Khiemnguyen

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Ngô Tất Tố và Lỗ Tấn



Một vấn đề được đặt ra là Ngô Tt Tố có chu ảnh hưng của Lỗ Tấn hay không? Trong những tác phẩm của Ngô Tất Tố mà chúng tôi được đọc có đôi chỗ nhắc đến Karl Marx và Lenine những chưa thấy có chỗ nào nhắc đến tên đại văn hào Lỗ Tấn. Nhà phê bình Trương Chính cũng nêu vấn để: “Vậy thì có phải Ngô Tất T đã đọc Lỗ Tấn và chịu ảnh hưởng ca L Tấn hay không? Không phải, trước năm 1936, Việt Nam không mấy người biết Lỗ Tấn. Những t báo trên đó Lỗ Tấn từng viết tạp văn, không h được chính phủ Pháp cho bán Việt Nam. Các nhà nho tiến bộ mới đọc Lương Khải Siêu, Hồ Thích, chưa biết Lỗ Tấn. Cho nên không thể thấy giống nhau mà nói người nọ chịu ảnh hưởng của người kia”[1].
Đúng là trước 1936 chưa có sách Lỗ Tấn Việt Nam. Nhưng từ 1937 tr đi thì sao? Trong Lời Giới thiệu Đặng Thai Mai - tác phẩm (2 tập) (Nhà xuất bản Văn học 1978), chúng tôi đã viết:
“Mặt trận Dân chủ Đông Dương thành lập m ra một thi kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Đặng Thai Mai có điều kiện tiếp xúc trực tiếp hơn với các chiến sĩ cách mạng và báo chí cộng sản, ông tìm đọc khá đều đặn những sách nghiên cứu về chủ nghĩa Mác của Nhà xuất bản Quốc tế xã hội (E. S. I) của Đảng Cộng sản Pháp hoặc Nhà xuất bản Tam Liên bên Thưng Hải.
một hiệu sách phố Đồng Xuân do một đồng chí trong Đảng chủ trương,, Đặng Thai Mai đã tìm được Người mẹ của Gorki, Chiến bại của Fadéev, Xi măng (108) của Gladkov và những tác phẩm của A. Tolstoi Cholokhov, Fourmanov, Serafimovich... qua các bản dịch tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc... Và qua những bài giới thiệu của Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã tìm hiểu những văn kiện của Đảng Cộng sản Liên Xô về chính sách văn học nghệ thuật sau Đại hội năm 1925 và của Đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất họp ở Mạc Tư Khoa năm 1934”[2] (Những dòng chữ trên đây đã được giáo sư Đặng Thai Mai xem lại lần cuối trước khi bản thảo đưa xuống nhà in. Như vậy là ở hiệu sách phố Đồng Xuân do đồng chí Phạm Văn Hảo phụ trách đã xuất hiện tác phẩm của Lỗ Tấn. Đó là chúng tôi chưa kể những hiệu sách khác như hiệu sách Hương Giang của Hải Triều ở Huế, hiệu sách Thuận Hóa (98C Rue Gia Long) là cơ quan của xứ ủy Trung Kỳ do đồng chí Lê Duẩn, bí thư xứ ủy phụ trách, hiệu sách Việt Quang Lâm ở 102 Bạch Đằng, Đà Nẵng do đồng chí Thái Thị Bôi phụ trách. Đến đây vẫn có hai khả năng xảy ra. Một là Ngô Tất Tố thời kỳ ở Chợ Lớn làm Đông Pháp thời báo vẫn thường xuyên theo dõi tình hình chính trị và học thuật Trung Quốc và thế giới qua sách báo Trung Quốc, lẽ nào thời kỳ Mặt trận Dân chủ không tìm đọc sách báo tiến bộ Trung Quốc, trong đó có Lỗ Tấn, ở hiệu sách ph Đồng Xuân do đồng chí Phạm Văn Hảo phụ trách? Hai là những tác phẩm quá ít i của Lỗ Tấn chỉ xuất hiện ở một hiệu sách của Đảng ở phố Đồng Xuân nên nhiều người không biết. Như vậy cho đến nay chúng ta vẫn chưa đủ cứ liệu để kết luận trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ngô Tất Tố có đọc hay (109) không đọc Lỗ Tấn. Nhưng sự gặp g giữa Ngô Tất Tố và Lỗ Tn là điều có thể khẳng định, đặc biệt là từ 1938 về sau. Phải chăng chỉ là sự gặp gỡ tình c của những tư tưởng lớn (les grands esprits se rencontrent)?
Năm 1938, Ngô Tất T viết một loạt bài có liên quan đến Khổng Tử và Nho giáo như Con cháu khôn hơn ông vải, Chúa trùm Đảng áo nâu sẽ xung địa ngục, Phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng Kim.
Tuy là một môn đệ của Khổng Mạnh nhưng, cũng giống như Lỗ Tấn, nhiều lúc Ngô Tất T đã thẳng thắn phê phán giáo lý của các nho gia, đặc biệt tở thái độ phê phán đối với cụ Khổng.
Ngô Tất Tố chễ giễu hai cái chủ nghĩa hành đạo và tùy thi của Khổng Tử và Mạnh Tử. Nhân chuyện Khổng Đức Chương và Mạnh Khánh Đưng là con cháu mấy mươi đời của Khổng Tử và Mạnh Tử từ chối không chịu hợp tác với phát xít Nhật, Ngô Tất Tố cho rằng cụ Khổng và cụ Mạnh ngày xưa “tùy thời một cách dễ dãi” chứ đâu có “khó tính” như vậy!
“Khổng Tử sính làm quan lắm. Cứ như Trang Tử đã nói thì chính mình cụ đã đem “đạo” đi rao với 72 ông vua, dấu ngựa, bụi xe của ngài khắp cả các nước, rút lại vẫn không đắt hàng. Cùng quá, đến nỗi hai anh tướng giặc nước Lỗ, eái “nước cha mẹ” của ngài, trong khi chiếm đất làm loạn, muốn mời ngài đến giúp việc, ngài cũng định đi với họ. Thật là một nghĩa tùy thi”.
Mạnh Tử cũng vậy, tuy không “bệ kiến” nhiều vua như cụ Khổng, nhưng với vài chục cỗ xe đi trước, vài chục đầy tớ đi sau, cụ này đã ăn khắp lượt mấy nước chư hầu và đã yết kiến vua Tuyên Vương nưc Tề, vua Huệ nước Lương cho đến vua Văn nước Đằng, một (110) nước giật gấu vá vai mới được năm chục dặm đất, cũng dịp được gặp cụ. Đó là cụ cũng tùy thời như cụ Khổng vậy”! (Xuân Trào - Con cháu khôn hơn ông vảiThời vụ - 1938).
Trong các bài tạp văn Thầy Khổng Trung Quốc ngày nay, Việc “đọc kinh truyện” năm thứ mười bốn, về vương đạo của Trung Quốc... Lỗ Tấn cũng phê phán cái tư tưởng thích quyền thế, thích làm quan để hưởng bổng lộc, nói cho đẹp mặt là để hành đạo của Khng T và Mạnh Tử[3].
Nho giáo của Trần Trọng Kim là một cuốn sách chạy theo khuynh hướng phục cổ, tôn Khổng, sùng Nho của giai cấp thống trị. Phan Khôi một mực đ cao cuốn sách đó “khuyên những người An Nam đều phải thắp hương mà đọc”. Nhưng Ngô Tất T thì lại cho rằng bộ Nho giáo còn có nhiều chỗ khuyết điểm: “Nếu như những chỗ sai lầm của sách ấy không bị đính chính thì với những người đẻ sau vài chục năm nữa, Nho giáo sẽ Trần Trong Kim giáo”, không phải đạo giáo của Khổng Tử, của tiên nho nữa”. Trong khi tiến hành phê bình cun sách của Trần Trọng Kim, Ngô Tất T đã đề cao một phương pháp nghiên cứu nghiêm túc, tôn trọng sự thật khách quan của lịch sử. Tiếc rằng ngoài những ý kiến giá trị về mặt văn bản học và phương pháp nghiên cứu, trong tác phẩm của mình, Ngô Tất T chưa nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn để cơ bản của Nho giáo. Tất nhiên, ở chỗ này chỗ khác, người ta có thể thấy rõ thái độ của ông đối với cụ Khổng. Chẳng hạn ông phê phán chủ nghĩa trung quân (111) mù quáng của Khổng Tử chi biết nhm mt tôn th các bậc đế vương, thậm chí bao che cho cả bọn hôn quân bạo chúa. Trần Trọng Kim cho rng tư tưởng trung quân cùa Khng Tử không có nghĩa là trung với người làm đế vương mà là trung với quân quyền trong nước. Ngô Tất Tố bình phẩm: “Trời ơi! Nếu quả như thế thì Khổng Từ chẳng những không khác Jean Jacque Rousseau mà còn giống cả Karl Marx và Lénine nữa”. Trong các sách của Khổng giáo không có chỗ nào phân biệt quân quyền với bản thân người làm đế vương. Trong sách Xuân thu Khổng Tử không dám “b sót một ông vua nước Lỗ mà không chép “công tức vị”, cho đến Hoàn Công là kẻ giết anh để cướp ngôi vua, ngài cũng chép “công tức vị như thường”! Khổng Tử cũng không dám lộ cái tội mê gái của vua Ai Công, thà nhận lỗi về phần mình chứ không dám vạch chỗ xấu của vua Chiêu Công, vì ông đó là “vua của ngài”!
Ngô Tất T không những có thái độ “phê phán” đối với Khổng T và không tin vào những lời dạy của ngài trong Luận ngữ, mà nói chung ông còn có thái độ chế giễu khi nói đến các vị đế vương. Vua chúa như vậy thì cái chủ nghĩa trung quân mù quáng của Khổng Tử mà Trần Trọng Kim đề cao trong Nho giáo, chỉ là một chuyện khôi hài. Ở một chỗ khác, Trần Trọng Kim lại nói liều rằng: Khổng Tử coi dân là tri, mệnh tri tức là lòng dân. Ông ta đã đem tư tưởng Lương Khải Siêu, của Tăng T, T Tư, Vũ vương hay là Hán Nho “lắp vào cái tượng Khổng Tử ở Nho giáo”. Ngô Tất Tố cho rằng Khổng Tử là người chủ trương cái thuyết ngu dân của giai cấp thng trị, là người tạo nên thứ giáo lý tôn ty trật tự, chỉ muốn biến “th dân” thành những kẻ an phận phận tôi đòi (112).
“Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử đã nói: “Dân có thể khiến cho nó theo, không thể khiến cho nó biết”. Coí đó thì ngài là một người thiên về chính trị chuyên chế. không khi nào lại chịu coi dân là trời.
Đạo Khổng thực chất đã thành một công cụ thống trị về mặt tinh thần của bọn vua chúa phong kiến. Theo Ngô Tất Tố, nếu như ở phương Tây, các ông vua đu chịu “lễ thụ phong” của Giáo hoàng và nh Giáo hoàng đật hộ cái mũ lên đầu “thì ở phương Đông các thế lực phong kiến đều coi đạo Khổng là một tôn giáo dể duy trì thế lực của mình”:
“Lưu Bang là anh cai phu ở Ly Sơn, trong lúc kéo quân phá nước Tần, đánh nước Sở, rất không ưa nhà nho, có khi hắn đã lật mũ nhà nho mà đái vào. Thế mà đến khi chiếm được cái ngai hoàng đế thì tự mình lại đem cỗ thịt bò khúm núm đến lễ trưóc miếu cụ Khổng Tử và trọng dụng một anh nho dở là Thúc Tôn Thông để chế ra triều nghi cho mình. Các vua sáng nghiệp đi sau của nước Tàu đều theo kiểu ấy. Cho đến Tưởng Giới Thch bây giờ cũng vậy” (Xuân Trào - Chúa trùm đảng áo nâu sẽ xuống địa ngục - Thời vụ - 1938)
Khổng Tử ít nhiều đã được lỷ tưởng hóa, thần thánh hóa và bị lợi dụng làm một công cụ phục vụ cho những mục đích xấu xa của bọn phong kiến và các giai cấp bóc lột khác. Về điểm này, ý kiến của Ngô Tất Tố lại gặp ý kiến Lỗ Tấn. Trong khi những tiến sĩ Tây học như Hồ Thích đang “chỉnh lý quốc cố”, trong khi hiến pháp của bọn quân phiệt lấy “Khổng giáo làm quốc giáo”, trong khi Viên Thế Khải vô s và bọn quân phiệt Bc dương chủ trương khôi phục các điển lễ, dùng chiêu bài Khổng Tử để chống lại nhân dân cách mạng thì Lỗ Tấn phê phán KhngTử khá triệt để, thậm chí (113) nhiều lúc chế giễu, gọi người sáng lập ra đạo Nho “ông Hai Khổng”. Đặc biệt Lỗ Tn không đồng nhất “ông thánh modern” đang được các thế lực sùng bái và thẩn tượng hóa với Khổng Khâu 2000 năm lịch sử v trước: “Thực ra cái ông Khổng Tử ấy từ sau khi chết cũng chỉ được dùng làm hòn gạch gõ cửa mà thôì[4]. Như thế đứng về mặt phương pháp luận nghỉên cửu, cn phân biệt Khổng Tử trong lịch sử với Khng Tử đã bị khai thác phiến diện, bị xuyên tạc hoặc thần thảnh hóa trong suốt mấy nghìn nảm qua.
Trong cuốn Phê bình “Nho giáo” củo Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố còn lưu ý chúng ta, trong khi nghiên cứu Khổng Tử phải hết sức chú ý mặt văn bản học. Bi vì từ đời Khổng Tử đến đi Hậu hán “thể chữ” và “đ viết” của Tàu thay đổi đến ba bốn lần. Trong mỗi lần thay đổi thể chữ, các sách chữ cũ đều phải chuyển sang chữ mới, tất nhiên trong sự sao chép không thể tránh khi lầm lẫn thiếu sót. Mặt khác, những sách viết trong đi Khổng Tử hết thảy viết bằng th tre. Đến đi nhà Tần mới biết viết chữ vào lụa. Và đến Sài Luân nhà Hán mới dùng v cây mà chế ra giấy.
“Từ thời kỳ viết bằng thẻ tre cho đến thi kỳ viết bằng lụa cách nhau hơn 300 năm, từ thời kỳ viết bằng lụa đến thời kỳ viết bằng giấy cách nhau độ hai trăm năm nữa, các thứ sách ấy tránh sao cho khởi những nạn chuột tha, mọt đục, dán nhấm, hay là đứt quai, đứt chuỗi mà lạc đi mất. Hai cái cớ đó nó đã bắt buộc người ta tin rằng những sách đời cổ còn đến bây gi phải có nhiều chỗ sai lầm. Hơn nữa, bao nhiêu danh (114) từ v đi Khổng Tử, đến nay đã cách hơn 2000 năm ý nghĩa của nó thay đổi rất nhiều. Những sách nói về Khổng Tử lưu hành đến đây, phần nhiều đã bị trà trộn tư tưởng ca Tng Nho. Vì vậy muốn cho tư tưởng của Khng Tử không bị pha phách với các thứ khác thì sự phiên dịch cũng phải khó khăn như việc lựa chọn tài liệu”.
Chúng ta đã điểm qua các bài viết về Nho giáo năm 1938. Ngày 21/3/1939, Lều chõng lần đầu tiên được đăng dần trên báo Thời vụ từ số 112 và sau đó được xuất bản thành sách năm 1941. Lều chõng cũng như Trong rừng nho là tấn bi hài kịch của cả một thế hệ nhà nho trí thửc. “Vì nó, nước Việt Nam trong một thời kỳ rất dài, đã hiện ra nhiều cảnh tượng kỳ quái, có thể khiến cho người ta phải cười, phải khóc[5] Trong cuốn tiểu thuyết, dưới ngòi bút phê phán sắc sảo của Ngô Tất T, mọi quan Nghè quan Phủ đều mất hết vẻ uy nghiêm trang trọng. Trường thi được miêu tả “như sân khấu rạp tuồng”, trên đó các quan giám khảo múa may giống hệt như quan phưòng chèo: “Sau lá cờ khâm sai, quan chánh chủ khảo bệ vệ đi ra với bn chiếc lọng xanh khúm núm theo sau”... “Cái bối tử hình con công, cái vành đai đột chỉ vàng, cái gấu áo thêu thủy ba, cái xiêm xanh viền chân chì hạt bột và đôi ủng đen có đôi bướm bạc long lanh”, bấy nhiêu thứ đó thêm cây hốt ngà trước ngực “vi sự nâng niu của hai bàn tay xúng xính trong đôi tay áo rộng như cái cống”, “làm cho ngài giống hệt những quan phường chèo”! (115).
Còn cái ông tiên sĩ c biển vinh quy về làng thì Ngô Tất Tố lại nhìn “ging như những ông nghè bằng giấy mà hàng năm đến rằm thảng tám, người ta vẫn thấy ở c trông trăng[6].
Đến đây ta lại thấy có sự gặp nhau giữa Ngô Tất T và L Tấn. Tất cả những quan phường chèo, những ông nghè giấy đó, dưới ngòi bút châm biếm của Ngô Tt Tố đểu ging nhau: dáng điệu trịnh trọng bệ vệ, toàn thân cứng nhắc, ngay đuỗn. Đó là cái vẻ bên ngoài ca một kiểu người luôn luôn nói đến lễ nghĩa và mọi thứ tôn ti trật tự: kiểu người của Khổng Tử. Trong bài Thầy Khổng Trung Quốc ngày nay, bằng một giọng hài hước, Lỗ Tấn đã nhắc đến một hình vẽ Khổng Tử: một ông già gầy gò, mặc áo thụng xanh, đội mũ cánh chuồn, đi hia, cầm hốt, ngồi nghiêm trang không cười, giá có phải ngồi hầu chuyện ngài thì chắc cái lưng chúng ta cũng phải thẳng đuỗn, ngay đơ, ngồi một lát đau xương sống quá, rồi cũng phải kiếm cách mà chuồn cho sm! Là một người trong làng Nho nên Ngô Tất T đã sớm phát hiện ra những nét hài kịch toát ra từ mâu thuẫn nằm ngay trong bản chất những ông quan phường chèo và tiến sĩ giấy đó. Trong Lều chõng, Ngô Tất Tố không trực tiếp chỉ trích Khổng Tử nhưng ông đã châm biếm những kiểu người do giáo lý Khổng Mạnh xây dựng nên.
Trong thái độ phê phán Khổng Tử và Nho giáo, Ngô Tất Tố và Lỗ Tấn có nhiều điểm gặp nhau. Trong (116) quan niệm văn tiểu phm là một vũ khí chiến đấu trên mặt trận báo chí, Ngô Tất Tố cũng gặp Lỗ Tấn. Kẻ thù càng hung ác, xảo quyệt, thâm hiểm thì nhà văn càng phải mài sắc ngọn bút, làm cho nó trở thành một vũ khí lợi hại. Cũng như Lỗ Tấn, Ngô Tất Tố quan niệm rằng “văn tiểu phẩm muốn tồn tại thì phải là mũi dao nhọn, là khẩu súng, có thể cùng với người đọc mở một con đưng sống bằng máu[7]./.




[1] Ngô Tất Tố - Tuyển tập (1) - NXB Văn học - 1993 - tr. 36.
[2] Tuyển tập Phan Cự Đệ, Tập III - NXB Văn học - Hà Nội, 2000, tr: 266.
[3] L Tn - Tuyển tập tạp văn, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1963, trang 237.
[4] L Tấn - Thầy Khổng ở Trung Quốc ngày nay - Tuyển tập tạp văn - Tập III, trang 346.
[5] Lời giới thiệu Lều chõng của Ngô Tất Tố - Thời vụ số 109 ngày 10/3/1939
[6] Đoạn này cũng như nhiều đoạn văn châm biếm khác trong Lều chõng trưóc đây bị thực dân Pháp kiểm duyệt. Chúng tôi đốì chiếu với báo Thời vụ để khôi phục lại nguyên văn.
[7] Lỗ Tấn – Tuyển tập tạp văn, tập III, Nxb Văn học, trang 436

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét