức nối kết cơ quan của Đảng với quần chúng (hết p.230).
Bài xã luận Sự nghiệp báo Đảng, nhân kỷ niệm 40 năm báo Nhân Dân viết:
“Lịch sử báo Đảng là
một bộ phận lịch sử của Đảng của cách mạng và của dân tộc ta. Báo Thanh Niên
do Bác Hồ sáng lập và làm chủ bút góp phần quan trọng truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào
nước ta, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam. Các báo Tranh đấu, Dân Chúng cùng một số báo khác của Đảng
xuất bản trong thập kỷ đầu sau khi Đảng thành lập đấu tranh việc tập hợp và
củng cố các lực luợng cách mạng và dân chủ xông vào những trận chiến đấu đầu
tiên chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc và phong kiến. Báo Cờ Giải Phóng
góp phần trực tiếp phát động cao trào cứu quốc, chuẩn bị Cách mạng
tháng Tám. Báo Nhân Dân, kế tục báo Sự Thật ra đời vào lúc cuộc kháng chiến cứu nước lần thứ
nhất của nhân dân ta ở
vào giai đoạn kết thúc. Lịch sử 40 năm hoạt động của báo gắn liền với lịch sử
đấu tranh oanh liệt của Đảng nhân dân ta…”[3].
2. Trên phương diện văn hóa
Trong bản báo cáo nổi tiếng Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn
hóa Việt Nam trình bày tại
Hội nghị văn hóa toàn quốc 1948, đồng chí Trường Chinh khi để cập đến tình hình
sinh hoạt báo chí thời thuộc địa đã có những nhận xét rất đáng chú ý.
Sau khi vạch rõ âm mưu thực dân Pháp rất sợ sự thức
tỉnh của dân tộc Việt Nam nên chúng cho Phạm Quỳnh ra tạp chí Nam Phong (hết p.231)
để dung hòa văn hóa Đông, Tây và cũ mới, lập hội Khai
trí tiến đức để bảo tổn đạo đức phong kiến lạc hậu và giới thiệu những tư tưởng bảo thủ của văn học Pháp[4], đồng chí Trường Chinh
đa viết một cách sảng khoái: “Rồi những vần thơ” chiêu hồn nưóc của Phạm Tất
Đắc thống thiết vang lên dưới trời Bắc Bộ, tiếp đến “Hồi trống tự do” của Trần Hữu Độ trong Nam đáp
lại như sôi nổi can trường, ở nước
ngoài, cụ Nguyễn Ái Quốc vừa lên tiếng “Kết án chủ nghĩa thực dân Pháp”[5] và tờ Việt Nam Hồn của Nguyễn Thế Truyền
xuất bản ở Pari tới tấp bay về tận nước nhà. Ông Nguyễn An Ninh đánh “Cái Chuông Rè” (Cloehe fêlée) ở Sài Gòn, cụ Huỳnh Thúc Kháng thét “Tiếng Dân” giữa kinh thành Huế.
Ông Trần Huy Liệu dốc "Một bầu tâm sự”, các ông Diệp Văn Kỳ, Nguyễn Khánh
Toàn, Phan Văn Trường, Bùi Công Trừng, tiêu biểu cho dư luận cấp tiến, cách mạng
trên các tờ báo: Annam Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung...
ở Huế, ông Đào Duy Anh xuất bản tập sách Quan hải
tùng thư có ít nhiều tính chất duy vật và bắt đầu soạn bộ Từ điển Việt Nam. Ở Sài Gòn bà Nguyễn
Đức Nhuận xuất bản tờ Phụ Nữ Tân Văn có khuynh hướng lãng mạn tiêu cực
chống phong kiến đã bắt đầu với Tố Tâm của giáo sư Hoàng Ngọc Phách. Tư
tưởng cải cách đã chống nhau với tư tưởng bảo thủ trong cuộc bút chiến về học
thuyết Khổng Mạnh giữa hai ông Phan Khôi và Trần Trọng Kim… [6] (hết p.232)
Khi đánh giá những giá trị văn hóa của báo
chí lúc đó, tác giả Chủ
nghĩa Mác và vấn đề văn hốa dân tộc Việt Nam còn đặc biệt chú ý vai trò, ảnh hưởng của ĐCSĐD,
báo chí cách mạng đến sự chuyển biến về tư tưởng và văn hóa của các nhà
báo, các nhóm Trí Tân, Khoa Học, Thanh Nghị...
Báo chí nước ta thực sự là con đẻ
của văn minh phương Tây, là phương tiện quan trọng, là cái
cầu nối đầu tiền để giới thực dân thực hiện cuộc “Âu hóa”.
Nhưng rồi với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, về
phương diện văn hóa, bên cạnh chức năng công cụ tuyên truyền, nô dịch của chủ
nghĩa thực dân hoạt động báo chí - nhất là khi những nhà báo, nhà văn hóa có
lòng yêu nước, thái độ dân tộc đúng đắn đã giành lại thứ vũ khí văn hóa mới này
về cho mình thì báo chí đã đem lại không ít những giá trị văn hóa đích thực.
Trước hết là vấn đề chữ
Quốc ngữ.
Trong lịch sử 300 năm hình thành và đi vào đời sống
của chữ quốc ngữ, rõ ràng báo chí có vai trò lớn trong cả giai đoạn hình thành và
bước đầu sử dụng.
Từ 1933, trong bài diễn thuyết Báo giới và Văn
học Quốc ngữ tại hội Nam Kỳ khuyến học, Thiếu Sơn đã có nhận định: “Như vậy là chữ Quốc ngữ đã
thắng được chữ Tây, cũng như chữ Nôm đã được ông cha ta dùng thay chữ Tàu
vậy... Chữ Quốc ngữ của ta bây giờ, chỉ trong vòng 20 năm nay đã có được cái địa vị vô cùng ...
Thế là chữ Quốc ngữ đắc thắng. Mà sự đắc thắng này không những ta đã thấy ở báo
giới Nam Kỳ mà thôi. Cả báo giới Bắc Kỳ cũng thấy bầy ra cái hiện tượng khả
quan đó[7] (hết p.233).
Đúng là chữ quốc ngữ, báo chí đi từ Nam
ra Bắc. Buổi đầu cũng có sự khác biệt nào đấy. Nhưng chính sự phát triển của
nó, sự giao lưu của các cây bút Nam Bắc trong báo giới và văn đàn đã nhanh chóng xóa
bỏ “Không có văn Nam Kỳ và cũng
không có văn Bắc Kỳ chỉ có văn Việt Nam thôi”[8], như Phan Khôi nhận định trong nhũng năm đó.
Bằng Giang trong một công trình về văn học Quốc ngữ mới đây có nhận
xét: “Trong những năm 10, 20 của thế kỷ này, các nhà báo ở Bắc, Trung vào Nam
sinh sống bằng cây viết. Có vài người ở
vài năm rồi về, có người đi đi lại lại, cũng có người ở luôn: Tản Đà, Phan
Khôi, Đào Trinh Nhất, Trần Huy Liệu, Bùi Thế Mỹ, Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố...
Từ khi đường xuyên Việt được hoàn thành (1936),
việc phát hành sách báo thêm thuận lợi, sự đi lại giữa các địa phương trong
nước phần nào thuận lợi hơn trước... Tờ báo Thanh Niên của kiến trúc
sư Huỳnh Tấn Phát (7/8/1943 đến 30/4/1944) hăng hái cổ vũ cho sự thống
nhất dân tộc, đi dần đến sự thống nhất tiếng Việt… Những sự kiện đó đã
thâu ngắn khoảng cách câu văn xuôi của hai miền đất nước”[9].
Với văn học, báo chí nước ta lại có vai trò đặc
biệt khác với châu Âu như nhận xét của Huỳnh Văn Tòng : "văn học hiện đại
Viêt Nam thoát thai từ báo chí, khác với trường hợp ở các nước Tây phương Ịà
văn học đẻ ra báo chí[10] (hết p.234).
Đặc điểm khá độc đáo này của báo
chí Việt Nam cũng được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài chú ý đến. Thậm chí,
trong cuốn Nhập môn văn học Việt Nam,
M. Durand và Nguyễn Trần Huân đã nhìn nhận,
báo chí như một bộ phận của tiến trình Văn học và được coi là một chương của bộ
sách này với ý nghĩa như một thể loại, một động lực của văn
học[11].
Vấn đề cũng không chỉ là phương tiện. Một thời gian dài, gần như
tất cả các sáng tác văn học, kể cả dịch thuật đều đăng tải trên báo chí, từ những
tờ đầu tiên ở Sài Gòn, đến những tờ nổi tiếng như Phong Hoá, Ngày Nay, Tao
Đàn, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, Phụ Nữ Tân Văn, Hữu Thanh, ... Vấn đề còn là, khi Văn chưa
tách khỏi bảo (giữa thập kỷ 30 về trước) thì phần lớn các nhà văn đều phải đi
từ nghề báo.
Vả lại, cũng thật khác biệt với báo chí nhiều nước,
báo chí nước ta, dù là báo kinh tế hay báo chí tôn giáo, cũng luôn luôn giữ mục Văn
uyển (vườn văn), thậm chí trang văn học, trang tiểu thuyết (dịch, sáng tác)
thường kỳ trở nên một chuyên mục, câu khách...
Nói về vai trò, vị trí văn hóa của báo
chí thời thuộc địa có gì đó thực mâu thuẫn. Một nền báo chí thoát thai từ môi
trường thuộc địa, nằm trong mưu đồ khai hóa của chủ nghĩa thực dân mà về
bản chất là sự thực thi chính sách thực dân về văn hóa, sự mở mang văn hóa giáo
dục chỉ trong khuôn khổ lợi ích của chế độ thuộc địa (hết p.235).
Tuy vậy, với chức năng nguyên ủy của nó, tờ báo -
phương tiện chuyển tải thông tin quan trọng, dù thế nào cũng đã góp phần mở
rộng tầm mắt, sự hiểu biết cho người đọc. Trong điều kiện hạn chế thông tin lúc đó, quả
là tờ báo có vị trí quan trọng. Nhiều người đọc, kể cả những thanh niên yêu nước và sau đó
thành những nhà cách mạng thực thụ thừa nhận rằng, với tính cách một tạp
chí bách khoa, tờ Nam Phong
có khả năng trang bị những kiến thức khá cơ bản cho người đọc khi đó.
Trong cuốn sách Xã hội Việt Nam trước sự hiện
đại hóa mới xuất bản gần đây, tác giả Nguyễn Văn Ký còn có nhận xét rằng,
cùng với các nhà văn nhà thơ, nhà giáo, chính các nhà báo những
năm đầu thập kỷ 30 là một trong những nhân vật chủ yếu đem lại sự hiện đại hóa
đó[12]. Đây là một nhận xét có
cơ sở khi khảo sát vai trò của giới báo chí, nhất là các tờ báo chủ yếu như
Đông Dương Tạp chí, Nam Phong, Phong hóa - Ngày Nay.
Với dòng báo chí cách mạng thì sự đóng góp
của nó về phương diện văn hóa, còn có những nét đặc biệt khác.
Báo chí cách mạng nước ta nẩy sinh và phát triển
đúng như bản thân phong trào cách mạng, lịch sử ĐCSVN. Được hình thành ở nước
ngoài do chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giữa thập kỷ XX, báo chí cách mạng của
Đảng ta thực sự là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập
thể như Lênin đã chỉ ra (hết p.236).
Trên phương diện văn hóa, bản thân sự tồn tại dòng báo chí cách mạng đã có ý nghĩa tiêu biểu
cho sự hình thành nền văn hóa mới, văn hóa cách mạng mà ĐCSVN trong khi phải dốc sức vào
nhiệm vụ chính trị trước mắt là vấn đề giành chính quyền đã tạo dựng. Phải nói thêm
rằng, trong những di sản quí báu, cái vốn đầu tiên của nền vằn hóa mới ấy, báo chí cách
mạng là bộ phận có giá trị hàng
đầu bên cạnh là những thành tựu đầu tiên khác là văn học cách mạng, lý
luận về văn hóa của Đảng ta.
Những người làm báo cách mạng phần lớn từ “nghiệp
dư” do
sự phân công của công tác cách mạng, đến
chỗ đã tương đối có tính “chuyên nghiệp” dù luôn phải đối đầu với sự đàn áp của thực
dân, đối đầu với cái chết và tù tội. Về mặt nghề nghiệp, kể từ khi lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc khai sinh những tờ báo cách mạng đầu tiên, thế hệ thứ
nhất đã ra đời với những tên tuổi như Nguyễn Văn Tạo, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Bùi
Công Trừng, Nguyễn Khánh Toàn...
Thập kỷ 30, đặc biệt trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ
là những Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, Trần Đình Long; Trần Huy Liệu, Khuất Duy Tiến, Hải
Triều tạo nên thế hệ thứ hai của dòng báo chí Cách mạng... Thế hệ thứ
ba, những người cách mạng trẻ tuổi hơn đi vào nghề làm báo cách mạng khi cuộc vận động
cách mạng đang sôi sục đầu thập kỷ 40 như: Xuân Thủy, Hồng Chương, Hoàng
Tùng, Thép Mới, Tô Hoài, Quang Đạm...
Nhà báo - nhà cách mạng cũng là một “sản
phẩm” nữa của sự vận động văn hóa của một nước Việt Nam mới (hết p.327).
|
Hà Nội, mùa Thu 1998
|
NOTE: Tài liệu này có nguồn gốc có thể trích dẫn
để sử dụng, các bạn có nhu cần liên lạc với tác giả qua Email để tham khảo
thêm.
Nguyenbuikhiem@gmail.com
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét