Cảo thơm lần giở, vô tình tìm thấy tờ Gia Định Báo ra ngày 02/9/1890, đây là một trong những số hiếm hoi còn lưu trữ được của tờ báo tiếng Việt đầu tiên của lịch sử báo chí Việt Nam. Sau 123 năm tồn tại, được thấy bản chụp một tờ báo đã đi vào lịch sử báo giới, lại trùng hợp với thời gian này thật là cảm động, xin up để mọi người cùng xem:
Khiemnguyen
Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013
Báo chí và ngày Quốc khánh 02/9/1945
Cảo thơm lần giở, tìm kho lưu trữ thấy có bài viết về ngày Tết Độc lập của dân tộc Việt Nam, 02/9/1945, xin up lên đây để mọi người cùng đọc.
Báo Cứu quốc, cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Việt Minh, số ra ngày 05/9/1945:
Trung Bắc Chủ nhật, số 261, ra ngày 09/9/1945 có đăng ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trang 5, có bài Hôm nay là ngày độc lập! Muôn năm Độc lập! Độc lập muôn năm!
Việt Nam dân quốc công báo, số tháng 9/1945
h
Báo Cứu quốc, cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Việt Minh, số ra ngày 05/9/1945:
Trung Bắc Chủ nhật, số 261, ra ngày 09/9/1945 có đăng ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trang 5, có bài Hôm nay là ngày độc lập! Muôn năm Độc lập! Độc lập muôn năm!
Việt Nam dân quốc công báo, số tháng 9/1945
Ai quay những thước phim Lễ Tuyên ngôn Độc lập?
Một ngày năm 1974, đạo diễn
Phạm Kỳ Nam đang làm bộ phim tài liệu "Những ngày Bác Hồ ở Tây Âu"
tại Pháp thì có một cuộc điện thoại gọi đến khách sạn nơi ông ở. Người bên kia
đầu dây nói rằng, có một người bạn nhờ trao hộ món quà vô cùng đặc biệt và phải
trao tận tay đạo diễn Phạm Kỳ Nam.
Sau khi
đến tận nơi trao gói quà cho Phạm Kỳ Nam, người đó nói rằng “nó rất có ích cho
bộ phim đang làm của ông” rồi xin phép đi luôn. Người khách vừa đi thì Phạm Kỳ Nam mở gói quà
và ông lặng đi vì xúc động khi thấy dòng chữ trên những hộp phim 16 ly: “Những
thước phim tài liệu về Lễ Độc lập 2/9/1945”. Nhưng, những thước phim tài liệu
này ở đâu và ai đã quay nó?
Trở lại
những ngày tháng 8 cách đây 67 năm, khi đó không khí sôi sục khởi nghĩa bắt đầu
từ sự kiện Việt Minh biến cuộc biểu tình của Tổng hội viên chức ủng hộ Chính
phủ Trần Trọng Kim ngày 17/8 thành cuộc biểu dương lực lượng cách mạng của quần
chúng. Ngày 19/8, một cuộc mít tinh lớn do Việt Minh tổ chức tại Quảng trường Nhà
hát Lớn đã kết thúc bằng cuộc tuần hành thị uy của quần chúng phối hợp với lực
lượng vũ trang chiếm đóng các sở, cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn theo
lời kêu gọi của Ủy ban Quân sự cách mạng và ngày 20/8, Ủy ban Nhân dân Cách
mạng Bắc Bộ và Hà Nội chính thức thành lập. Trước không khí cách mạng trên cả
nước, dù đang bị ốm khá nặng nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quyết định rời Tân
Trào về Hà Nội vào sáng ngày 22/8. Sáng ngày 26/8, Người chủ trì cuộc họp của
Thường vụ Trung ương Đảng tại số nhà 48 phố Hàng Ngang để chuẩn bị ra Tuyên
ngôn độc lập. Ngày 27/8, tại cuộc họp của Ủy ban Dân tộc Giải phóng, các thành
viên đã bầu Người làm Chủ tịch lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ấn
định ngày 2/9 sẽ làm lễ tuyên bố nước Việt Nam là quốc gia độc lập, ra mắt
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lâm thời. Thời gian quá gấp rút nên công
tác chuẩn bị cho ngày lễ được giao cho những cán bộ có năng lực. Việc tổ chức
ngày trọng lễ được giao cho ông Nguyễn Hữu Đang, thiết kế lễ đài do kiến trúc
sư trẻ Ngô Huy Quỳnh, còn việc chụp ảnh và quay phim được nhà nhiếp ảnh trẻ Võ
Văn Lai sốt sắng đảm nhiệm. Nhiếp ảnh thì không lo lắm nhưng quay phim thời
điểm đó ở Hà Nội chỉ có nhà nhiếp ảnh Hương Ký và hãng Đông Dương phim. Nhưng
Đông Dương phim chỉ còn trên danh nghĩa, thực tế đã không còn hoạt động, cũng
không còn máy móc thiết bị nên Võ Văn Lai đã mời Hương Ký và ông này đã nhận
lời, hứa cử hai người, một quay phim và một nhiếp ảnh. Vậy ông Hương Ký là ai
và tại sao chỉ mình ông này lại biết quay phim và có thiết bị quay phim?
Đầu thế
kỷ XX, tại khách sạn Métropole người ta đã chiếu phim tại Grand café bộ phim
câm có tiêu đề là “Thần cọp”, có thể khẳng định đây là bộ phim đầu tiên chiếu
tại Hà Nội. Tuy nhiên, phải gần 20 năm sau Hà Nội mới có hãng phim đầu tiên.
Ngày 11/9/1923, người Pháp công bố thành lập Hãng phim và Chiếu bóng Đông Dương
(Indochine Films et Cinéma - IFEC). Ra đời được hơn một tháng, IFEC đã sản xuất
bộ phim đầu tiên là “Kim Vân Kiều”. “Kim Vân Kiều” do dàn đào kép của ban tuồng
Quảng Lạc thực hiện, Bẩy Tắc đóng vai Hoạn Thư, Tư Lê đóng vai ông Phủ. Sân
chùa Láng là bối cảnh dinh Từ Hải, cổng làng Thọ làm cửa vào nhà Tú Bà, bãi tha
ma làng Yên Thái là chỗ Kiều viếng mộ Đạm Tiên… Đây là bộ phim câm, độ dài
1.500 mét, quay xong được đưa về Pháp làm hậu kỳ và ra mắt lần đầu tại rạp Palace
(nay là rạp Công Nhân, phố Tràng Tiền).
Cùng với
IFEC, có một người Hà Nội cũng bỏ tiền ra làm phim, đó là ông Nguyễn Lan Hương
(còn gọi là Hương Ký). Cũng như nhiều thanh niên Việt Nam khi ấy,
Hương Ký bị bắt đi làm lính thợ, tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Giải ngũ năm 1919, Hương Ký ở lại Pháp học nghề ảnh, sau đó về nước mở hiệu ảnh
ở số nhà 86 phố Hàng Trống. Năm 1924, chủ tiệm ảnh Hương Ký đã nhờ một người
Pháp hiểu biết về điện ảnh dạy cách làm phim rồi tự thực hiện bộ phim hài đầu
tiên có tên là “Đồng tiền kẽm tậu được ngựa”. Phim dài sáu phút, phỏng theo
truyện “Cô gái và bình sữa” (La laitière et le pot au lait) trong truyện ngụ
ngôn của La Fontaine. Phim thứ hai của Hương Ký cũng là phim hài với tựa “Cả Lố”,
đang quay thì phải dừng lại vì bất đồng giữa nhà sản xuất với diễn viên. Sau
đó, Hương Ký còn quay phim tài liệu “Ninh Lăng” dài 2.000 mét về đám tang vua
Khải Định. Tiếp đó là phim “Tấn tôn đức Bảo Đại” dài 800m về lễ đăng quang của
Bảo Đại, với chi phí 30.000 đồng (tiền Đông Dương), chiếu tại rạp Palace 27
ngày nhưng chỉ thu được 5.000 đồng, khiến Hương Ký lỗ nặng. Tiếng tăm về phim
của người An Nam làm lan sang các tỉnh phía Nam Trung Quốc và tỉnh trưởng Vân
Nam đặt hàng Hương Ký làm hai phim tài liệu quay tại Trung Quốc. Nhưng sau khi
làm xong bộ phim thứ nhất “Đám tang tướng Đường Kế Nghiêu” (làm năm 1929),
không thấy Hương Ký làm phim nữa mà trở về với nghề nhiếp ảnh. Có người cho
rằng IFEC đã tác động đến tỉnh trưởng Quảng Tây để dừng dự án vì họ không muốn
một hãng phim Việt Nam
thành công trong khi họ liên tục thất bại. Sau này tuy không bỏ tiền làm phim
nữa nhưng Hương Ký vẫn đam mê phim, mua máy quay, thiết bị in tráng để quay
chơi, đồng thời Tây hay ta nếu có nhu cầu quay làm tư liệu thì nhận làm dịch
vụ. Như vậy, Hương Ký là nhà quay phim duy nhất ở các tỉnh phía Bắc trong nửa
đầu thế kỷ XX.
Trong Lễ
Tuyên ngôn Độc lập, hai nhân viên chụp ảnh và quay phim của nhà Hương Ký được
ông Nguyễn Hữu Đang cấp giấy phép đi lại để tác nghiệp ở những khu vực cho
phép. Nhưng một tuần sau ngày 2/9, Hương Ký thông báo không quay được vì máy
quay trục trặc. Rồi câu chuyện cũng bị chìm đi vì nước Việt Nam non trẻ lúc
đó có quá nhiều việc phải làm, và sau đó thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội... Cho
đến khi đạo diễn Phạm Kỳ Nam
mang những thước phim quý giá về nước thì ông Nguyễn Hữu Đang vì lý do đặc biệt
nên cũng không biết. Mãi đến năm 1990, trong bài viết “Những điều còn bí ẩn
quanh việc quay bộ phim Ngày độc lập 2/9/1945”, ông Nguyễn Hữu Đang vẫn không
tin những thước phim đó do Hương Ký quay vì ông biết sau lễ độc lập ít ngày,
quân Tầu Tưởng đưa Vũ Hồng Khanh về nước với âm mưu cướp chính quyền thì Hương
Ký đã theo Quốc dân đảng chống lại Việt Minh. Song ông đưa ra một giả thiết
khác: có thể những thước phim ấy do chính nhân viên phái bộ Mỹ dưới danh nghĩa
đại diện quân đồng minh đã quay. Ông lý giải, với danh nghĩa là đại diện quân
đồng minh, họ được quyền đi lại thoải mái trên quảng trường để quay phim, chụp
ảnh mà không bị ai cản trở. Tuy nhiên ông Nguyễn Hữu Đang vẫn nghi ngờ vì nếu
phái đoàn Mỹ quay thì tại sao họ không tặng lại cho Chính phủ lâm thời mà lại im
lặng bao nhiêu năm để rồi nhờ một người mang đến cho đạo diễn Phạm Kỳ Nam với
mục đích gì?
67 năm
đã trôi qua và cho đến hôm nay, ai đã quay những thước phim về ngày Lễ Tuyên
ngôn Độc lập 2/9/1945 vẫn còn là điều bí mật.
|
Nguyễn Ngọc Tiến
|
Nguồn:http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Phong-su-Ky-su/558107/ai-quay-nhung-thuoc-phim-le-tuyen-ngon-doc-lap
Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA VĂN HỌC TRUNG QUỐC TRONG TIẾN TRÌNH PHẤT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
Lâu nay, khi nghiên cứu mối quan hệ văn học Trung Quốc và Việt Nam học giả Việt Nam chủ yếu nhấn mạnh mặt vượt lên ảnh hưởng to lớn của văn học Trung Quốc để xây dựng nền văn học dân tộc độc
đáo. Đó là mặt quan trọng chủ đạo, giúp đánh giá bản thân mọi ảnh hưởng. Nhưng việc nghiên
cứu các qụy luật của nó cũng có ý nghĩa riêng, nhất là khi địa vị độc đáo của văn học Việt Nam đã được khẳng định trong cộng đồng văn hóa thế giới. Đây là một đề tài lớn mà trong bài này chúng
tôi xin phác qua vài nét sơ lược.
Sự giao lưu văn hóa Việt Trung vào thời cổ đại,
khi tương truyền người Việt có chữ “con nòng nọc” như thế nào, chúng ta còn chưa rõ. Thời Bắc thuộc, từ đầu công nguyên, cho đến khi người Việt Nam xây dựng quốc gia độc
lập vào thế kỷ X, mối quan hệ
giao lưu không bình thường đã không để lại kết quả gì về thư tịch đáng kể. Tuy nhiên
về mặt ngôn ngữ, nhiều nhà ngữ học cho biết đây là thời kỳ chuyển hóa của tiếng
Việt từ đa âm tiết và vô thanh điệu sang đơn âm tiết vá có thanh điệu (đặc điểm
của ngữ hệ môn Khơme và Nam á mà tiếng Việt thuộc vào) (t187): Quá trình đơn âm tiết hóa và thanh điệu hóa hoàn thành khớp với thời điểm hình thành nền văn học
viết dân tộc (thế kỷ X - XV). Tiếng Việt giàu thanh điệu hơn tiếng Hán và đường
nét của thành điệu cũng khác, cho nên quá trình nói trên không chỉ do ảnh hưởng
tiếng Hán. Nhưng cách đọc Hán Việt cổ từ thời Hán và phát triển vào đời Đường
còn lưu giữ bền chặt trong tiếng Việt, cùng với khoảng 60% từ gốc Hán các loại
trong từ vựng tiếng Việt đã chứng tỏ tiếng Hán đã ảnh hưởng lớn tới
tiếng Việt không chỉ ngữ âm, từ vựng, mà đặc biệt là phong cách học, làm thành yếu tố nội tại
của tiếng Việt, tạo thuận lợi cho việc tiếp nhận và Việt hóa luật thơ, thể thơ và phong cách thơ văn Trung Quốc (t188).
Văn hóa và văn học Trung Quốc được tiếp
nhận và phát huy ảnh hưởng nhiều mặt nhất là vào thời kỳ Việt Nam xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ. Ảnh hưởng này diễn ra
qua các mặt và quy luật như sau:
1. Việc sử dụng Hán văn như một phương tiện quản lý, giáo dục,
giao tiếp đã tạo ra một dòng văn học chữ Hán: với tư cách là bộ phận không tách
rời của văn học Việt Nam.
Vị trí có trước của văn tự Hán và văn học chữ Hán đã góp phần thúc đẩy sự ra
đời củạ chữ Nôm và văn học quốc âm.
2. Về thể loại văn học, các thể văn học viết chữ Hán có trước từ thế kỷ X
hoặc sớm hơn, còn thể loại văn học Nôm xuất hiện sau gần 5 thế kỷ (XV -
XVI).
Trong các thể loại văn học Nôm, các thể loại mô
phỏng luật thơ phú Hán xuất hiện trước (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bá
Lân…) các thể thơ thuần túy Việt Nam như lục bát, song thất lục bát xuất hiện
sau (Lê Đức Mao, Hoàng Sĩ Khài thế kỷ XVI), nhưng thịnh hành và đạt được trình độ chín muồi,
điêu luyện và đỉnh cao là vào thế kỷ. XVIII - XIX (Chinh Phụ Ngâm khúc
của Đoàn Thị Điểm, Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du). Trong các tác
phẩm đạt được đỉnh cao của Văn học Vỉệt Nam như Chinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều, dấu vết ảnh hưởng của văn học
Hán là rất đậm. Một tác phẩm nặng về tập cổ, một tác phẩm sử dụng cốt truyện có sẵn của tiểu thuyết
Trung Quốc. Như vậy là văn học Trung Quổc đã ảnh hưởng tới từng bước phát triển
của văn học Việt Nam, góp phần vào từng thành tựu của nó.
3. Trong lĩnh vực sáng tác, việc
nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam cần chú ý
đầy đủ đặc điểm của văn học trung đại. Một là, hiện tượng tập cổ, vay mượn,
biến đổi, xâu chuỗi các chủ đề, biện pháp nghệ thuật, cốt truyện cổ sẵn là quy luật chung của mọi nền
văn học trung đại. Các kiệt tác văn học Trung Quốc như Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây du ký… một số sáng tác thơ
như cửa Đào Uyên Minh, theo các nhà Trung Quốc học người Nga, đều có cải biên, xâu chuỗi,
dùng lại các tình tiết, câu thơ của người đi trước. Việt Nam và Trung Quốc tuy về cương vực, phong tục đã khác biệt nhau, song
về văn học người ta vẫn như cảm thấy có sự tiếp nối nào đó. Các nhà nho Việt Nam, mỗi khi
nhắc tới trước tác của danh gia Trung Quốc đều coi như cổ nhân của mình, và tự
coi mình là người kế thừa... (xem Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú), cho nên các nhà văn học
trung đại Việt Nam sử dụng chất liệu văn học Trung Quốc mà không cảm thấy như
là vay mượn nước ngoài (t189).
Quy luật sáng tác trung đại, một mặt, cho phép sử dụng chủ đề,
thủ pháp, cốt truyện có sẵn, mặt khác lại cho phép tức hứng, ứng tác biến hóa để gửi gắm tấc
lòng, do đó nghiên cứú văn học này phải chú ý
đầy đủ phần biến cải, ứng tác của nó. Nhu cầu cải biến, ứng tác này rất lớn, có khi lớn hơn việc sáng tạo ra cái mới... Nếu
không, làm sao giải thích được là có một bản Hán văn Chinh phụ
ngâm khúc của Đặng Tràn Côn mà có những tám bản diễn ẩm ra tiếng
Việt? Tại sao có một bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã sáng tạo thành Đoạn
trường tân thanh rồi, mà bạn ông là Phạm Quý Thích lại viết
thành truyện Hán văn là Kim Vân Kiều tân truyện?.
Hai là, ý thức về bản quyền tác giả chưa có. Theo Riptin, thời
trung đại chưa có khái niệm về
sự sao chép, ăn cắp văn, và cũng do đó mà chưa có ý thức tôn trọng văn
bản người khác. Nguyễn Huy Tự diễn nôm Hoa tiên ký của tác giả
vô danh Trung Quốc, thành Hoa tiên truyện, đến lượt mình Nguyễn Thiện lại nhuận
sắc văn của Huy Tự; Cao Bá Quát đọc truyện Hoa tiên lại cũng muốn sửa chữa, nhuận sắc, nhưng do không có điều kiện đành
thôi... Cũng vậy, theo Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Du viết xong truỵên Kiều, đưa cho Phạm Quỹ
Thích nhuận sắc, và sau này các nhà khảo đính còn tiếp tục cho ra nhiều dị bản khác. Một tác
phẩm có thể do nhiều người viết (Tây sương ký, Hồng Lâu mộng, Hoàng Lê nhất
thống chí).
Ba là, các tác giả cũng chưa có ý niệm
rõ ràng về dịch và cải biên, phóng tác, sáng tác (t190). Trong văn học Việt Nam trung đại, văn học chữ Hán và văn
học chữ Nôm cùng tồn tại và phân biệt về phong cách tao nhã, văn chữ Nôm ngoài
phong cách tao nhã, còn có thêm phong cách gần gũi, suồng sã. Trong điều kiện đó dịch là một hành
động sáng tác để tạo được một tác phẩm Nôm đua tranh vẻ đẹp cùng
nguyên tác - Mộng liên đường, chủ nhân đề tựa Truyện Kiều gọi nó là dịch phẩm, nhưng
khi bình luận thì coi như là tác phẩm sáng tác. Do vậy, mặc dù có những tác phẩm dịch xuất sắc đầu thế kỷ XIX, song văn học dịch
thực sự chỉ ra đời vào đầu thế kỷ XX. Hầu hết thơ văn Trung Quốc đến thời
kỳ này mới được dịch ra tiếng Vỉệt. Do đó, trước thế kỷ XX, rất khó phân biệt tác phẩm
dịch, sáng tác và phóng tác. Bỏ qua đặc điểm văn học trung đại sẽ không
đánh giá đúng quan hệ ảnh hưởng và sáng tạo.
4. Những ảnh hưởng văn học đích thực dù
thời nào cũng thông qua tiếp nhận, lựa chọn và sáng tạo, chứ không phải là sự
sao chép, lặp lại giản đơn. Đặc sắc của văn học Việt Nam như là một nền văn học
dân tộc độc đáo chính là ở cách tiếp nhận, ứng xử của nó đốí với tác động ảnh
hưởng của nước ngoài. Về điểm này có thể khái quát mấy nét chính đã được mọi người công
nhận như sau: Một là về chủ đề, nhìn chung văn học Việt
Nam lựa chọn các hình thức, phương tiện để thể hiện lòng yêu nước, yêu còn
người của mình. Hai là, về
mặt triết học, người Việt Nam có cách tiếp nhận riêng về tư tưởng Nho, Phật, Lão.
Trong nền văn học của người Trung Hoa, người Việt Nam đặc biệt yêu chuộng các tác
phẩm viết về tình yêu quê hương, gia tộc, bạn bè, thiên nhiên, tình yêu đôi
lứa, thương tiếc tuổi xuân... Thơ vần Việt Nam tiếp nhận (191) nội
dung nhân tính phổ biến được thể hiện đậm đà trong văn học Trung Quốc. So sánh
tập thơ Đường do Tản Đà dịch với thơ Đường Trung Quốc, so sánh Chinh phụ
ngâm khúc với thơ Trung Quốc sẽ cho ta nhận thức đó. Văn học Việt Nam thiên về
chất trữ tình mà ít phát triển ý thức tự sự. Đặc điểm này làm cho các nhà văn
Việt Nam
ít tiếp thu các thể loại tự sự lịch sử lớn, hoặc các yếu tố văn xuôi của văn
học thị dân. Khi kể lại chuyện Tô công phụng sứ hay truyện Vương
Tường thì tác giả việt Nam
chuyển nó thành một chuỗi bài thơ trữ tình. Sáng tạo Truyện Kiều trên cơ
sở tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (bản 20
hồi) ta thấy nhà thơ Việt Nam lược bỏ hầu hết các yếu tố văn xuôi như các cốt
truyện mưu mẹo, các tình tiết tình dục (tác phẩm này được liệt vào trong danh
sách 112 tác phẩm văn học tình dục cổ điển của Trung Quốc). Các chi tiết hành
hạ người có tội, các chỉ tiết treo gương liệt nữ và sự nghiệp bất hủ... để làm
nổi bật tính cách Kiều, một số phận đáng thương. Tác giả cũng tước bỏ yếu tố
lịch sử, làm cho lai lịch Từ Hải thêm mơ hồ, bay bổng. Nhà văn Việt Nam cũng
thay đổi điểm nhìn trần thuật, kể chuyện theo cái nhìn bên trong, khác với cái
nhìn rối vụn, thiếu nhất quán vốn có của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung
Quốc, làm cho thế giới nội tâm của Kiều nổi bật lên. Và Truyện Kiều đầy
ắp chất trữ tình. Việc Nguyễn Du tước bỏ các chi tiết văn xuôi của nguyên tác
có nhiều lý do. Một trong các lý do đó, theo chúng tôi là nhãn quan thơ trữ
tình, ở văn học Trung Quốc tiểu thuyết và thơ đối lập nhau một cách gay gắt:
thơ giản lược chi tiết tới mức thấp nhất còn tiểu thuyết thì ngồn ngộn chi tiết
(t192). Nguyễn Du đã san bớt chi
tiết để phát huy các chủ đề trữ tình thường gặp trong thơ cổ và thơ Đường như
nhớ quê hương, buồn ly biệt, tống biệt, thương lưu lạc, cảm thân thế, tảo hành,
hoài cổ... làm cho tác phẩm có nhiều đoạn tả cảnh tình cảnh giao hòa xúc động lòng
người. Ngôn ngữ Truyện Kiều đầy ắp ẩn dụ, phát huy cao độ ngôn ngữ ý tưởng của thơ cổ điển.
Đồng thời ông lại sử dụng câu tiểu đối một cách phổ biến đúng như Phan Ngọc nhận
xét, nhưng đó cũng là ảnh hưởng của cú pháp thơ Đường. Có thể nói, trên một mức độ lớn
Nguyễn Du đã thơ hóa Truyện Kiều bằng nhãn quan thơ Đường.
5. Bước sang thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã có tiếp xúc với nguồn tác động mới.
Văn học Việt Nam phát triển, hiện đại hóa. Việc hiện đại hóa văn học ở Trung
Quốc và Việt Nam hầu như xảy ra đồng thời. Văn học Trung Quốc cận, hiện đại với tư cách là văn học nước ngoài
đã có ảnh hưởng không nhỏ về mặt tư tưởng nghệ thuật. Song ảnh hưởng của
văn học cổ điển Trung quốc như một yếu tố nội tại vẫn không giảm sút. Trong phong trào thơ mới 1932 -
1945 ảnh hưởng thơ Đường vẫn rất đậm trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Thâm Tâm...
trên một mức độ nhất định ta có thể tán thành với ý kiến của Leon Van Đermetsơ là: “ở Nhật, ở Trung
Quốc, Việt Nam và Singapore ánh trăng thu đã được chiêm ngưỡng bằng con
mắt của Lý Thái Bạch”.
Ảnh hưởng của văn học Trung Quốc
đối với Việt Nam
là ảnh hưởng kép. Là một hiện tượng văn học nước ngoài, văn học Trung Quốc ảnh hưởng
tới văn học Việt Nam như mọi văn học nước khác (t193). Đồng thời văn hóa Trung Quốc đã ảnh hưởng tới văn học Việt Nam như
một yếu tố nội tại, tiềm ẩn trong truyền thống văn học Việt Nam. Trong
thời hiện đại yếu tố tiềm ẩn này đang giảm bớt trong những thế hệ không học chữ Hán, song nó không bao
giờ mất đi, bởi đã ăn sâu vào trong văn học cổ điển của dân tộc.
|
Nghiên cứu nghệ thuật, số 9/1994
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)