Khiemnguyen

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Phan Khôi và Lỗ Tấn (1)



               (Bài viết này lược trích gần như nguyên văn từ cuốn sách về Phan Khôi)
1. Sơ lược về cuộc đời làm báo của Phan Khôi
Ông bắt đầu viết báo từ năm 1918 ở Hà Nội, rồi viết ở Sài Gòn, ở Hà Nội, ở Huế cho đến năm 1941. Viết báo, ông nhằm ở một mục đích là đem lại khoa học và dân chủ cho dân tộc Việt Nam, nên ngay từ đầu ông từng đả kích Khổng giáo chuyên chế và đả kích Tống Nho duy tâm. Ồng tự thấy việc đả kích đó không có ảnh hưởng là mấy, nhưng ông quyết đó là việc làm cần thiết để đi đến một nền dân chủ thực sự cho xã hội Việt Nam. Ông thừa nhận quyền tư hữu là chính đáng. Ông nhìn nhận thuyết tam quyền phân lập là nguyên tắc bất di bất dịch của một chính thể dân chủ. Vì vậy, năm 1930, thấy dân chúng biểu tình ở Nam Bộ đưa ra khẩu hiệu là “chia ruộng chia thóc của nhà giàu” thì ông lấy làm quái. Ông nghĩ, chỉ có nổi cách mạng lên thì mới chia ruộng chia thóc của nhà giàu được, chứ kéo nhau đi “đòi” của thực dân, phong kiến sao được? Mãi sau này ông mới hiểu đó là bước khởi đầu của cách mạng (405).
Năm 1918, trước khi đại chiến thế gii lần thứ nhất kết thúc, ông nhận được thư của Nguyễn Bá Trác ở Hà Nội gửi về rủ ông ra đó làm báo Nam Phong của Phạm Quỳnh. Ông thấy đây là một dịp tốt để cho mình thoát ra khỏi nhà, thoát ra khỏi làng, nên hết sức vận động để được đi Hà Nội. Làm báo Nam Phong chưa đầy năm, ông thấy mình không thể đi cùng đường với hai vị chủ bút ấy được, nên xin thôi, lại về quê nhà.
Đầu năm 1919, Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn ra Hà Nội tìm trợ bút cho tờ báo của mình, Phạm Quỳnh giới thiệu ông, đánh điện dặn ông ra Đà Nng, xuống tàu thủy gặp Bùi Quang Chiêu. Ông đi liền, và kể từ đó bắt đầu sự nghiệp làm báo tại Sài Gòn. Tại đây, ông viết cho báo Quốc Dân Diễn Đàn được hơn một tháng, thì không biết Chánh mật thám Đông Dương L. Marty nói với Bùi Quang Chiêu thế nào đó mà họ đổi ông qua làm cho báo Lục Tinh Tân Văn; tờ báo này bấy giờ do J. Sneider bán cho chính phủ thực dân, (409) đt dưới quyền điều khiển của L. Marty. Mới làm được vài ba tháng chi đó, ông bị L Marty trù ẻo dữ quá, không chịu được, ông quyết từ chức ri về quê nhà. Nhưng sau đó cái chí phải thoát ra khi lũy tre làng lại giục ông đi.
Năm 1920, ông đi Hà Nội. Tại đây, thấy trên báo có rao Công ty Bch Thái ca ông Bạch Thái Bưởi dưới Hi Phòng cần tuyển chân thư ký bàn giấy. Lại có thêm lời giới thiệu của ông Nguyễn Bá Học, ông liền đi xe la xuống Hải Phòng đầu quân cho Công ty này. Chính thời gian ở Hải Phòng, ông đọc tờ báo Courier d’ Haiphong, thấy nó chửi đảng Cộng sản bolchevik Nga liên hồi, thì ông lấy làm hoài nghi, không tin, bởi ông lý luận rằng: nếu đng Cộng sản bolchevik Nga vô đạo như báo ấy nói, thì họ làm sao lãnh đạo được dân chúng của cái đất nước rộng lớn nhất địa cầu ấy, chng lại được mười bốn nước đế quốc tấn công? ông biết có chủ nghĩa cộng sản từ đó, nhưng chưa hề đọc được một chữ nào trong các sách nói về chủ nghĩa y.
Năm 1921, ông lên Hà Nộỉ làm báo Thực Nghiệp, được ít lâu thì kiêm thêm việc dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành. Từ đó ông ở Hà Nội luôn cho đến năm 1926, một vài năm về thăm nhà một lần, thành ra dần dần ông sống cái đời của một anh viên chức
Ông nghĩ: làm báo mà muốn nói năng được ít nhiều điều bổ ích, thì phải làm Sài Gòn, vì ở đó kiểm duyệt có phần dễ chịu hơn ở Huế hay ở Hà Nội. Vì lẽ đó, giữa năm 1928 ông lại vào Sài Gòn, thì ông thấy sự trong sch và kiên trì của ông, tự nó, đã phủ nhận những lời đồn ác ý: ông viết cho báo (412) Thần Chung, năm sau lại viết thêm báo Phụ Nữ Tân Văn. Cây bút viết báo của ông phát triển mạnh trong mấy năm này. Trên tờ Thần Chung, ông nh vực cho đảng Tân Việt, cho Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, cho Vit Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học và ông công kích mạnh Khổng giáo. Trên báo Phụ Nữ Tân Văn, ông bênh vực quyền lợi phụ nữ, công kích tam cang, công kích chế độ đại gia đình; tự ông gây ra mấy cuộc bút chiến có ảnh hưởng. Ông lấy sự tuyên truyền dân chủ, khoa học làm phương châm cho sự nghiệp viết báo của mình, về sau ông còn viết báo Trung Lập nữa, trên tờ báo này ông đã thẳng tay công kích đảng Lập hiến do Bùi Quang Chiêu làm lãnh tụ.
Năm 1934 cho đến 1937, ông viết báo Phụ Nữ Thời Đàm Hà Nội, báo Tràng An và báo Sông Hương ở Huế. Sông Hương do chính ông dựng nên, ch sống được tám tháng. Trên mấy tờ báo này, ông cũng theo một phương châm là tuyên truyền cho dân chủ và khoa học.
Năm 1938 đến 1940, ông đổi nghề, làm giáo sư trường tư ở Huế và Sài Gòn, nhưng vẫn thường viết bài cho mấy tờ báo trong Nam và ngoài Bắc. Năm 1941, sau khi quân Nhật kéo lên Sài Gòn, ông thấy cái dã tâm của người Nhật, lánh mình về nằm ở nhà quê cho đến năm 1946.
2. Quan điểm của Phan Khôi về  Khổng -  Mạnh
Có thể nhận thấy rằng, trong cái kho tri thức của Phan Khôi, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã có từ lâu, nhưng ch đến những tháng ngày này, nó mới trở nên thật rõ ràng trong ông. Càng về sau càng thấy ông hay sử dụng các nguyên lý khoa học này để làm nền cho các bài nghiên cứu hoặc để soi sáng các nhận đnh của mình trong các bài nghiên cứu ấy. Một trong những bài viết như vậy là bài Kiểm thảo cái gọi bằng dân chủ ở Trung Quốc đời xưa, ông viết ngay sau những ngày nghỉ Tết Nguyên đán Tân Mão (1951), đến ngày 4 tháng 5 năm 1951 thì xong ở dạng bản thảo, dài 31 trang viết tay, khổ 18 x 24,5 cm. Tiểu luận này có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó cho thấy những chuyển biến rất căn bản trong tư tưởng của ông, nói rõ hơn là nó cho thấy ông hoàn toàn đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để soi xét lịch sử cổ đại, c lịch sử cổ đại Trung Quốc, cả lịch sử cổ đại Việt Nam, như ở một số bài viết nữa sau đó ít lâu. Điều đó chứng tỏ rằng hai cái chủ nghĩa này là nhận thức luận của bất cứ ai làm khoa học, chứ không phải là của riêng những người mác xít, như nhiều người vẫn tự nhận.
Trong bài này, ông cho rằng: lâu nay trong học giới, không luận ở nước Tàu hay nước ta, có nhiều người tin rằng cái mà đời nay chúng ta gọi bằng “dân chủ”, thì đã có ở Trung Quốc từ đời xưa rồi, chẳng những về lý thuyết mà cả về thực tiễn nữa. Những người này, về lý thuyết, thì căn cứ vào cái câu của Mạnh Tử “dân vi quý, quân vi khinh”; còn về thực tiễn thì căn cứ ở cái danh từ “cộng hòa” xuất hiện ở thời kỳ sau Lệ Vương đời Tây Chu, cách thời chúng ta gần ba ngàn năm.
Ở nước ta, sự nhìn nhận ấy bắt đầu từ một số nhà nho tiến bộ sau khi đọc các sách “tân thư” từ Trung Quốc truyền sang và lan rộng trong giới thanh niên trí thức mới từ ngót ba mưoi năm trở lại đây. Phan Văn Trường (1876 - 1933) là một nhà vận động chống Pháp có cùng chủ trương dân chủ với Phan Châu Trinh, trên tờ báo tiếng Pháp L’Annam khoảng năm 1926 - 1927 của ông, cũng luôn luôn để câu của Mạnh Tử Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh góc trên đầu tờ báo để làm tiêu ngữ. Báo này còn có những bài nhắc đến chủ nghĩa dân chủ, cho rằng cái chủ nghĩa ấy không xa lạ gì với chúng ta, nó cũng không hẳn là từ phương Tây truyền sang, mà hai ngàn năm trước ở phương Đông cũng đã có rồi. Hơn thế, tờ báo còn xác quyết rằng Mnh Tử người phát minh ra chủ nghĩa dân chủ ở Trung Quốc! Cái tư tưởng dân ch gần như phổ biến nước ta là từ hồi Khải Định chết và Bảo Đại đi sang Pháp, lại chịu ảnh hưởng của tờ báo tiếng Pháp LAnnam, cho nên đến bây giờ, trong giới trí thức của chúng ta, hễ nói đến dân chủ là không quên nhắc đến Mạnh Tử.
Ở Trung Quốc, sau cuộc chiến tranh Nha phiến, đủ thứ tư tưởng học thuật ca Âu châu tràn sang, Liền có những người muốn vớt vát thể diện quc gia, viết ra những cuốn sách để tỏ ra rằng mọi học thuật tư tưởng của Âu châu, cái gì cũng đã có Trung Quốc từ đời xưa hết. Giá như ch có thế thì không đủ thành ra vấn đ. Trước cách mạng Tân Hợi, những học giả đứng đắn như Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu tiếp tục tuyên dương Mạnh Tử cũng với cái ý ấy. Điều đó cũng không lấy làm lạ. Đáng lấy làm llà cái kiến giải ấy cũng vn còn c rớt lạì gia các học giả duy vật ở Trung Quốc ngày nay.
Đến đây, ông dẫn ra một vài đoạn trong sách Trung Quc thông sử giản biên của Hộì Nghiên cứu Lịch sử Trung Quốc, xuất bản năm 1948, để chỉ ra rằng: không dừng li ở đó, những học giả Trung Quốc đời nay còn tiến tới cho rằng chẳng những Mạnh T, mà cả Khổng Tử cũng là người đề ra học thuyết dân ch ở Trung Quốc. Ông cho rằng, trên thực tế, không có căn cứ xác đáng nào để đưa ra những lời phán đoán như thế.
Ông dành phần quan trọng trong bài viết của mình, với những cứ luận rút ra từ chính lịch sử Trung Quốc được thể hiện trong các pho sách cũ, như Mạnh Tử; Luận ngữ; Trung dung; Đại học; Hệ từ Kinh Dịch; như Bá Nha cầm của Đăng Mục cuối triều Nam Tống; như các cuốn Minh di đãi phỏng lục của Hoàng Tông Hi, Tiềm thư ca Đàng Nhân và Ngạc ruộng của Vương Phu Chi đầu triều Mãn Thanh; cuốn Thông giám luận của Lục Sinh Nam giữa triều Mãn Thanh, để bác bỏ cách nhìn nhận ấy. Ông cho rằng: Cái gọi là dân chủ ở Trung Quốc từ Mạnh Tử đến Hoàng Tông Hi không gọi được là chủ nghĩa, cũng không gọi được là học thuyết. Theo ông, các ông ấy ch đưa ra một cái khuynh hướng của mình về một vấn đề mà thôi, chứ không hề giải quyết vấn đề cho dứt khoát, không hề nghĩ đến việc lập ra một chế độ mớí để thay thế cho cái chế độ cũ đã thối tha mục nát. Đã không nghĩ lập ra chế độ mới cho nên không đi đến dần chủ thực sự được mà cũng không đi đến quân chủ lập hiến được./.
(Xin mời nghiên cứu tiếp trong phần 2)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét