Khiemnguyen

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

M. BAKHTIN VÀ THI PHÁP CỦA ĐÔXTÔIEPXKI



Bakhtin viết năm 1929 đến nay đã in đến lần thứ tư ở Liên Xô, được dịch ra hơn mười thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tuy còn có những chỗ gây tranh luận đòi hỏi minh xác thêm, nhưng khái niệm “tiểu thuyết đa thanh” mà ông đưa ra đã được thừa nhận rộng rãi.
Tiểu thuyết “đa thanh” (hay còn gọi là “đa giọng”, “đa thoại”, “phức điệu”) thực chất là một lối nói hình ảnh chỉ một quan niệm nghệ thuật mới, một cách miêu tả mới về con người. Theo Bakhtin, trước Đôstôiepxki và khác với nhà văn này, tiểu thuyết chủ yếu phát triển trong quan niệm “đơn thanh”. Đó là loại tự sự, trong đó chỉ tác giả là người duy nhất có ý thức, biết suy nghĩ và đánh giá mọi sự việc, là vị chúa tể nắm hểt mọi điều bí mật của cuộc đời. Còn nhân vật thì chỉ là đối tượng câm lặng cho sự phẩm bình, nhận xét ấy. Tác giả nhận định con người cũng như nhận định cái cây, đồ vật. Chẳng hạn chuyện ngắn Ba cái chết của L.Tônxtôi kể về cái chết của người đánh xe, cây bạch dương và mụ quý tộc, nhưng cả người đánh xe, mụ quý tộc, và tt nhiên, cả cây bạch dương nữa, không ai biết ý nghĩa cái chết của mình. Chỉ tác giả là người biết điều ấy (t367). Ngay cả khi trần thuật theo ngôi thứ nhất, tức nhân vật “tôi đứng ra kể chuyện, hoặc là miêu tả nội tâm ca nhân vật chỉ là bng chứng của ý thức tác giả, chứng thực cho chân lý của tác giả về tính cách và tâm hn nhân vật. Chẳng hạn miêu tả “phép biện chứng tâm hồn” trong các nhân vật của L.Tônxtôi hay truyện vừa nổi tiếng Cái chết của Ivan Ilích của ông. Do quan hệ giữa nhân vật và tác già (người trần thuật) được quan niệm như vậy nên nhân vật của văn xuôi “đơn thanh” luôn luôn “trong suốt”. Không có cái gì xảy ra với nhân vật mà tác giả không cắt nghĩa được. Nhân vật luôn sự thống nhất phù hợp giữa thế giới bên trong và biểu hiện bên ngoài, là một tính cách ổn định, nhất quán trong sự phát triển mà ta có thể yên tâm theo dõi qua các bước thăng trm của số phận, là một cái gì đã xong xuôi, ngã ngũ như một tổng kết. Không thể hạ thấp ý nghĩa hiện đại trong di sản các nhà văn cổ điển ca thế kỷ trước, nhất là của Tônxtôi, bậc thầy vĩ đại của biết bao nhà văn thế kỷ chúng ta. Vấn đề là phải ý thức được giới hạn của một kiểu tư duy thẩm mỹ để thấy trong tiểu thuyết cửa Đôxtôiepxki xuất hiện các giới hạn khác ca nhận thức nghệ thuật.
Đôxtôiepxki không đoạn tuyệt hẳn với lối tư duy “đơn thanh”, nhưng về căn bản ông sáng tạo một thế giới nghệ thuật khác. Nhân vật của ông chủ yếu được miêu tả như một sự tự ý thức, một dòng tư tưởng, một giọng điệu. Dĩ nhiên là nhân vật trong tiểu thuyết “đơn thanh” cũng biết tự ý thức và suy nghĩ; nhưng đằng này sự tự ý thức trở thành nét ch đạo, nó không chỉ là đặc điểm của tính cách mà còn là yếu tố thực hiện chức năng miêu tả: những gì thuộc về nhân vật và thế gii xung quanh nó được đề xuất quá nhận xét của người (t368) trần thuật “đơn thanh” thì Đôxtôiepxki đều chuyển qua phạm vi ý thức của nhân vật. Y biết được tình trạng, hoàn cảnh và ý nghĩ mình, y cũng biết hoặc đoán ra các nhận xét của người khác đối với y. Chẳng hạn Đêvuskin trong tiểu thuyết Những người nghèo soi vào gương và đau khổ nhận thấy v tiều tụy trên khuôn mặt và áo quần y, y biện bạch với sự chế nhạo thể của người khác đối với nghề viên chức nhỏ mọn của y. Vấn đ không chỉ ở chỗ nhà văn tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật mù mà xem nhân vật như một ý thức khác, có tính dộc lập tương đối. Theo Đôxtôiepxki, trong con người bao giờ cũng có một cái gì mà chỉ chính nó là có thể phát hiện trong hành vi tự ý thức, mọi xác định từ bên ngoài ráp vào đều không phù hợp. Trong tác phẩm “Người vợ dịu dàng” của ông, một người chồng ngồi bên thi hài vợ vừa nhảy lu chết cách đó mấy giờ, với tâm trạng rối bời đáng suy ngẫm về mọi tình tiết, biện bch dn dần đưa nhân vật tới sự thật của y, một sự thật mang ý nghĩa nhân cách sâu sắc. Nếu qua ý thức người khác, lời người khác, thì ý nghĩa ấy sẽ mất đi. Châm ngôn sáng tác của Đôxtôiepxki là “tìm ra còn người trong con người”, “phát hiện mọi chiều sâu tâm hồn của nó”. Nhưng không thể quan sát, phân tích, xác định các ý thức người khác như là các vật vô tri. Cách duy nhất là đối thoại vi chúng. Suy nghĩ về nhân vật đối với Đôxtôiepxki có nghĩa là đối thoại với chúng, gợi cho chúng tự ý thức hết mình. Nhà văn giải phóng tối đa cho sự tự ý thức và ngôn từ nhân vật, thu hẹp sự nhn xét, cắt nghĩa từ phía người trần thuật. Nhà văn Mỹ Oskar Oaitơ cho rằng “công lao chính của nghệ sỉ Đôxtốiepxki là ở chỗ ông không bao giờ cắt nghĩa trọn vẹn các nhân vật(369). Trên các trang sách ta thường bắt gặp những lời “chúng ta không biết”, “chúng ta không rõ” “khó mà giải thích”, “chỉ biết rng”... Trong lời tựa viết cho Anh em Kàramadốp nhà văn nói thẳng: “Không thề đòi hỏi một sự rõ ràng ở mọi người, nhất là vào lúc này”. Nhiều động cơ, nguyên nhân hành vi của nhân vật, vẫn nằm trong bóng tối. Nhân vật của Đôxtôiepxki không chịu được sự phán xét giản đơn về tâm hồn người khác. Trong Thằng ngốc Aglaia nói với Mưskin khi chàng bình phẩm động cơ tự sát của Ippôlit: “Anh phán đoán tâm hồn người khác một cách thô bo. Chỉ có một chân lý thôi thì sẽ là một sự bt công”. Còn Xtavrôgin thì nói như quát lên trong tiểu thuyết Những người bị ma ấm: “Nghe đây, tôi không thích các loại thám tử và các nhà tâm lỷ lúc nào cũng chực xọc mũi vào tâm hn tôi”.
Người trần thuật cũng tránh đưa ra những nhận định hoàn hảo có tính chất tổng kết, xong xuôi về nhân vật. Theo Đôxtồiepxki con người không bao giờ trùng khít với chính nó, và sự sống thc sự lại thường din ra chỗ con người vượt ra ngoài giới hạn mà nó đã có. Nếu ở Tônxtôi, viên quan, người sĩ quan hay một địa chủ thường làm những việc theo loại của họ, thì Đôxtôiepski tình hình ngược lại. Nhân vật thường được miêu t ngoài sự xác định quá khứ của chúng. Ềaxkônnỉkôp là sinh viên nhưng không học tập, Rôgôgịn là lái buôn nhưng không buôn bán, Kirilôp là kỹ sư nhưng không hành nghề, anh em Karamadốp hoặc là cựu sĩ quan, cựu .nhân viên hay người không có công việc xác định. Nhà văn thích quan sát những cái bất ngờ, nghịch lý, phi thường trong tính cách nhân vật, chống lại các nhận định cứng nhắc, có sn. Nhân vật Phétca Katorginưi trong Những người bị ma ám nói: “Nếu nói v một người là thằng đểu thì ngoài thầng đu ra ta không biết gì thêm nữa. Còn nói (370) là thằng ngốc thì ngoài thằng ngốc ra đến cái tên ca nó cũng không hay. Còn tôi thì chỉ có th là ngốc vào thứ ba, thứ tư, còn đến thứ năm lại minh mẫn”. Ngày 19/3/1898 trong nhật ký của mình L.Tônxtôi thú nhận rằng: “Một trong những sai lm lớn nht về phán đoán con người là ở chỗ ta xác định một người nào đó là thông minh hay ngu xuân, tốt bụng hay độc ác... Thực ra con người có tt cả, có mọi khả năng, nó là một sinh thể không cố định, ông muốn xây dựng trong tiểu thuyết Sống lại một con người “dòng sông” nhưng Nêkhiudôp vẫn chỉ là một nhân vật “đơn thanh”, một “người thừa”, một “chàng quí tộc hối hận”. Còn năm mươi năm trước đó, 1848. Đôxtôiepxki đã thể hiện con người “đa thái” không xác định này trong truyện ngn Pondunkop. Đó là một con người “có lương tâm nhất, hào hiệp nht trên đời, chàng biết tự trọng và biết phẫn nộ”, nhưng đồng thời chàng là người “Sợ tht bại, hay thẹn thò, luôn mặc cảm về sự hèn kém của mình, cu xin tha thứ”, lại là người “liều lĩnh, dám làm mọi việc ti tệ theo mệnh lệnh đầu tiên. Thời đại Đôxtôiepxki là thời đại xung đột gay gắt giữa các thể chế phong kiến, nông nô suy tàn và các quan hệ tư sản đang phát triển nhừ vũ bão. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn cho phép ông thể hiện rõ tính chất chất giải quyết của các vấn đề xã hội đương thời, những vấn đề quan hệ giữa thiện và ác, ý nghĩa cụộc sống, vấn đề cam chịu và phản kháng, chủ nghĩa vị kỷ và đức hy sinh, tội ác và hình phạt. Đó cũng là những vấn đề có ý nghĩa toàn thế giới. Sự giới hạn ý thức người trần thuật, phân biệt nó với ý thức nhân vật như là ý thức của người khác đã nâng cao tính khách quan của trần thuật, mở rộng phạm vi chiếm lĩnh tới những miền chưa xác định của con người (t371).
Khi nhân vật được thể hiện tập trung ở sự tự ý thức và li nói của nó thì quan hệ nhân vật là quan hệ giữa ý thức và ý thức, giữa lời nói và li nói. Tồn tại có nghĩa là sống giữa các ý thức và lời người khác. Do quan hệ nhân vật thực chất là quan hệ đối thoại. Các sự kiện thực tế là đề tài của đối thoại, thúc đẩy quá trình tự ý thức. Tiêu biểu về mt này là ba cuộc gặp gỡ giữa Porphirì Pêtrôvich và Raxkốnnicôp trong Tội ác và hình phạt. Đối thoại đây không giản đơn là đi đáp, mà là quan hệ tất yếu giữa các ý thức có uy tín và độc lập như nhau. Đối thoại như của Platôn, hay trong Luận ngữ chưa tạo nên hiện tượng đa thanh vì đó là đối đáp giữa thầy và trò. Quan hệ người trn thuật và nhân vật cũng là một quan hệ đối thoại, trong đó nhân vật có xu hướng muốn tranh biện để nói lên lời cuối cùng về mình. “Đa thanh” không có nghĩa là tương đối ba phải, vi ch nghia tương đối thực chất là thủ tiêu đi thoại, còn giáo điều thì không chấp nhận đối thoại. “Đa thanh” cũng không có nghĩa là thu hẹp vai trò qụyết định của thế giới quan nhà văn đối với sự thể hiện nhân vật. Vai trò này th hiện ở sự phát hiện, am hiểu và tổ chức đối thoại theo một khuynh hướng nhất định, Đôxtôiepxki đó là khuynh hướng dân chú, nhân đạo, chống tư sn và quan tâm vận mệnh nhân dân.
Tiểu thuyết “đa thanh” mở ra một khả năng mới để thể hiện tư tưởng. Trong tiểu thuyết “đơn thanh” chỉ có tác giả là nhà tư tưởng, đây tư tưởng hoặc là điểm xuất phát để lựa chọn, miêu tả, đánh giá, hoặc là kết luận rút ra t tác phẩm, hoặc được th hiện qua ý nghĩ, lời nói nhân vật (t372). Trong hai trường hợp trên tư tưởng “toát ra” hay được phát biểu ra, trong trưng hợp dưới tư tưởng tác giả không phân biệt với tư tưởng nhân vật, hòa lẫn với hiện thực được miêu tả. Quan niệm “đa thanh” cho phép miêu tá tư tưởng như một hiện tượng khách quan. Các vấn đề của sự tự ý thức nhân vật như thiện và ác, chịu đựng hay nối loạn, ích kỷ hay hy sinh... cũng là các vấn đề để suy nghĩ về thời đại. Một tư tưởng sống bao giờ cũng mang nội dung nhân cách sâu sác, tồn tại trong các đối thoại giữa các chủ th, làm thành nội dung đối thoại. Các nhân vật của nhà văn bao giờ cũng có một tư tưởng chưa giải quyết. Đối với Raxkônnikôp trong Tội ác và hình phạt thì đó là vấn đề tương quan giữa lương tâm và tội ác. Có thể vì tương lai mình mà hy sinh người thân không? Có thể vì cải thiện cuộc đời mình mà sát hại kẻ khác không, dù đó là kẻ xấu như mụ già cho vay nợ? Đi với Ivan Karamadôv là vấn đề tương quan giữa đạo đức và niềm tin tôn giáo. Phải chăng hết niềm tin thì hết đạo đức? Đôxtôiepxki không bao giờ bịa đặt ra các tư tưng. Chúng thường có các nguyên hình trong thực tế. Chng hạn, một nguyên hình tư tưởng của Raxkốnnikôp là tư tưởng siêu nhân của Makx Stirner và của Napoleon. Nhưng nhà văn không saọ chép các tư tưởng. M. Bakhtin gọi Đôxtôiepxki là nhà nghệ sĩ của tư tưng. Ông có biệt tài nghe thy cuộc đối thoại lớn của thời đại mình, hoặc nhìn thời đại như một cuộc đối thoại với những giọng lớn nhỏ công khai hoặc âm thầm đang tác động vào nhau. Đôxtôiepxki không hay biết đến các tư tưởng trừu tượng, lửng lơ hay nằm chặt trong hệ thống. Đối với ông, tư tưởng nằm trong sự tự ý thức ca nhân vật. chỗ mà người khác chỉ thấy một tư tưng, thi ông trông thấy hai, ba; chỗ người khác chỉ nhìn thấy một mặt, ông nhìn ra mặt trái. Người ta gọi nhân vật của Đôxtôiepxki là nhân vật tư tưởng, đin hình tư tưng, vì chúng xuất hiện (373) trong tác phm chỉ để thể hiện, giải quyết một tư tưởng. Như vậy, với quan niệm “đa thanh” của Đôxtôiepxki ta có thể làm phong phú cho quan niệm của chúng ta về các điền hình hiện thực chủ nghĩa.
Để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình Đôxtôiepxki đã sử dụng một hệ thống tình tiết, kết cấu và ngôn ngữ độc đáo phù hợp với truyền thống lâu đời. Đ bộc lộ “con người trọng con người”, ông thường sử dụng tình tiết phiêu lưu, những giấc mơ, những trạng thái tâm thần khác thường, vì trong các trường hợp ấy con người không thế sống với những gì ổn định bề ngoài, mà là với bn chất bên trong. Con người với những biến động bt ng thường xuất hiện nơi không gian “ngưỡng cửa”, nằm trên ranh giới giữa bên trong và bên ngoài, nơi cửa ra vào, hành lang, cầu thang, phòng ngoài... Phòng của RaxkẠtinikop cửa không bao giờ đóng, thông ra quảng trường, đường phố... Thời gian tình tiết thường là thời gian khủng hoảng trong cơn bế tc như trước khi chết, trước và sau vụ sát nhân hay một lựa chọn rung động toàn nhân cách. Đó là thời điểm con người không thể sng yên ổn. Thêm vào đó, không khí đầy những nghi k, khiêu khích, kích động, câu nói lăng nhục... càng thúc đẩy thêm quá trình tự ý thức, khêu gợi nhu cầu suy nghĩ, thổ lộ, biện bạch, đối thoại.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Đôxtốiepxki không thể được hiểu đúng theo tiêu chuần cá thể hóa thông thường. Tính biểu hiện của nó gắn liền với cấu trúc “đa thanh” của nhân vật. Nhân vật ở đây luôn cảm thấy áp lực của ý thức và lời nói người khác hướng vào minh. Y phải né tránh, phân trần, biện bạch; đánh lảng. Đối đáp bên ngoài thường là kích thích cho đối thoại thầm kín với người khác (t374). Đặc điểm này làm cho ngôn ngữ nhân vật như xon lấy người nghe, người đọc, bám riết lấy họ không chịu buông tha với những lời sống động đầy xót xa, phẫn uất, băn khoăn, lo lắng. Ngôn ngữ “đa thanh” đòi hỏi sử dụng các phương tiện biểu hiện khác so với ngôn ngữ “đơn thanh”.
Như vậy là phát hiện ra một quan niệm nghệ thuật độc đáo về con người và cuộc đời đã dẫn đến sự đổi mới trong hình thức tiểu thuyết, mở rộng khả năng phản ánh của nó. Thi pháp của Đôxtoiepxki góp phần cho ta hình dung sự đa dạng vốn có ca các hình thức khái quát nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, khắc phục một quan niệm đơn điệu, nghèo nàn về phương pháp sáng tác này. Nó cho thấy đối với nhà văn cái quan trọng không chỉ là vốn sống, thế giới quan, không chỉ là biết nhìn nhn và đánh giá đúng các hiện tượng quan trọng của thời đại về mặt chính trị, mà còn phải biết phát hiện ra những cái nhìn nghệ thuật độc đáo đủ sức rọi một luồng ánh sáng mới tới những khía cạnh đời sng còn bị che giấu bởi cái nhìn nghệ thuật đó (t375).

Văn nghệ Quân đội, tháng 10/1985

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét