Lâu nay, khi nghiên cứu mối quan hệ văn học Trung Quốc và Việt Nam học giả Việt Nam chủ yếu nhấn mạnh mặt vượt lên ảnh hưởng to lớn của văn học Trung Quốc để xây dựng nền văn học dân tộc độc
đáo. Đó là mặt quan trọng chủ đạo, giúp đánh giá bản thân mọi ảnh hưởng. Nhưng việc nghiên
cứu các qụy luật của nó cũng có ý nghĩa riêng, nhất là khi địa vị độc đáo của văn học Việt Nam đã được khẳng định trong cộng đồng văn hóa thế giới. Đây là một đề tài lớn mà trong bài này chúng
tôi xin phác qua vài nét sơ lược.
Sự giao lưu văn hóa Việt Trung vào thời cổ đại,
khi tương truyền người Việt có chữ “con nòng nọc” như thế nào, chúng ta còn chưa rõ. Thời Bắc thuộc, từ đầu công nguyên, cho đến khi người Việt Nam xây dựng quốc gia độc
lập vào thế kỷ X, mối quan hệ
giao lưu không bình thường đã không để lại kết quả gì về thư tịch đáng kể. Tuy nhiên
về mặt ngôn ngữ, nhiều nhà ngữ học cho biết đây là thời kỳ chuyển hóa của tiếng
Việt từ đa âm tiết và vô thanh điệu sang đơn âm tiết vá có thanh điệu (đặc điểm
của ngữ hệ môn Khơme và Nam á mà tiếng Việt thuộc vào) (t187): Quá trình đơn âm tiết hóa và thanh điệu hóa hoàn thành khớp với thời điểm hình thành nền văn học
viết dân tộc (thế kỷ X - XV). Tiếng Việt giàu thanh điệu hơn tiếng Hán và đường
nét của thành điệu cũng khác, cho nên quá trình nói trên không chỉ do ảnh hưởng
tiếng Hán. Nhưng cách đọc Hán Việt cổ từ thời Hán và phát triển vào đời Đường
còn lưu giữ bền chặt trong tiếng Việt, cùng với khoảng 60% từ gốc Hán các loại
trong từ vựng tiếng Việt đã chứng tỏ tiếng Hán đã ảnh hưởng lớn tới
tiếng Việt không chỉ ngữ âm, từ vựng, mà đặc biệt là phong cách học, làm thành yếu tố nội tại
của tiếng Việt, tạo thuận lợi cho việc tiếp nhận và Việt hóa luật thơ, thể thơ và phong cách thơ văn Trung Quốc (t188).
Văn hóa và văn học Trung Quốc được tiếp
nhận và phát huy ảnh hưởng nhiều mặt nhất là vào thời kỳ Việt Nam xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ. Ảnh hưởng này diễn ra
qua các mặt và quy luật như sau:
1. Việc sử dụng Hán văn như một phương tiện quản lý, giáo dục,
giao tiếp đã tạo ra một dòng văn học chữ Hán: với tư cách là bộ phận không tách
rời của văn học Việt Nam.
Vị trí có trước của văn tự Hán và văn học chữ Hán đã góp phần thúc đẩy sự ra
đời củạ chữ Nôm và văn học quốc âm.
2. Về thể loại văn học, các thể văn học viết chữ Hán có trước từ thế kỷ X
hoặc sớm hơn, còn thể loại văn học Nôm xuất hiện sau gần 5 thế kỷ (XV -
XVI).
Trong các thể loại văn học Nôm, các thể loại mô
phỏng luật thơ phú Hán xuất hiện trước (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bá
Lân…) các thể thơ thuần túy Việt Nam như lục bát, song thất lục bát xuất hiện
sau (Lê Đức Mao, Hoàng Sĩ Khài thế kỷ XVI), nhưng thịnh hành và đạt được trình độ chín muồi,
điêu luyện và đỉnh cao là vào thế kỷ. XVIII - XIX (Chinh Phụ Ngâm khúc
của Đoàn Thị Điểm, Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du). Trong các tác
phẩm đạt được đỉnh cao của Văn học Vỉệt Nam như Chinh phụ ngâm khúc và Truyện Kiều, dấu vết ảnh hưởng của văn học
Hán là rất đậm. Một tác phẩm nặng về tập cổ, một tác phẩm sử dụng cốt truyện có sẵn của tiểu thuyết
Trung Quốc. Như vậy là văn học Trung Quổc đã ảnh hưởng tới từng bước phát triển
của văn học Việt Nam, góp phần vào từng thành tựu của nó.
3. Trong lĩnh vực sáng tác, việc
nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam cần chú ý
đầy đủ đặc điểm của văn học trung đại. Một là, hiện tượng tập cổ, vay mượn,
biến đổi, xâu chuỗi các chủ đề, biện pháp nghệ thuật, cốt truyện cổ sẵn là quy luật chung của mọi nền
văn học trung đại. Các kiệt tác văn học Trung Quốc như Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây du ký… một số sáng tác thơ
như cửa Đào Uyên Minh, theo các nhà Trung Quốc học người Nga, đều có cải biên, xâu chuỗi,
dùng lại các tình tiết, câu thơ của người đi trước. Việt Nam và Trung Quốc tuy về cương vực, phong tục đã khác biệt nhau, song
về văn học người ta vẫn như cảm thấy có sự tiếp nối nào đó. Các nhà nho Việt Nam, mỗi khi
nhắc tới trước tác của danh gia Trung Quốc đều coi như cổ nhân của mình, và tự
coi mình là người kế thừa... (xem Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú), cho nên các nhà văn học
trung đại Việt Nam sử dụng chất liệu văn học Trung Quốc mà không cảm thấy như
là vay mượn nước ngoài (t189).
Quy luật sáng tác trung đại, một mặt, cho phép sử dụng chủ đề,
thủ pháp, cốt truyện có sẵn, mặt khác lại cho phép tức hứng, ứng tác biến hóa để gửi gắm tấc
lòng, do đó nghiên cứú văn học này phải chú ý
đầy đủ phần biến cải, ứng tác của nó. Nhu cầu cải biến, ứng tác này rất lớn, có khi lớn hơn việc sáng tạo ra cái mới... Nếu
không, làm sao giải thích được là có một bản Hán văn Chinh phụ
ngâm khúc của Đặng Tràn Côn mà có những tám bản diễn ẩm ra tiếng
Việt? Tại sao có một bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã sáng tạo thành Đoạn
trường tân thanh rồi, mà bạn ông là Phạm Quý Thích lại viết
thành truyện Hán văn là Kim Vân Kiều tân truyện?.
Hai là, ý thức về bản quyền tác giả chưa có. Theo Riptin, thời
trung đại chưa có khái niệm về
sự sao chép, ăn cắp văn, và cũng do đó mà chưa có ý thức tôn trọng văn
bản người khác. Nguyễn Huy Tự diễn nôm Hoa tiên ký của tác giả
vô danh Trung Quốc, thành Hoa tiên truyện, đến lượt mình Nguyễn Thiện lại nhuận
sắc văn của Huy Tự; Cao Bá Quát đọc truyện Hoa tiên lại cũng muốn sửa chữa, nhuận sắc, nhưng do không có điều kiện đành
thôi... Cũng vậy, theo Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Du viết xong truỵên Kiều, đưa cho Phạm Quỹ
Thích nhuận sắc, và sau này các nhà khảo đính còn tiếp tục cho ra nhiều dị bản khác. Một tác
phẩm có thể do nhiều người viết (Tây sương ký, Hồng Lâu mộng, Hoàng Lê nhất
thống chí).
Ba là, các tác giả cũng chưa có ý niệm
rõ ràng về dịch và cải biên, phóng tác, sáng tác (t190). Trong văn học Việt Nam trung đại, văn học chữ Hán và văn
học chữ Nôm cùng tồn tại và phân biệt về phong cách tao nhã, văn chữ Nôm ngoài
phong cách tao nhã, còn có thêm phong cách gần gũi, suồng sã. Trong điều kiện đó dịch là một hành
động sáng tác để tạo được một tác phẩm Nôm đua tranh vẻ đẹp cùng
nguyên tác - Mộng liên đường, chủ nhân đề tựa Truyện Kiều gọi nó là dịch phẩm, nhưng
khi bình luận thì coi như là tác phẩm sáng tác. Do vậy, mặc dù có những tác phẩm dịch xuất sắc đầu thế kỷ XIX, song văn học dịch
thực sự chỉ ra đời vào đầu thế kỷ XX. Hầu hết thơ văn Trung Quốc đến thời
kỳ này mới được dịch ra tiếng Vỉệt. Do đó, trước thế kỷ XX, rất khó phân biệt tác phẩm
dịch, sáng tác và phóng tác. Bỏ qua đặc điểm văn học trung đại sẽ không
đánh giá đúng quan hệ ảnh hưởng và sáng tạo.
4. Những ảnh hưởng văn học đích thực dù
thời nào cũng thông qua tiếp nhận, lựa chọn và sáng tạo, chứ không phải là sự
sao chép, lặp lại giản đơn. Đặc sắc của văn học Việt Nam như là một nền văn học
dân tộc độc đáo chính là ở cách tiếp nhận, ứng xử của nó đốí với tác động ảnh
hưởng của nước ngoài. Về điểm này có thể khái quát mấy nét chính đã được mọi người công
nhận như sau: Một là về chủ đề, nhìn chung văn học Việt
Nam lựa chọn các hình thức, phương tiện để thể hiện lòng yêu nước, yêu còn
người của mình. Hai là, về
mặt triết học, người Việt Nam có cách tiếp nhận riêng về tư tưởng Nho, Phật, Lão.
Trong nền văn học của người Trung Hoa, người Việt Nam đặc biệt yêu chuộng các tác
phẩm viết về tình yêu quê hương, gia tộc, bạn bè, thiên nhiên, tình yêu đôi
lứa, thương tiếc tuổi xuân... Thơ vần Việt Nam tiếp nhận (191) nội
dung nhân tính phổ biến được thể hiện đậm đà trong văn học Trung Quốc. So sánh
tập thơ Đường do Tản Đà dịch với thơ Đường Trung Quốc, so sánh Chinh phụ
ngâm khúc với thơ Trung Quốc sẽ cho ta nhận thức đó. Văn học Việt Nam thiên về
chất trữ tình mà ít phát triển ý thức tự sự. Đặc điểm này làm cho các nhà văn
Việt Nam
ít tiếp thu các thể loại tự sự lịch sử lớn, hoặc các yếu tố văn xuôi của văn
học thị dân. Khi kể lại chuyện Tô công phụng sứ hay truyện Vương
Tường thì tác giả việt Nam
chuyển nó thành một chuỗi bài thơ trữ tình. Sáng tạo Truyện Kiều trên cơ
sở tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (bản 20
hồi) ta thấy nhà thơ Việt Nam lược bỏ hầu hết các yếu tố văn xuôi như các cốt
truyện mưu mẹo, các tình tiết tình dục (tác phẩm này được liệt vào trong danh
sách 112 tác phẩm văn học tình dục cổ điển của Trung Quốc). Các chi tiết hành
hạ người có tội, các chỉ tiết treo gương liệt nữ và sự nghiệp bất hủ... để làm
nổi bật tính cách Kiều, một số phận đáng thương. Tác giả cũng tước bỏ yếu tố
lịch sử, làm cho lai lịch Từ Hải thêm mơ hồ, bay bổng. Nhà văn Việt Nam cũng
thay đổi điểm nhìn trần thuật, kể chuyện theo cái nhìn bên trong, khác với cái
nhìn rối vụn, thiếu nhất quán vốn có của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung
Quốc, làm cho thế giới nội tâm của Kiều nổi bật lên. Và Truyện Kiều đầy
ắp chất trữ tình. Việc Nguyễn Du tước bỏ các chi tiết văn xuôi của nguyên tác
có nhiều lý do. Một trong các lý do đó, theo chúng tôi là nhãn quan thơ trữ
tình, ở văn học Trung Quốc tiểu thuyết và thơ đối lập nhau một cách gay gắt:
thơ giản lược chi tiết tới mức thấp nhất còn tiểu thuyết thì ngồn ngộn chi tiết
(t192). Nguyễn Du đã san bớt chi
tiết để phát huy các chủ đề trữ tình thường gặp trong thơ cổ và thơ Đường như
nhớ quê hương, buồn ly biệt, tống biệt, thương lưu lạc, cảm thân thế, tảo hành,
hoài cổ... làm cho tác phẩm có nhiều đoạn tả cảnh tình cảnh giao hòa xúc động lòng
người. Ngôn ngữ Truyện Kiều đầy ắp ẩn dụ, phát huy cao độ ngôn ngữ ý tưởng của thơ cổ điển.
Đồng thời ông lại sử dụng câu tiểu đối một cách phổ biến đúng như Phan Ngọc nhận
xét, nhưng đó cũng là ảnh hưởng của cú pháp thơ Đường. Có thể nói, trên một mức độ lớn
Nguyễn Du đã thơ hóa Truyện Kiều bằng nhãn quan thơ Đường.
5. Bước sang thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã có tiếp xúc với nguồn tác động mới.
Văn học Việt Nam phát triển, hiện đại hóa. Việc hiện đại hóa văn học ở Trung
Quốc và Việt Nam hầu như xảy ra đồng thời. Văn học Trung Quốc cận, hiện đại với tư cách là văn học nước ngoài
đã có ảnh hưởng không nhỏ về mặt tư tưởng nghệ thuật. Song ảnh hưởng của
văn học cổ điển Trung quốc như một yếu tố nội tại vẫn không giảm sút. Trong phong trào thơ mới 1932 -
1945 ảnh hưởng thơ Đường vẫn rất đậm trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Thâm Tâm...
trên một mức độ nhất định ta có thể tán thành với ý kiến của Leon Van Đermetsơ là: “ở Nhật, ở Trung
Quốc, Việt Nam và Singapore ánh trăng thu đã được chiêm ngưỡng bằng con
mắt của Lý Thái Bạch”.
Ảnh hưởng của văn học Trung Quốc
đối với Việt Nam
là ảnh hưởng kép. Là một hiện tượng văn học nước ngoài, văn học Trung Quốc ảnh hưởng
tới văn học Việt Nam như mọi văn học nước khác (t193). Đồng thời văn hóa Trung Quốc đã ảnh hưởng tới văn học Việt Nam như
một yếu tố nội tại, tiềm ẩn trong truyền thống văn học Việt Nam. Trong
thời hiện đại yếu tố tiềm ẩn này đang giảm bớt trong những thế hệ không học chữ Hán, song nó không bao
giờ mất đi, bởi đã ăn sâu vào trong văn học cổ điển của dân tộc.
|
Nghiên cứu nghệ thuật, số 9/1994
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét