Khiemnguyen

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Văn học Việt Nam (1900 - 1945) về Ngô Tất Tố (phần 3)



Đọc sách: Văn học Việt Nam 1900 – 1945
(Nhà Xuất bản Giáo dục)

Chương XIII
(1892 - 1954)





IV. VIỆC LÀNGTẬP ÁN CÁI ĐÌNH
Với danh nghĩa phong trào phục cổ, bảo tồn quốc túy, bọn thực dân và lũ bi bút ra sức kêu gọi khôi phục lại nền văn hóa phong kiến bảo thủ và lạc hậu. Bùi Đình Tá (Một làng Annam - 1937) cũng như đảng Dân chủ Đông Dương của bọn Michel Mỹ, Đỗ Hữu Thịnh - cái thai trứng nước của Thống chế Pagès Nam Kỳ - ra sức tô son vẽ phấn cho cái làng phong kiến cổ xưa với tất cả những tôn ty trật tự, những hủ tục ở chốn đình trung. Ngô Tất Tố đã viết hàng loạt bài vạch mặt bọn chúng. Ông cho rằng hô hào giữ lấy những lề thói xưa, giữ lấy những nền móng trật tự của cái làng phong kiến Việt Nam thuở trước, chẳng qua là muốn cho dân chúng cứ phải làm thân con rùa trong câu phong dao ở đình đội hạc, ở chùa đội bia, khẩu hiệu đó chỉ có lợi cho mấy ông địa chủ trong đảng Dân chủ Đông Dương chứ có lợi gì cho dân chúng” (hết 407).
Từ năm 1931, trên báo Đông Phương của Mai Du Lân, với bút danh Lộc Hà, Ngô Tất Tố đă tiến hành một cuộc Điều tra vè phong tục các làng, vì việc đình trung thôn quê. Năm 1939 ông cho đăng dần lên báo phóng sự Tập án cái đình. Năm 1940 phóng sự Việc làng được đăng trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan và năm 1941 được in thành sách.
Cuộc điều tra năm 1931 trên Đông Phương xoay quanh bốn vấn đề chính:
"Phong tục đi bại ở thôn quê;
Những đám kiện cáo, ẩu đả vì tranh giành ngồi thứ trong đình mà ra;
Tư tưởng quyến luyến quê hương của người nhà quê;
Thn tích hoang đường của các làng[1].
Tất cả những chuyện nói trên đều xảy ra chung quanh cái đình vì cái đình ở thôn quê cũng như cái sân đại trào của nước quân chủ, trong mt người dân quê, cái đình tức là chỗ tôn nghiêm vô thượng mà cũng là nơi hy vọng cuối cùng. Còn Thành hoàng ở thôn quê cũng như ông vua chư hầu ở trong chế độ phong kiến. Ông vua ấy tuy rằng đã chết mà có sắc mệnh tước phẩm của hoàng đế ban cho hẳn hoi thì cũng như vua sống vậy[2]. Chính vì thế mà dân quê có cái tục kiêng tên Thành hoàng các làng cũng nghiêm khắc như lệ kiêng tên húy của nhà vua, ví như Thành hoàng tên là Cao Sơn thì tất c câu đối mừng phúng đu phải tránh dùng hai chữ đó hoặc dân làng phài đọc chệch ra là kiêu san. Thấy đ dạy học, trai rể ở rể mà không kiêng tên Thành hoàng của làng mình ở thì s b mng giữa mặt. Phường chèo hát thuê ở đình mà hát phải tiếng tên Thành hoàng thì người cm chu lập tức cc trống đuổi ra, dù lúc hát là ban đêm cũng không ở lại một phút nào cả”.
Việc cúng tế Thành hoàng cực kỳ kính cn và long trọng. Tuần nào tiết ấy, dân làng cứ theo lệ mà sắm sửa, lệ đáng giết lợn thì giết lợn, lệ đáng giết trâu thì giết trâu. Đến việc lựa chọn người thủ từ coi việc đèn hương lại càng phin phức hơn nữa. Quanh năm người thủ từ phải ngủ ở đình hay đn. Làng nào lệ ngặt, thì thủ từ lúc nào cũng bận qun đ, bước xuống đt phải đi giày hay dép, ra sân ra đường phải đội nón. Thủ từ mà có vợ chửa thì làng an vạ”.
Tt cả những hủ tục nặng n, phin phức ở chốn đình trung, theo Ngô Tt T, đã biến cái làng Việt Nam cổ xưa thành một triu đình phong kiến thu nhỏ, mà đây, lợi dụng sự mê tin của dân chúng, bọn thực dân phong kiến đã giở mọi trò lừa bịp nhm thực hiện chính sách ngu dân, bóc lột của chúng: Bày ra một cái triu đình giả dối, lấy (hết 408) ông thần gỗ tôn lên ngôi báu, lấy tổng lý làm công khanh, lấy thịt xôi làm bổng lộc để họ ham mê áo mũ xênh xang, trổng giong cờ mở. Những vị thn gỗ ấy, ngoài những đng anh quân lương tướng mà ngày nay họ dùng làm ông ngoáo ộp để trừ tà, trị bệnh, bói thẻ cu mộng, lợi dụng cái lòng mê tín dị đoan của lũ đen khờ dại, lại còn lẫn cả thn ăn trộm, thn ăn mày, thn chết trôi, thn gp phân, thn loạn dâm... Đng tối linh của họ đã có cái lịch sử, cái sự nghiệp khốn nạn như thế thì những kẻ sùng bái tất nhiên là những kẻ ngu tham ngoan ngạnh, thng khốn ăn vào đấy, thằng dại khổ vì đấy (Cứ đé cho nó chết).
Bộ mặt thật của những thói tục nơi góc điếm sân đình là như thế, nhưng chính quyền thực dân phong kiến vẫn chủ trương duy trì các hủ tục, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng ngu tối, lạc hậu.
Trong hai phóng sự Tập án cái đinhViệc làng, Ngô Tất Tố tìm cách phơi trn những sự thật xấu xa vê các hủ tục nông thôn, xem đó là một cái gì vôquái gở, mọi rợ và đặt chính quyền thực dân trước trách nhiệm phải giải quyết. Thế mà hết đời này sang đời khác người ta vẫn nhẫn tâm bắt dân đeo cái xích sắt ấy mà lại muốn cho dân cường nước thịnh thì cũng lạ thay! (Cứ để cho nó chết). Hủ tục không phải là thứ thiên kinh địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi. Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai đả động đến nó... Lạ thay! (Lớp người bị bỏ sót). Toàn bộ hai phóng sự Tập án cái đình Việc làng sẽ giải đáp câu hỏi băn khoăn đó và là một lời kết án đanh thép bọn thực dân phong kiến v những thủ đoạn thâm hiểm của chúng ở nông thôn. Các giai cấp thống trị đã duy trì ở làng quê nhiều kiểu bóc lột: có hình thức trắng trợn (sưu thuế, địa tô, cho vay nặng lãi, khoanh vùng cắm đất làm đn điển), có kiểu bóc lột nấp sau các hủ tục, hương ước của từng vùng, lại có hình thức làm tin được ngụy trang kín đáo hơn sau các bức màn tôn giáo và mê tín dị đoan. Những hủ tục, những luật lệ vô lý thực chất cũng là một thứ thuế trá hình mà bọn phong kiến địa phương đánh vào đu những kẻ thấp cổ bé miệng ở nông thốn. Làng là bọn đó chứ có ai đâu. Không tuân theo chúng, không chịu khuất phục trước uy thế của chúng tức là không tuân theo lệ làng, lập tức bị làng ngả vạ. Chúng cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người có li phải chịu (Một tiệc vạ). Ưu điểm của phóng sự Việc làng là không dừng lại ở những hiện tượng tiêu cực trên bề mặt như Làm dân của Trọng Lang, mà thông qua việc miêu tả nạn xôi thịt ở chốn đình trung, Ngô Tất Tố đã lên án bọn cường hào lý dịch lợi dụng hủ tục để bóc lột nông dân. Đó là cái lý do chủ yếu cắt nghĩa tại sao những hủ tục vẫn tn tại đời này qua đời khác như một vị thn thiêng, không ai dám đụng chạm đến, và cũng thông qua thiên phóng sự v những hủ tục này, một ln nữa, nhà văn Ngô Tất Tố lại có dịp nói lên nỗi thống (hết 409) khổ của nông dân. Có người phải dỡ cả nhà bán lấy củi để lo một c oản tun sóc, có người phải bỏ làng ra đi vì không đủ tin mua cỗ cho một đứa bé mới lên năm tuổi, có người phải đi ở kéo xe làm cái kiếp ngựa người để trừ một món nợ chung thân vi lo đám tang cho vợ, có kẻ bị làng ngả vạ uất ức quá phải thất cổ tự tử!
Mỗi truyện trong Việc làng là một tấn thảm kịch ngn và Việc làng, Tập án cái đình bổ sung cho Tắt đèn đã làm thành một tấn bi kịch lớn của nông thôn Việt Nam dưới ách thực dân phong kiến. Tuy nhiên nếu như Tt đèn tâp trung ca ngợi bản chất tốt đẹp của nông dân thì Việc làng bắt đu nêu lên một số hiện tượng tiêu cực trong tư tưởng và tâm lý người nông dân trong xã hội cũ. Cái tâm lý hiếu danh, cái tâm lý xôi thịt ở chốn đình trung áy, một nhà Việt Nam học Pháp gọi là chủ nghĩa cái đình (dinguisme) và coi đó là bản chất của nông dân Việt Nam, là tinh thn dân tộc Việt Nam! Đây là một sự ngộ nhận tai hại về người Việt Nam trước Cách mạng, ông viết: Trong ba chục truyện ánh lên từ mọi chiu như một chiếc kính vạn hoa (kaléidoscope), với màu sẫm tối, Ngô Tất Tố đã miêu tả những người nông dân Việt Nam cùng thời với AQ, cũng với một tiếng cười ra nước mắt. Hai chục nhân vật mà nhà văn cắm trang này dòng nọ giống nhau như anh em. Họ cũng ngớ ngẩn, cũng dễ có cảm tình và đáng thương như những người anh em chú bác Trung Hoa, mặc du cái tật của họ lại ở phía khác. AQ chịu đựng một cách nhẫn nhục những trận đánh nhưng lại tự thuyết phục là chính mình đòi hỏi như thế. Những người dân quê của Ngô Tất T đút đu vào miệng h với hy vọng đến lượt mình sẽ thành hổ... Hoàn toàn giống như Lỗ Tấn, bằng cách của mình, Ngô Tất Tố viết nhật ký của người điên để chống lại bệnh điên tập thể (la folie collective). Cả hai đu chế giễu tinh thn dân tộc với hy vọng cứu dân tộc của mình). Đúng là Ngô Tất Tố có chế giễu và phê phán cái tâm lý hiếu danh, cái tư tưởng xôi thịt ở chốn đình trung. Nhưng ông không coi đó là bản chất của nông dân, càng không xem đó là tinh thn dân tộc. Với kiến thức uyên bác về sử học và xã hội học, ông chứng minh rng cái đình có từ đời Lý (Căn cưóc của cái đình) nhưng việc dùng đình làm nơi tụ họp ăn uống thì mới có từ đời Trẩn Thủ Độ. Trần Thủ Độ chia ra ngôi thứ ở chốn đình trung, đó là cái thuật ngu dân thâm hiểm. Thâm ý của cái chế độ đình trung này là cốt thu hẹp tầm tư tưởng của dân quê lại. Vì theo đúng chế độ ấy, thì những người ăn trên ngi trốc ở một làng, đối với dân làng cũng có quyền bính lộc vị như người ăn trên ngồi trốc của một nước. Điều đó đủ làm cho hạng người tư tưởng nông hẹp lấy làm vinh dự. Và càng đủ khiến cho nhiu kẻ thấy cái vinh dự ấy mà suốt đời chỉ mơ mộng vào cái ngôi ăn chốn (hết 410) ngi ở đình trung mà khống nghĩ đến việc gì khác. Nói cho rõ nữa, cái chế độ y cốt làm cho dân quê chỉ biết có làng mà không biết nước. Ch tranh nhau quyn bính lộc vị trong làng mà không thiết đến quyn bính lộc vị trong nước. Đó, cái thuật ngu dân chỗ đó. Chỗ đó rt lợi cho việc cai trị mà rt hại cho tư cách người.
Ngô Tất T đã tố cáo chính sách ngu dân của giai cấp phong kiến. Sau này, chính sách bảo tn quốc túy của bọn thực dân, chủ trương duy tri những hư danh ngôi thứ ở chốn nống thôn, theo Ngô Tất Tố, cũng rt là thâm hiểm. Nó làm cho một số người lao vào tranh cướp nhau một chỗ ngi ở chốn đình trung, lấy đó làm lẽ sống cao nht và tt cả đu quên mát cái sự thật đau đớn: mình vẫn là thân nô lệ! Chng qua anh nô lệ này cưỡi lên đu anh nô lệ khác mà sống và dưới đáy xã hi là đám cùng đinh thì đành chịu cái kiếp con rùa trong câu phong dao cổ.
Kết quả của việc chạy theo hư danh, ngôi th là sự lục đục, chia rẽ ở nông thôn. Bọn lý dịch tuy hùa nhau ăn hiếp cánh áo ngn nhưng chúng lại chia ra năm bè bảy cánh kình địch nhau, khi đâm chém nhau vỉ một chức tiên chỉ (Cái án ông cạ). Đến cả những môn đ của Khổng Phu Tử trong hội tư văn, phn lớn là bậc khoa hoạn, mặc áo thụng lam, đội mũ nhiễu hoa bạc mà cũng đánh nhau chí tử vì một chiếc lăm lợn, gây nên một tn bi hài kịch ở khu văn chỉ: "Cái gỉ thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bn l phục để đi đánh nhau? Hay là đây cũng là cửa Khổng sân Trình cho nón dù là đánh nhau, càng phải giữ lễ” (Một chiếc lăm lợn). Trong một xã hội người bóc lột người, ý thức h của giai cp thng trị là ý thức hệ thng trị. Các bc đàn anh trong làng hiếu danh như thế, ham chức tước bổng lộc như thế thì lẽ tt nhiên một nông dân có cái tâm lý: “một miếng thịt giữa làng bng một sàng bếp, một miếng thịt làng bng một sàng thịt mua. Điu đó là một quy luật không tránh khỏi. Vì thế mới có người bán cả gia tài, cho vợ đi vú đ ly tiền mua một chức lý cựu! (Góc chiếu giữa đình). Và cũng vì thế người ta đã nâng niu một con gà thờ với tất cả lễ nghi thành kính, lấy làm màn nguyện vì đ chăm sóc tôn kính lúc người bị thương thực hơn là lo lng cho bà mẹ mình bị ốm nặng (Con gà thờ). Ngô Tât Tố đã phê phán cái tâm lý chạy theo hư danh ngôi thứ nhưng không bao giờ xem đó 1à bản cht của nông dân. Nhà văn hiện thực thấy rt rõ đó là những ảnh hưởng xu từ giai cp thng trị tiêm nhiễm vào những người dân bị áp bức từ lâu đi.
Trong Việc làng những truyện mang dáng dp của chủ nghĩa tự nhiên ôi giày mt dạy) hoc đưa ra những biện pháp cải lương chủ nghĩa (Lớp người bị bỏ xót. Nhưng nói chung Việc làng đã thu hút người đọc bng khả năng lý giải vn đ một cách sâu sắc, bng óc quan sát và nghệ thuật miêu tả tinh tế của một nhà văn sng lâu đời ở nông thôn. Việc làng đã góp phn lên án chính sách ngu dân thâm (hết 411) độc ca đế quốc Pháp thuộc địa, đã tố cáo những thủ đoạn bóc lột của bọn cường hào lý dịch ở nông thôn và là một đòn đánh tất mạnh và trực tiếp vào chủ nghĩa phục cổ.
Qua những tác phẩm của Ngô Tất T, ta thấy nhà văn có một thái độ phủ định khá mạnh m đi với nhiều mặt cơ bản của xã hội phong kiến. Ông lên án cái quan hộ thng còng làm cho thng ngay ăn, đòi hủy b chế độ áp bức bóc lột vô nhân đạo của bọn thống trị (Tt đèn), ông phê phán ý thức hệ Nho giáo, từ giáo lý Khổng, Mạnh cho đến các chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến (Lều chõng, Mặc Tử, Phê bình Nho giáo của Trn Trọng Kim). Đặc biệt, ông tập trung tố cáo những hủ tục đổi bại như một gánh nặng đè lên đời sống người nông dân và đt vấn đ phải gấp rút cải tạo bộ mặt của cái làng phong kiến Việt Nam (Tập án cái đình, Việc làng). Kết luận khách quan tiến bộ toát ra từ tác phẩm của Ngố Tất Tổ là phải gấp rút giải phóng người nông dân ra khỏi chế độ thực dân phong kiến cũng như ý thức hệ phong kiến.
*
* *
Từ một người bạn đường của giai cp công nhân, Ngô Tt Tố đã phấn đấu trở thành một chỉến sỉ trong hàng ngũ ca Đảng. Ngày 1/5/1948, Ngô Tất T được kết nạp vào Đng Cộng sản Đông Dương. Sau đó Đại hội Văn nghệ toàn quốc ln thứ nht (1948) bu ông vào Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, không có điều kiện đ viết những tác phẩm quy mô, Ngô Tất T tập trung viết những bài ca dao, những bản diễn ca, những truyện ngn, các vở chèo dế phục vụ kịp thời công tác cách mạng (Vinh Thụy ca, Quà Tết bộ đội, Anh Lộc, Buổi chợ trung du). Mặt khác, phấn lớn thì giờ, Ngố Tất T dành cho công tác phiên dịch, nhm giới thiệu những tác phẩm tốt của Liên Xô, Trung Quốc có th phục vụ trực tiếp cho cuộc cách mạng phn đế phản phong của dân tộc (Suối thép, Vấn dè văn nghệ Liên Xô, Trài hùng, Trước tòa chiến đu), Trong Giải thưởng văn nghệ 1951-1962, Ngô Tất T được giải ba v dịch và giải khuyến khích v vở chèo 10 cảnh Quách Thị Tước (sau đổi là Nữ chiến si Bùi Thị Phác).
Hơn 30 năm viết văn, viết báo, dịch thuật, nghiên cứu phê bình văn học, Ngô Tất T đã đ trọn cuộc đi của mình đóng góp cho sự nghiệp văn học, sự nghiệp cách mạng và đã có những cống hiến lớn lao. Bổn năm sau khi Ngô Tất T nằm xuống trên quê hương của Đề Thám (1954), nhà thơ Tố Hữu đã nói đến những anh em văn nghệ sĩ lớp trước với một thái độ hết sức trân trọng: “Chín năm kháng chiến đã làm lại cuộc đời của nhiu anh chị em thành người có ích, thành người cách mạng, thành người cộng sản. Nhiều anh chị em đã đứng trong hàng ngũ chiến đấu của Đảng. Một s đng chí thân yêu của ta đã hy sinh anh dũng cho Tổ quốc: Nam Cao, Trần Đăng, Tô Ngọc Vân, Ngô Tất T, v.v... sống mãi trong lòng cách mạng./.



[1] Lộc Hà, Chung quanh cái đình, Căn cước của cái đình, báo Đông Phương, 1931.
[2] Lộc Hà. Tâm lý dân quê đối với Thành hoàng, báo Đông Phương, 1931.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét