Khiemnguyen

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Ngôn ngữ phóng sự


SỰ HẤP DẪN CỦA NGÔN NGỮ PHÓNG SỰ

H.A
Nói đến báo chí hiện đại, không thể không nhắc đến phóng sự. Bởi đây là một thể loại, với những ưu thế riêng của mình, có sức hút đặc biệt đối với công chúng, và ở mức độ nào đó, có thể tạo nên bản sắc của cả một tờ báo. Sự thành công của một tác phẩm phóng sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Song, theo chúng tôi, yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu chính là hình thức thể hiện của nó, mà nói một cách cụ thể, là cách sử dụng ngôn ngữ ở đó. Khảo sát cho thấy, ngôn ngữ phóng sự có những đặc điểm cơ bản dưới đây:
1. Giàu tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí nói chung, ngôn ngữ phóng sự nói riêng, gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối nói giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, vì thế sinh động, hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với người đọc, người nghe. Ví dụ:
- "Chung cư 3 cũ ở Hà Nội bây giờ nói một cách văn hoa đang ở trong trạng thái "toan về già", nhưng xem ra còn "càng già càng dai" hơn những khu nhà tái định cư được thi công theo kiểu rút ruột 50% thép tại Kim Giang - Hạ Đình vừa qua" (Lam Nguyên, Sống ở chung cư cũ - những nỗi buồn vắt qua hai thế kỷ, Đại đoàn kết, 24/4/2005);
- "Các chủ quán bia tôi cũng có quen vài người (để ký sổ khi hết tiền). Họ lạc quan lắm “Trăm năm bia đá cũng mòn. Ngàn năm bia rượu vẫn còn trơ trơ" mà!" (Huỳnh Dũng Nhân, Con đường bia bọt, trong: Tôi đi bán tôi, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004);
- “Đi cùng N. là một “đội” bốn nam, hai nữ, trong đó có một chip-boy mặt búng ra sữa”, “Chỉ có hai nàng cave là cười tủm tỉm” (Tiên Huyền, Vào casino Đồ Sơn đánh bạc, Tuổi trẻ, 9/3/2004)…
Như đã thấy, nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ phóng sự là vô cùng phóng phú, đa dạng. Đó có thể là việc sử dụng các từ ngữ đặc trưng cho phong cách hội thoại (khẩu ngữ tự nhiên), rồi các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là sự vay mượn những hình ảnh, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi chữ, nói lái, dùng ẩn dụ... Chính những thành tố biểu cảm nêu trên đã làm cho ngôn ngữ phóng sự vừa gần gũi với đời thường, lại vừa thể hiện rõ nét thái độ, tình cảm của tác giả trước những con người hay sự việc nào đó. Và do vậy, người đọc dễ dàng bị cuốn vào dòng chảy của những thông tin được phản ánh trong tác phẩm.
2. Là sự kết hợp nhuần nhuyễn các bút pháp tả - thuật - bình
2.1 Nghệ thuật miêu tả Tác phẩm phóng sự không chỉ phản ánh thực tế khách quan mà còn thể hiệnsự nhận thức thế giới với một quan niệm thẩm mỹ riêng của người viết. Nếu nhà báo tái tạo bức tranh hiện thực chỉ đơn thuần bằng những sự kiện, con số khô cứng thì sẽ khó tạo ra được niềm hứng thú cho độc giả. Để khắc phục điều này, nhà báo cần biết cách miêu tả thật sống động, sao cho bức tranh hiện thực ấy trở nên có hồn, với đầy đủ các cung bậc của âm thanh, sắc màu và ánh sáng. Ví dụ:
- “Nơi đây có một thác nước bạc óng ánh tuôn xuống dòng suối bạc lung linh, huyền ảo. Cũng tại nơi này có rất nhiều chiếc chậu tắm, bồn tắm được “tạo tác” bằng các sắc màu của nhũ đá và dát xung quanh muôn vàn những viên ngọc châu với những nét hoa văn độc đáo, chạm khắc tinh xảo diệu kỳ của thiên nhiên. Ngước mắt nhìn lên vòm trần cung vua Thuỷ Tề là những nhũ đá thạch anh long lanh như được dát bạc, những hình người, những con vật với nhiều thế đứng, nhiều dáng vẻ khác nhau làm cho nơi này trở nên sống động.” (Anh Tuấn, Sửngsốt Tiên Sơn, Lao động, 16/2/2004).
Dưới ngòi bút miêu tả của tác giả, phong cảnh một góc nhỏ Tiên Sơn hiện ra thật lung linh huyền ảo. Người đọc được dẫn vào một chốn thần tiên với những thác nước bạc, nhũ đá... đầy quyến rũ. Cảnh vật dường như được bàn tay ngườ ithợ tài hoa chạm trổ, xây đắp nên mới có hình khối, hoa văn vô cùng tinh xảo đến vậy.
Còn đây là bức tranh về phong cảnh thiên nhiên khoáng đạt, đời sống sản xuất nhộn nhịp ở một vùng đất thuộc Hải Phòng:
- “Tôi đến Lập Lễ vào đúng lễ Vu Lan, trời ngăn ngắt xanh và ồ ạt gió. Cảng Mắt Rồng của xã vừa kè đá, khơi luồng, ken đặc hàng trăm tàu, thuyền dập dềnh với sóng triều dâng lên từ cửa lạch. Tàu nào cũng treo 20 – 30 bóng điện gắn pha trắng như mắt cú mèo gặp nắng. Trên bờ là những “bộ xương”, mũi, sườn… tàu bằng gỗ đỏ au, trắng bạch đang được hàng chục tay thợ gấp gáp hoàn thiện” (Quang Thiện, Những phú ông trên biển, Tuổi trẻ, 4/3/2004 ).
Những kiểu miêu tả đầy hình ảnh như vậy vừa giải toả nhu cầu thẩm mỹ của người đọc, vừa khiến cho họ có cảm giác mình là người trong cuộc: tất cả mọi thứ đang diễn ra ngay trước mặt mình.
2.2 Nghệ thuật kể (thuật)
Một trong những yêu cầu để có bài phóng sự hay là nhà báo phải sử dụng nhiều chi tiết, nhiều dẫn chứng nhằm thuyết phục người đọc tin vào tính chân thật, khách quan của sự kiện. Những chi tiết, dẫn chứng này thường xuất hiện thông qua ngòi bút trần thuật của nhà báo. Với tư cách là một nhân chứng, trên cơ sở trực tiếp chứng kiến sự kiện, trực tiếp gặp gỡ nhân vật,... nhà báo tường thuật lại những điều mắt thấy, tai nghe để người đọc nắm được vấn đề. Tuy nhiên, kể như thế nào cũng là cả một nghệ thuật. Vì nó vừa phải hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, lại vừa phải bảo đảm tính chân thực, khách quan của thông tin, sự kiện. Ví dụ:
- “Khoảng 15 phút ngồi chờ thì hai cô gái đầu tiên được chở đến. Hai cô tự giới thiệu là đào của mẹ Nguyên, một cô quê Bạc Liêu, một cô quê Cần Thơ mới lên đây được hai tuần. Thấy ông Long tỏ ý không vừa lòng, Dũng lẹ miệng: “Thôi các em cứ về, anh sẽ gọi lại sau”. Tất cả diễn ra không đến hai phút. Một tốp bốn cô khác lại đến, không vừa lòng khách lại quay ra. Mỗi lần có một tốp đến, Dũng lại hỏi “đào của ai?” rồi ghi lên giấy. Càng về sau, các cô đến càng đông. Đến tốp thứ sáu, tức khoảng 25 cô đã trình diện, thì Long tỏ ra quan tâm đến một cô có nước da trắng, theo cô tự giới thiệu: cao 1,63m, quê An Giang.Thấy vậy Dũng hỏi tên cô, đào của ai? Cô gái giới thiệu tên là Huỳnh Thị Kim So, 26 tuổi, lên đây được khoảng một tháng” (Võ Hồng Quỳnh & Minh Toán, Theo các đường dây môi giới lấy chồng ngoại, Tuổi trẻ, 21/4/2004).
Chỉ bằng vài câu văn, ngòi bút trần thuật của tác giả đã ghi lại được những chi tiết đắt giá của màn “chọn vợ cho các ông chồng ngoại quốc": các cô gái - "ứng cử viên" bị xem xét, định giá, chọn lựa chẳng khác nào những món hàng. Cả người viết và người đọc đều có chung cảm giác buồn đau và tủi hổ.
- “Một thanh niên cầm chiếc gậy sắt chọc vào con gấu chuồng bên để nó không king động khi thấy cảnh đồng loại bị hành hạ. Người còn lại lắp “tên lửa mê” vào ống nhựa, ngậm đầu kia vào mồm rồi hướng về phía con gấu mà phồng má thổi. Xilanh bắn cắm vào thịt gấu. Những chiếc xilanh cắm vắt vẻo vào con gấu làm nó lồng chạy hồng hộc. Khoảng 10 phút sau, con gấu không còn chạy được và đứng đung đưa như kẻ say rượu. Hai thanh niên bật cửa đạp con gấu đổ vật xuống nền. Một người chọc xilanh bơm hai mũi thuốc mê vào đùi gấu rồi rút dây dù chằng chân tay con vật vào nan sắt. Chiếc máy siêu âm cắm điện, bật màn hình. Người trong lồng sắt một tay cầm xilanh to như cái điếu cày, mũi kim tiêm dài hơn chục phân; tay kia cầm máy soi gí sát vào ngực gấu. Anh ta rê đi rê lại chừng hai phút, khi màn hình xuất hiện một vệt đen đen thì anh ta bặm môi đâm sụt chiếc kim vào ngực gấu. Con vật hộc lên từng hồi giãy giụa yếu ớt” (QuangThịên, Lần theo mùi mật gấu, Tuổi trẻ, 15/4/2004).
Cảnh hành hình con gấu tội nghiệp để lấy mật đã được kể lại thật chi tiết và sinh động. Nó găm vào tâm khảm người đọc nỗi xót thương xen lẫn niềm căm giận: Con người, với lòng tham lam và sự ích kỷ vô độ của mình, sẵn sàng có những hành động đáng bị lên án với các loài sinh vật khác để thu lợi nhuận.
2.3 Nghệ thuật bình
Một trong những yếu tố làm nên sự hấp dẫn của phóng sự là nó cho phép – và thậm chí khuyến khích - người viết bộc lộ "cái tôi" cá nhân của mình. Nhà báo không cần phải che giấu những cảm giác, suy nghĩ của bản thân. Có nghĩa là, trong phóng sự, tác giả có thể biểu hiện quan điểm, lập trường của mình thông qua những lời bình luận chính xác, khéo léo. Đọc phóng sự chúng ta thường thấy quan điểm của tác giả trước hiện thực được trình bày. Như vậy, tính chủ quan – cái tôi tác giả là một đặc trưng của phóng sự. Nhưng, đó hoàn toàn không phải là sự chủ quan duy ý chí, lại càng không phải là một cái "tôi" cảm tính, thiên lệch. Trên cơ sở một thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, với tư thế của một người bảo công lý, bảo vệ lẽ phải, phóng viên bày tỏ thái độ bất bình hoặc ủng hộ của mình trước hiện thực để hướng dẫn dư luận. Ví dụ:
- “Nhóm thanh niên người làng Phú Túc đi phát păm (làm cỏ rừng trồng) nhiệt tình chỉ đường: “Các anh quay lại một đoạn, đến khu dân cư có nhiều nhà mới xây là làng đó. có nhiều người tên Năm nhưng chắc các anh tìm bà Năm phụ nữ?”. Chẳng lẽ những bà Năm khác có “vấn đề”? Buồn cười. Nhưng chúng tôi không tiện hỏi bởi khuôn mặt của các chàng thanh niên không có gì biểu hiện đùa cợt”. (Thanh Hải, Bà Năm phụ nữ, Lao động, 28/3/2004).
Lời bình “Chẳng lẽ những bà Năm khác có “vấn đề”?” thật hóm hỉnh.Những chàng trai người dân tộc thật thà khi nói “bà Năm” rồi còn phải gắn thêm giới tính “phụ nữ”, phải chăng là họ “ngốc nghếch”? Câu trả lời là không phải họ ngốc mà là vì đối với người dân Cà Tu, cái tên bà Năm đã gắn liền với những hoạt động trong công tác phụ nữ của bà, người dân đã ghi nhận công lao đó và đã gắn tên bà với lĩnh vực bà hoạt động. Vậy nên cái tên Bà Năm phụ nữ đã được gọi lên thật âu yếm.
3. Có giọng điệu gần gũi với văn kể chuyện
Sở dĩ nói phóng sự có giọng điệu gần gũi với văn học là bởi hầu như mỗi bài phóng sự đều mang dáng dấp một câu chuyện (hoặc tập hợp các câu chuyện) có biến cố, nhân vật với đầy đủ lời nói, suy nghĩ, hành động…do tác giả kể lại từ đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất "tôi". Hơn thế nữa, một số tác phẩm phóng sự còn vậndụng cả các thủ pháp của nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong văn học để trình bày diễn biến của sự kiện: có thắt nút, có cao trào, có mở nút. Chính vì thế, phóng sự rất dễ đọc, dễ đi vào lòng người và dễ được ghi nhớ. Đọc xong một phóng sự, người ta có thể kể lại nội dung của nó cho người khác nghe không mấy khó khăn. Giọng văn của phóng sự, khi thủ thỉ tâm tình, khi mạnh mẽ dữ dội tuỳ thuộcvào vấn đề, sự việc mà tác phẩm phản ánh. Ví dụ:
- “Chuyện bắt đầu từ một gia đình thương binh nghèo ở ấp Thanh Điền, xã Hưng Khánh Trung (Chợ Lách, Bến Tre). Hoà bình về, anh Nguyễn Văn Ty –người chiến sĩ thuộc đại đội địa phương quân trở lại quê nhà, với thân thể đầy thương tích và một mảnh đạn còn sót lại trong đầu.” ( Nguyễn Bảy, "Vườn tình thương” cho cựu binh, Lao động, 12/2/2004).
Câu chuyện cứ thế tiếp tục, với một giọng điệu thật nhẹ nhàng, tự nhiên và cuốn hút. Nó gợi cho ta nhớ tới những câu chuyện cổ tích mà ta đã được nghe bà kể khi còn ấu thơ. Bằng phóng sự “Chặn quái xế ẩn hiện”, nhà báo Cù Mai Công như “Hiệu báo dừng xe của CSGT – TT Q. Phú Nhuận không làm giảm tốc độ chiếc Suzuki125cc màu xám bạc đang phóng với tốc độ cao dọc bờ kè hướng từ Phú Nhuận ra Bình Thạnh. Một môtô trắng phóng theo, một chiếc khác vòng qua đường tắt chặn đầu. Chỉ một loáng, hai quái xế trên chiếc xe phân khối lớn “căm dính niền” ấy đã bị “vịn”cách đó gần trăm mét để đưa về một chốt mai phục…” (Cù Mai Công, Chặn quái xế ẩn hiện, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh, 11/2/2004).
Tiết tấu nhanh, mạnh của mạch văn đã đưa người đọc vào một cuộc rượt đuổi nghẹt thở, đầy gay cấn giữa cảnh sát giao thông với những " yêng hùng xalộ". Giọng điệu của đoạn trích làm ta liên tưởng tới những màn điều tra, phá án trong các tác phẩm trinh thám.
4. Đa tầng, đa thanh
Ngôn ngữ phóng sự, nếu xét theo góc độ chủ thể phát ngôn, tồn tại dưới hai dạng chính là ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật của tác giả và ngôn ngữ nhânvật.
4.1. Ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật của tác giả
"Cái tôi " trần thuật trong phóng sự chính là "cái tôi" tác giả - nhân chứng khách quan, người đóng vai trò dẫn chuyện, kể lại những điều "mắt thấy, tai nghe", người trình bày, lý giải, phân tích, xâu chuỗi các sự kiện rời rạc thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, tạo ra một văn bản có nghĩa khiến cho công chúng luôn tin tưởng rằng họ đang được tiếp xúc với sự thật. Và trên cơ sở của niềm tin như thế, họ sẽ có những chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm như người viết mong đợi. Ví dụ:
- "Khi chúng tôi đang "đọc" báo điện tử thì một gã "mù" bước vào. Gã không biết có người lạ đột nhập vào phòng vi tính của trung tâm. Gã oang oang tuôn một tràng tiếng Anh là tên các chương trình tiếng Anh trên Internet mà gã đang vào nhưng đang bị tắc do dịch vụ cung cấp theo gã là quá chán. Tôi có ấn tượng ngay khi gã nói câu tiếng Anh đầu tiên. Gã phát âm cực chuẩn, theo tôi chỉ những người học thật nghiêm túc và rèn luyện công phu mới đạt được trình độ nói tiếng Anh điêu luyện như vậy " (Lê Thanh Phong, Hiệp sỹ mù, Lao động, 9/6/2004).
 Chính việc đàm thoại trực tiếp với độc giả từ danh tính của "cái tôi" cá nhân đầy cụ thể đã giúp cho nhà báo thể hiện một cách tự do thái độ, tình cảm của mình. Vì lẽ đó, ngôn ngữ mang "cái tôi" trần thuật trong phóng sự luôn ngập tràn cảm xúc cá nhân.
4.2. Ngôn ngữ nhân vật
Đây là ngôn ngữ của những đối tượng khác ngoài tác giả. Căn cứ vào hình thức thể hiện, có thể chia ngôn ngữ nhân vật thành hai loại là ngôn ngữ nhân vật trực tiếp và ngôn ngữ nhân vật gián tiếp. Ngôn ngữ nhân vật trực tiếp là những lời nói được trích dẫn trực tiếp, xuất hiện trong những tình huống đàm thoại, phỏng vấn. Ví dụ:
- Hai anh đi không? - Đi đâu, đâu có quen đâu mà đi. - Xì, cái mặt gặp hoài mà làm bộ. Đi đi khách quen bớt giá. - Tiền đâu mà đi? - Thôi đi cha. Nhất tóc muối tiêu, nhì Việt kiều, thấy hai cha biết là ngon rồi.... (Huỳnh Dũng Nhân, Theo dấu "bướm đêm", trong:"Tôi đi bán tôi", Nxb.Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1994);
Về nguyên tắc, ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thường mang dấu ấn cá nhân rất rõ nét. Nó thể hiện khá đầy đủ các đặc điểm của chủ thể phát ngôn: từ giới tính, tuổi tác, quê quán cho đến trình độ, nghề nghiệp, tính cách,... Tất nhiên, khi xuất hiện trên báo in, rất có thể ngôn ngữ nhân vật đã mất đi cái dáng vẻ nguyên sơ như nó vốn có trong đời thực vì nó đã trải qua sự nhào nặn dưới ngòi bút tác giả hoặc biên tập viên. Còn ngôn ngữ nhân vật trên truyền hình hay phát thanh là bức tranh rất chân thực về con người của anh ta, vì nó đến với người nghe một cách trực tiếp, không qua trung gian cho nên vẫn giữ được nguyên vẹn các sắc vẻ cá nhân của người nói. Kết quả khảo sát cho thấy, ngôn ngữ nhân vật trực tiếp, nếu được tác giả tái hiện một cách trung thành (tất nhiên không vượt quá giới hạn mà sự chuẩn mực cho phép) so với nguyên gốc, luôn mang những đặc trưng rất rõ nét của phong cách khẩu ngữ. Còn ngôn ngữ nhân vật gián tiếp chúng ta gặp trong trường hợp tác giả dùng lời của mình để diễn đạt lại nội dung các phát ngôn của nhân vật. Ví dụ:
- "...Dẫu sao giữ hai tấm ảnh của con, bây giờ, chị cũng nguôi ngoai rồi, cốt là con vẫn khoẻ, chứ có cần gì nhiều nhặn đâu. Hôm nọ chị vừa đọc cho bé Thảo (con cả của chị, sinh năm 1991, đã phải bỏ học) viết hộ một lá thư, ra bưu điện Tiên Du, chị gửi trực tiếp sang Pháp mất ba mấy nghìn tiền cước. Chị đang ngong ngóng chờ thư, trong khi anh Đăng vẫn lổm lổm chửi cái thằng Chiến môi giới đểu... ...Đến bây giờ, anh chị vẫn chưa hiểu: nếu chị không làm ẫm ĩ thì thư bị vứt đi đâu? Tại làm sao mà thư và cả ảnh của con chị lại bị người ta giữ rịt lấy một cách mờ ám như thế? Liệu có phải, trước đấy, có những tin gì về cháu mà họ ỉm đi vì có những chuyện lập lờ, lừa lọc mà chị không bao giờ được phép biết không...? (Đỗ Doãn Hoàng, Nước mắt của một người đàn bà bị ép " bán con", trong: Lạc lối dưới chân Bù Chồng Cha, Nxb. Thanh niên, 2003).
Ngôn ngữ nhân vật gián tiếp một mặt làm cho giọng điệu của tác phẩm phóng sự trở nên đa dạng, linh hoạt hơn; mặt khác, thể hiện vai trò tổ chức các thành tố nội dung của tác giả rõ nét hơn. Vì như chúng ta đều biết, nếu những bài phóng sự có quá nhiều ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thì chúng vừa khô cứng, đơn điệu (giống như diễn đàn để nhân vật làm công việc phát ngôn thuần tuý) lại vừa làm lu mờ dấu ấn sáng tạo của tác giả ( tác giả chỉ biết chép lại lời người khác).Bên cạnh đó, ngôn ngữ nhân vật gián tiếp còn tạo điều kiện cho tác giả bộ lộ thái độ, tình cảm của mình đối với sự việc, hiện tượng được nói tới một cách rõ ràng,công khai.
5. Sử dụng câu văn thuộc mọi kiểu loại, cấu trúc
Câu văn trong phóng sự rất đa dạng, phong phú chứ không đơn điệu, rập khuôn như trong một số thể loại khác. Chẳng hạn, nếu trong tin người ta chỉ gặp duy nhất một kiểu câu trần thuật thì trong phóng sự có mặt tất cả các kiểu câu chia theo mục đích phát ngôn: câu trần thuật, câu hỏi, câu cầu khiến và câu cảm thán. Ví dụ:
- “Họ có thể là dân Hà thành chính gốc hoặc dân ngoại tỉnh về Hà Nội học. Song đều có một điểm chung là hầu bao luôn đầy vì được gia đình là "đại gia" lắm tiền nhiều của chu cấp. (Minh Tiến, Khi quý tử phiêu linh, An ninh thế giới, 30/3/2005);
- “Theo quy định của liên bộ Tài chính - Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,kinh phí cho người tham gia giữ rừng là 1 người/ 500.000 đ/1000 ha rừng. Với mức chi như thế, làm sao có thể giữ được rừng trong điều kiện khó khăn này?” (Trần Minh Trường, Rừng U Minh Hạ: " Cuộc chiến nóng bỏng ", Sài Gòn giải phóng, 6/4/2005)
Bên cạnh đó, ngôn ngữ phóng sự còn sử dụng tất cả các cấu trúc, các mô hình câu đang tồn tại trong hoạt động giao tiếp. Ở đây không chỉ có câu đầy đủ thành phần nòng cốt mà còn có những câu đặc biệt, không chỉ có câu với trật tự thuận (chủ ngữ trước, vị ngữ sau) mà còn có câu với trật tự ngược (đảo ngữ), đặc biệt, ở đây còn hiện diện cả những câu bị tỉnh lược thành phần cũng như những câu có đề ngữ vốn rất ít gặp trong các thể loại khác. Ví dụ:
- "Đậu xuống vai ai vô tình nguyên hình một chiếc lá, nhưng là một chiếc lá chết, nó đã hoá thân vào lửa, đen đủi như một lời khẩn cầu, một lời kêu cứu của rừng về một thảm hoạ đang xảy ra!” (Hà Nguyên Huyền, Cháy rừng ở Than Uyên - Lai Châu, Văn nghệ trẻ,10/4/2005);
- "Đèn đỏ. Tôi dừng lại trước vạch sơn thì bỗng nghe thấy giọng thỏ thẻ ngay sát bên..." (Thái Minh Châu, SOS: Gái mại dâm di động, trong: Phóng sự Thái Minh Châu, Nxb. Lao động, 1999).
Chính sự đa dạng, phong phú vể kiểu câu, mô hình câu đã làm cho ngôn ngữ phóng sự rất khoáng đạt, uyển chuyển, linh hoạt, giúp người viết khám phá hiện thực một cách đa diện và sâu sắc. Như vậy, có thể khẳng định, ngôn ngữ phóng sự hết sức đa dạng và phong phú về hình thức thể hiện. Nói một cách hình ảnh, nó giống như một bức tranh rộng lớn, phức tạp về bố cục với muôn vàn các chi tiết và vô số những sắc màu. Và bài viết của chúng tôi trên đây, cũng như một số các bài viết đơn lẻ có liên quan của các nhà nghiên cứu khác, thực sự mới chỉ là những chấm phá bước đầu trên nền của bức tranh ấy. Hy vọng, trong một tương lại gần, về ngôn ngữ phóng sự sẽ xuất hiện những công trình có tầm vóc xứng đáng./.

Phát thanh hiện đại


VỀ NGÔN NGỮ BÁO PHÁT THANH


PGS. TS Hoàng Anh

I. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ PHÁT THANH
Ngôn ngữ báo phát thanh, lẽ đương nhiên, mang trong mình tất cả các tính chất của ngôn ngữ báo chí nói chung. Song, bên cạnh đó, nó còn có một số nét riêng biệt sau đây:
1. Ngôn ngữ phát thanh là ngôn ngữ nói (ngôn ngữ âm thanh)
Đây là một phẩm chất vô cùng quý giá, vì ngôn ngữ nói hướng tới thính giác - một hệ thống tri giác hoàn hảo nhất của con người. Theo các chuyên gia thì dung lượng thông tin mà con người chuyển tải hay tiếp nhận được nhờ thính giác và ngôn ngữ nói lớn gấp ba lần so với lượng thông tin mà anh ta chuyển tải hay tiếp nhận bằng con đường thị giác - đọc hoặc viết. Nguyên do là bởi ngôn ngữ nói, ngoài thông tin nằm trong ý nghĩa của ngôn từ, còn mang trong mình một thông tin bổ trợ đáng kể khác được thể hiện qua chất giọng, qua ngữ điệu, qua âm lượng. Nói là “bổ trợ” nhưng thực ra thông tin này có vai trò quan trọng không kém thông tin chính. Và trong không ít trường hợp, chính nó là nhân tố quyết định mức độ hiệu quả của việc tiếp nhận thông tin. Một bài viết trung bình nhưng do một người có chất giọng tốt và biết sử dụng ngữ điệu hợp lý, linh hoạt truyền đạt sẽ có sức tác động lớn hơn nhiều so với một bài viết hay nhưng do một người có chất giọng tồi và thường xuyên xử lý sai ngữ điệu trình bày. Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu ngôn ngữ phát thanh nổi tiếng người Mỹ W. Hofman đã nhận định: "Nội dung của từ ngữ làm người ta xúc động tới mức nào, thì âm thanh của tiếng nói cũng có thể làm người ta rung cảm tới chừng ấy”[1].
2. Ngôn ngữ phát thanh thiên về hình thức độc thoại tuy có sử dụng nhiều phương tiện của đối thoại
Có lẽ trước hết chúng ta nên tìm hiểu về hai khái niệm “độc thoại” và “đối thoại”.
"Độc thoại” là sản phẩm ngôn ngữ của một cá nhân trong hoàn cảnh giao tiếp chỉ có anh ta là người nói. Theo nhà ngôn ngữ học L. V.Serba ( Nga ) “đây là hệt hống có tổ chức cao của các ý tưởng được biểu đạt qua ngôn từ, nhằm tác động có chủ đích tới những người xung quanh”[2].
Còn “đối thoại” là một chuỗi những lời hồi đáp với tư cách là những phản ứng qua lại giữa ít nhất hai cá thể nào đó. Nhưng ở đây cần bổ sung ngay rằng những lời hồi đáp có dung lượng quá lớn (gồm nhiều câu và thể hiện trọn vẹn một chủ đề nào đó) cũng được xem là độc thoại. Điều này có nghĩa là độc thoại có thể tồn tại ngay trong đối thoại. Với cách hiểu như trên của ngôn ngữ học về "độc thoại" và "đối thoại", chúng ta thấy ngôn ngữ phát thanh có khuynh hướng độc thoại rất rõ nét. Phần lớn các thể loại của báo phát thanh như bình luận phóng sự, phản ánh, câu chuyện phóng viên, điểm tin, tiểu phẩm,… đều mang tính chất độc thoại. Rồi ngay cả một số ít thể loại vốn được coi là thuộc kiểu đối thoại như phỏng vấn, đàm thoại bàn tròn thực ra cũng không thuần chất chỉ là đối thoại. Bởi vì trong chúng có không ít những lời hồi đáp mang tính chất độc thoại. Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận là độc thoại trên báo phát thanh ngày càng dùng nhiều hơn các phương tiện của đối thoại.. Chẳng hạn, trước khi bắt đầu độc thoại về một vấn đề, sự kiện hay hiện tượng nào đó, người ta có thể xây dựng một tình huống đối thoại giữa hai người nhằm tạo sự sinh động để thu hút sự chú ý. Rồi trong quá trình độc thoại, người ta thường xuyên sử dụng các từ ngữ, cách diễn đạt,... đặc trưng cho ngôn ngữ đối thoại để người nghe thấy gần gũi, có cảm giác là nhà báo đang trò chuyện trực tiếp với mình, và do vậy, hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện của đối thoại chỉ là thủ pháp tăng cường giá trị biểu cảm cho ngôn từ chứ không thể làm thay đổi bản chất của độc thoại, khiến nó trở thành đối thoại.
3. Ngôn ngữ phát thanh luôn mang dấu ấn cá nhân rõ nét của người nói hay người đọc
Mức độ của nó tuỳ thuộc vào từng thể loại, từng tình huống giao tiếp cụ thể. Khi người truyền tin là phát thanh viên, dấu ấn cá nhân có vẻ như bị hạn chế tới mức thấp nhất, song người ta vẫn nhận thấy thái độ cảm xúc của anh ta đối với bài viết thông qua giọng điệu. Còn nếu như người truyền tin là tác giả bài viết (phóng viên, biên tập viên) thì dấu ấn cá nhân rõ nét hơn nhiều. Khảo cứu cho thấy, lời nói của những người chưa từng qua các khoá đào tạo đặc biệt về đọc, nói, luyện giọng (tức là họ không phải là phát thanh viên hay nhà hùng biện chuyên nghiệp) thường là công cụ biểu đạt hết sức tinh tế trạng thái tâm lý đích thực cũng như nhiều đặc điểm của người phát ngôn. Có lẽ đây là lý do khiến cho nhiều đài phát thanh trên thế giới thường xuyên yêu cầu các chủ thể sáng tạo trình bày ngay chính tác phẩm của họ trước micrô. Bởi điều này tạo điều kiện cho thính giả giải toả được nhu cầu: khám phá một cá thể mới với những nét riêng tư trong đời sống nội tâm của anh ta. Đây là một nhu cầu hết sức tự nhiên và nhân bản, nó luôn mang tính cấp thiết trong bất cứ thời đại nào, đúng như Hecxen viết: “Con người luôn muốn xâm nhập vào cá thể khác, muốn chạm tới từng thớ mạch li ti của trái tim người khác để lắng nghe nhịp đập của nó. Anh ta so sánh, kiểm chứng, tìm kiếm sự khẳng định, sự đồng cảm, sự biện hộ"[3].
4. Ngôn ngữ phát thanh không có khả năng được minh hoạ bằng hình ảnh.
Đây là mặt khác biệt, đồng thời cũng là mặt hạn chế của nó so với truyền hình và báo in. Tuy nhiên, ngôn ngữ phát thanh đã tìm thấy sự minh hoạ cho mình ở các nguồn khác cũng nằm trong chính thế giới của âm thanh. Đó là các băng ghi âm tư liệu, là tiếng động, là âm nhạc, và đặc biệt là các đặc tính vật chất và hình tượng của ngôn từ cất thành tiếng. Có thể nói, nhà báo phát thanh phải vẽ nên hình ảnh bằng âm thanh. Thực tế cho thấy là các tác phẩm báo phát thanh hay, có sức tác động lớn bao giờ cũng có ngôn ngữ hết sức sống động, giàu hình ảnh, có tính trực quan cao, chắp cánh cho sự tưởng tượng của người nghe, khiến cho họ có cảm giác đang được chứng kiến sự việc xảy ra ngay trước mặt mình; bên cạnh đó, nó còn phải được trình bày bởi một chất giọng tốt, lên bổng xuống trầm, tăng giảm tốc độ âm thanh một cách hợp lý. Hiện nay, đang có nhiều ý kiến cho rằng hạn chế về phương diện hình ảnh của báo phát thanh rất có thể lại trở thành ưu thế của nó, vấn đề là sử dụng ngôn ngữ âm thanh như thế nào. Quả vậy, nếu biết sử dụng ngôn từ khéo léo và linh hoạt, nhà báo phát thanh có khă năng kích thích tư duy sáng tạo của người nghe, làm cho họ luôn đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận thông tin. Trong khi đó thì ở truyền hình, do được cung cấp quá đầy đủ thông tin ở cả hai bình diện hình ảnh lẫn ngôn từ, khán giả ít phải tư duy hơn nên dần dần trở nên thụ động mỗi khi tham gia vào kênh giao tiếp này.
5. Ngôn ngữ phát thanh, cũng như ngôn ngữ truyền hình, có tính hình tuyến
Các tín hiệu của ngôn ngữ phát thanh xuất hiện lần lượt, cái này tiếp theo sau cái kia, tạo thành dòng chảy liên tục, theo bề rộng một chiều của thời gian. Và người nghe phải tiếp nhận chúng một cách tức thời cho nên họ không có khả năng quay lại với điều chưa hiểu hoặc đầu tư thời gian để nghiền ngẫm thấu đáo điều đã lĩnh hội được. Chính vì thế, bất cứ sai sót nào (hay chỉ đơn giản là sự chưa quen tai) của ngôn ngữ phát thanh cũng khiến cho thính giả phải dừng lại để suy nghĩ, tìm hiểu và có nghĩa là không còn tập trung tư tưởng để nghe các thông tin kế tiếpnữa. Kết quả là cái thì được hiểu mơ hồ, cái thì bị bỏ qua. Và như vậy thì tính hiệu quả của chương trình bị giảm sút đáng kể. Xuất phát từ đây, yêu cầu đặt ra đối vớingôn ngữ phát thanh là: Chính xác, đơn nghĩa, rõ ràng, dễ hiểu. Nói đến tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ, không thể không nói đến quan hệ ngữ đoạn như là hệ quả của nó. Theo quan hệ này, các đơn vị ngôn ngữ khi đứng cạnh nhau sẽ quy định lẫn nhau và cho ta những kết hợp gọi là ngữ đoạn. Trong ngôn ngữ phát thanh, biểu hiện nổi bật nhất của quan hệ ngữ đoạn là việc ngắt đoạn khi nói, khi đọc. Do đó, đây là điều cần được các nhà báo phát thanh đặc biệt quan tâm. Cùng một sản phẩm ngôn từ, nếu được ngắt đoạn ở những chỗ khác nhau, sẽ biểu đạt các ý nghĩa khác nhau. Còn nếu ngắt đoạn sai thì tính chỉnh thể về mặt kết cấu của sản phẩm ngôn từ đó bị phá vỡ, hậu quả là người nghe khó hiểu được đúng nội dung của nó.
II. MỘT SỐ GỢI Ý SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRONG PHÁT THANH
1. Nên hạn chế sử dụng từ ngữ địa phương
Những từ ngữ này, ở mức độ nào đó, có khả năng tăng cường tính biểu cảm của ngôn ngữ phát thanh. Thế nhưng, về phạm vi hành chức, chúng chỉ gắn liền với một địa phương nhất định nào đó nên có thể gây khó khăn cho các thính giả là người sống ở các khu vực khác.
2. Tránh lạm dụng việc vay mượn từ ngữ từ tiếng nước ngoài
Nếu nhất thiết phải vay mượn thì chỉ nên chọn những từ ngữ có tính phổ cập rộng rãi, và cố gắng phát âm chuẩn xác theo chuẩn mực đã được thừa nhận. Vì không ít trường hợp cho thấy, những từ ngữ được vay mượn từ tiếng nước ngoài, nếu không thông dụng hoặc được phát âm không đúng, thường trở thành những “hạt sạn” cản trở người nghe tiếp nhận thông tin.
3. Đối với các thuật ngữ chuyên ngành ít gặp hay mới mẻ, nên diễn đạt bằng cách khác sao cho quảng đại quần chúng dễ hiểu
 Đừng bao giờ bắt chước cách nói, cách dùng từ của các nhà chuyên môn mà chỉ có người trong giới mới hiểu được.
4. Tránh đưa ra quá nhiều con số trong một văn bản phát thanh
 Việc đưa ra các con số nên có liều lượng vừa phải, nếu không người nghe sẽ thấy choáng ngợp, căng thẳng, không còn đủ sự tỉnh táo cũng như hứng thú để nghe và lĩnh hội các thông tin khác; bên cạnh đó, các con số cũng cần được làm tròn cho dễ nhớ.
5. Cố gắng đọc hoặc nói trước micrô thật diễn cảm (tất nhiên là ở mức độ mà khả năng cho phép)
Qua giọng điệu phải thật sự “thả hồn” của mình vào nội dung tác phẩm thì nó mới có sức tác động lớn đối với người nghe. Còn kiểu nói hay đọc với âm điệu đều đều, đơn điệu, tẻ nhạt dễ gây cảm giác là chính người chuyển tải thông tin cũng "vô cảm” trước những gì mình đang trình bày. Và điều đó dễ dàng giết chết mọi cảm xúc cũng như sự quan tâm của người nghe.
6. Cần tránh những câu văn có thể tạo nên nhiều cách hiểu
Vì sự "mơ hồ” về nghĩa như vậy của chúng dễ làm cho người nghe bị phân tán tư tưởng hoặc hiểu sai, hiểu lệch chủ ý của tác giả.
7. Cần hết sức kiệm lời
Trong báo phát thanh, người nghe, do phải lĩnh hội thông tin một cách tức thời, chỉ có thể tập trung sự chú ý của mình trong một khoảng thời gian ngắn. Vì lẽ đó, trong số các cách diễn đạt có thể với cùng một nội dung, nên chọn cách diễn đạt ngắn gọn nhất mà vẫn chuyển tải được đầy đủ lượng thông tin cần thiết.
8. Nên chú ý khai thác các biện pháp tu từ ngữ âm để ngôn ngữ phát thanh sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa sâu sắc hơn
Nhà báo phát thanh có thể vận dụng những biện pháp cơ bản dưới đây:
a. Biện pháp hoà phối thanh điệu: Là biện pháp lựa chọn và kết hợp các yếu tố âm thanh sao cho hài hoà để các câu văn trở nên dễ nghe, dễ đọc hơn. Trong văn xuôi, để tạo sự hài hoà về thanh điệu, người ta thường sử dụng sự luân phiên thanh điệu thuộc hai nhóm bằng (gồm thanh huyền và thanh ngang) và trắc (gồm thanh hỏi, thanh ngã, thanh sắc và thanh nặng) ở âm tiết của các câu hợp thành phần câu.
Biện pháp hoà phối thanh điệu có tính phổ cập hết sức rộng rãi. Hầu hết các biện pháp tu từ ngữ âm khác, khi được vận dụng, đều phải ở mức độ này hay mức độ khác, kết hợp với nó.
b. Biện pháp lặp số lượng âm tiết: Là biện pháp sử dụng các câu văn có số lượng âm tiết như nhau ở cạnh nhau để tạo nên âm hưởng của thơ ca.
d. Biện pháp tạo nhịp điệu: Là biện pháp dùng những hình thức cân đối, nhịpnhàng của lời văn nhằm tạo nên một âm hưởng lôi cuốn, dễ đi vào lòng người. Dưới đây là một số trường hợp diển hình về nhịp điệu: - Dùng những từ phản nghĩa đối nhau.
Vận dụng sự cân đối, nhịp nhàng, khúc chiết của các bộ phận trong một câu ghép (thường được gọi là trường cú). Trong câu văn, về mặt tiết tấu, ngữ điệu có sự chia tách rõ rệt giữa hai bộ phận: Giọng nói được nâng cao dần ở bộ phận thứ nhất của câu, tạo ra một sự căng thẳng chờ đợi. Sau khi đã lên cao đến đỉnh điểm thì đánh dấu bằng một nhịp ngừng ngắt, tiếp theo đó hạ thấp rõ rệt ở bộ phận thứ hai, làm dịu đi sự căng thẳng chờ đợi.
f. Biện pháp tạo âm hưởng chung: Là biện pháp phối hợp âm thanh, nhịp điệu của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân đối nhịp nhàng, êm ái, du dương, mà cao hơn thế, phải tạo ra được một âm hưởng hoà quyện với nội dung hình tượng của cả đoạn văn, thậm chí toàn văn bản.
Thực tế cho thấy, các biện pháp tu từ ngữ âm nói trên hầu như không bao giờ xuất hiện đơn lẻ: Mỗi biện pháp thường chỉ xuất hiện đồng thời với các biện pháp khác. Chính vì vậy, chúng thường mang sức mạnh được cộng hưởng làm cho câu văn vừa trở nên gợi cảm về mặt âm thanh, vừa được bổ sung thêm những khía cạnh nhất định về mặt ý nghĩa./.


[1] W. Hoffman, Nghệ thuật hùng biện trên sóng phát thanh, L., 1965, tr. 69 (bằng tiếng Nga )
[2] L. V. Serba, Tiếng Nga văn học hiện đại, M., 1978, tr. 9 (bằng tiếng Nga)
[3] Sách đã dấn như trên.

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

"Phong cách là người" (2)

Sorry....
BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NGHỆ THUẬT “TÁN GÁI”

1. DƯƠNG ĐÔNG KÍCH TÂY (ĐÁNH LẠC HƯỚNG ĐỐI PHƯƠNG):
Tức là giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tây. Kế này mờ ảo vô song. Hẳn các bác trai cũng hiểu rằng phụ nữ là một sinh vật xinh đẹp nhưng lại vô cùng phức tạp – phức tạp từ tâm lý, tính cách, đến suy nghĩ, hành động, nói chung là rất khó đoán. Chính vì vậy ta phải lấy độc trị độc, phải nhằm ngay vào yếu huyệt này – cái gót chân Asin của nàng – để làm cho nàng mê ta.
Có nhiều cách để thực hiện kế này, như:
- Tạo tin đồn: Ta dẫu có “tài đức” đến mấy thì nàng cũng ít tin vào hiện thực trước mắt hơn là nghe đám bạn gái đồn đại (phụ nữ lạ thật), chính vì thế ta phải tạo tin đồn có lợi cho ta.
- Làm rối tai rối mắt địch: Dĩ nhiên là ta mê nàng, nhưng đôi khi ta phải làm sao cho nàng không biết được tình ý của ta. Ta vừa tỏ ra rất quan tâm và ga lăng với nàng khiến nàng vô cùng cảm động và ngưỡng mộ, rồi có khi ta sắm bộ mặt thật lạnh lùng, dứt khoát, làm nàng băn khoăn nghĩ ngợi về ta. Lâu dần nàng sẽ sinh thương thầm nhớ trộm.
- Buộc đối phương lo nhiều mặt: Cổ nhân dạy: “Theo tình tình chạy, chạy tình tình theo”, thế nên đôi khi ta phải khuấy động lên trong nàng cái ý thức lo lắng chinh phục được ta, phải làm sao để nàng thấy được rằng mất ta là mất một con cá to.
- Mê hoặc ý chí của địch. Cổ nhân dạy: “Con trai yêu bằng mắt, con gái yêu bằng tai”. Chính thế đã mang thân đi tán gái thì phải thủ vài lời hoa mỹ. Nhưng do con gái thời nay tinh thần cảnh giác cao, trí tuệ siêu phàm nên anh em phải để ý: khen sao cho chân thành, tìm cho đúng điểm tốt đẹp của nàng mà khen, thậm chí phải biến cái xấu thành cái tốt một cách hợp lý. Ví dụ nàng đanh đá mà ta lại khen là dịu dàng thì vứt, nàng sẽ nghĩ ta giả dối và đãi bôi. Trong trường hợp này ta phải sửa lại là “sắc sảo và cá tính”, nàng lại chả thích mê đi. Cứ thế từ từ mưa dầm thấm đất, nàng dẫu sắt đá thì ý chí cũng dần lung lạc.
2. ĐIỆU HỔ LY SƠN (DỤ HỔ RA KHỎI RỪNG).
Kế này cực kỳ quan trọng trong thuật tán gái. Hẳn các bác trai cũng biết rằng tán gái ở giai đoạn nào cũng phải có không gian phù hợp, ví dụ làm sao ta có thể hôn nàng trước mặt ông bà nhạc tương lai được . Chính vì thế phải dụ hổ khỏi rừng, khi ấy muốn ôm hổ hay thỏ thẻ với hổ thì cũng chẳng sợ kiểm lâm nữa.
3. NHẤT TIỄN HẠ SONG ĐIÊU (MỘT MŨI TÊN HẠ HAI CON CHIM).
Làm trai nên biết: tán gái chỉ mới là điều kiện cần, phải tán cả nhà gái nữa mới là điều kiện đủ. Phàm là cha mẹ ai không muốn con gái mình lọt vào tay một thằng ngon lành? Mà con gái thì lại hay nể cha mẹ. “Hậu phương có vững vàng thì tiền tuyến mới không dao động” là vậy. Có một câu chuyện vui về kế này: Một bà mẹ hỏi chàng rể tương lai: “Nếu bác và con gái bác rớt xuống sông nhưng chỉ cứu được một người thì cháu sẽ cứu ai?” Anh chàng láu cá không do dự trả lời: “Cháu sẽ cứu bác sau đó nhảy xuống sông chết cùng con gái bác để trọn tình.”
Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt được hiệu quả tối đa.
4. MINH TRI CỐ MUỘI (BIẾT RÕ MÀ LÀM NHƯ KHÔNG BIẾT).
Không phải chuyện gì ta biết cũng đều nói cho nàng nghe cả. Có những chuyện ta biết mà làm ra vẻ không biết gì để kiểm tra tấm lòng chân thành và trung thực của nàng đối với ta.
5. DU LONG CHUYỂN PHƯỢNG (BIẾN RỒNG THÀNH PHƯỢNG).
Kế này nghĩa là bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng. Ví dụ nếu hôm nay ta đi nhậu về chưa kịp tắm, miệng đầy mùi bia rượu mà phải đến điểm hẹn ngay kẻo nàng dỗi thì có thể ngụy trang bằng nước hoa hay kẹo cao su....
6. MỸ NHÂN KẾ (KẾ DÙNG NGƯỜI ĐẸP).
Do kế này được áp dụng trong thuật tán gái nên phải hiểu đây là “nam nhân” chứ không phải là “nữ nhân”. Con gái thời nay nhiều ưu điểm nên cũng đòi hỏi cao, không phải chỉ có chí khí anh hùng mà làm xiêu lòng nàng được. Vì thế đàn ông cũng phải biết làm đẹp, nhưng là đẹp nam tính để cho nàng sung sướng và hãnh diện. Tiền đầy túi mà người vừa hôi vừa bẩn, lôi thôi lếch thếch thì làm sao xin được cái hôn của người đẹp?
7. SẤN HỎA ĐẢ KIẾP (THEO LỬA MÀ HÀNH ĐỘNG).
Kế này là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn. Chẳng hạn như tranh thủ nàng gặp chuyện buồn thì ta phải nhân đó mà thể hiện hết cái tình của ta, đưa nàng đi theo quỹ đạo của ta, làm cho tình cảm của nàng phụ thuộc vào ta . Đặc điểm của kế này là phải biết tùy cơ ứng biến.
8. VÔ TRUNG SINH HỮU (KHÔNG CÓ MÀ LÀM THÀNH CÓ).
Cổ nhân nói: “Thời thế tạo anh hùng”, quả đúng như vậy. Nếu thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Nhưng phàm ở đời đâu phải lúc nào cũng diễn ra cảnh cô bé đi học về trong đêm tối bị bọn lang sói bâu quanh để ta ra tay hiệp sĩ như trên phim ? Chính thế ta phải tạo ra thời cơ để tỏ rõ bản lĩnh của ta. Ví như ta giỏi IT thì phải chờ lúc nàng sơ ý mà chọc ngoáy cho máy tính của nàng hỏng đi, thế là nàng phải nhờ ta. Lúc đấy ta sẽ xuất chưởng và được nàng thưởng cho cái nhìn khâm phục. Nếu ta bơi giỏi thì phải nhờ đứa nào đó chen lấn đẩy nàng rơi xuống nước rồi ta nhảy xuống cứu... Kế này phải thực hiện cực kỳ cẩn trọng và chính xác đấy nhé, nếu không thì hậu quả sẽ khôn lường.
9. TIÊN PHÁT CHẾ NHÂN (RA TAY TRƯỚC ĐỂ CHẾ PHỤC ĐỐI PHƯƠNG).
Phàm ở đời làm gì cũng phải tính chuyện đi trước người khác một bước. Nếu nàng có nhiều vệ tinh theo đuổi, ta lại do dự chần chừ thì há chẳng phải là “mồi thơm dâng giặc” hay sao? Chính vì thế phải đánh nhanh thắng nhanh, ra tay trước những bọn tình địch kia để thu phục đối phương .
10. ĐẢ THẢO KINH XÀ (ĐẬP CỎ LÀM CHO RẮN SỢ)
Phụ nữ thường hay có những phút xao lòng, nhất là khi có rất nhiều vệ tinh rình rập ở quanh. Ta có thể bóng gió xa xôi, cốt là để nàng hiểu trên đời này ta phải là người đàn ông duy nhất của nàng.
11. TÁ ĐAO SÁT NHÂN (MƯỢN ĐAO ĐỂ GIẾT NGƯỜI).
Nếu tán được cô nàng xinh xắn, duyên dáng, thông minh thì dĩ nhiên phải chấp nhận thực tế là nàng có nhiều người theo đuổi. Thay vì nhỏ mọn ghen tuông vớ vẩn thì ta phải tỏ ra là người quân tử, nhưng phải làm sao để mấy tên tình địch kia triệt hạ lẫn nhau, còn ta chỉ “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”, rốt cuộc trong mắt nàng lũ chúng nó đều xấu cả, chỉ mình ta là “anh đẹp dần lên trong mắt em”.
Nhớ lại chuyện thời Tam Quốc, Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại làm cái việc mèo già khóc chuột, thật là một tay thông minh, gian hùng.
12. DI THỂ GIÁ HỌA (DÙNG VẬT GÌ ĐỂ VU KHỐNG NGƯỜI TA).
Kế này là vu oan cho tấm lòng trong sáng của người ta, khiến người ta phải ấm ức, sầu đau, tuyệt vọng, rồi khi ấy ta sẽ tỏ ra là một bậc chính nhân quân tử, an ủi vỗ về và lau nước mắt cho nàng.
13. KHÍCH TƯỚNG KẾ (KẾ CHỌC GIẬN TƯỚNG GIẶC).
Phụ nữ vốn tính hiếu thắng, có khi không rung động trước sự đeo bám 10 năm của một anh chàng nhưng lại mê mẩn một chàng khác trong năm phút chỉ vì sự khiêu khích của bạn bè. Vì thế đôi khi ta có thể cao ngạo lạnh lùng để chạm vào sự tự ái của nàng, rồi gài gián điệp thách thức nàng, tạo cho nàng cơ hội hả hê là đã chinh phục được ta, mà không hề hay biết là đã mắc lừa mưu gian của ta.
14. MAN THIÊN QUÁ HẢI (LỢI DỤNG SƯƠNG MÙ ĐỂ LẨN TRỐN).
Kế này có thể hiểu rộng ra là lợi dụng thiên nhiên, thời tiết để phục vụ mục đích của mình. Ví dụ đi chơi thì phải đưa nàng ra bờ hồ lộng gió để nàng lạnh, thế là ta … ôm . Hay trời mưa bất chợt thì phải biết tìm chỗ kín đáo cho nàng đứng, còn ta thì đứng ngoài lấy thân trai che mưa cho nàng.
15. ÁM ĐỘ TRẦN SƯƠNG (ĐI CON ĐƯỜNG MÀ KHÔNG AI NGHĨ ĐẾN).
Trí tưởng tượng của phụ nữ thường bị kích thích vì những cách tỏ tình độc đáo, không ai nghĩ ra. Vì thế thấy phim người ta chiếu anh chàng cầm bông hồng run rẩy đứng dưới mưa chờ người yêu mà cũng học đòi làm theo thì nhầm to. Cái sự độc đáo ấy đôi khi rất đơn giản, miễn là phải bất ngờ và khác lạ.
16. PHẢN KHÁCH VI CHỦ (ĐỔI VỊ KHÁCH THÀNH VỊ CHỦ).
Kế này tức là ta phải biến thế thụ động thành chủ động để khống chế cục diện. Chẳng hạn chỉ mới đi chơi với nàng một hai buổi đầu mà đã nóng nảy hôn nàng thì cũng nên chuẩn bị tinh thần có thể phải xơi một cái tát . Biết thế nhưng nhiều khi vẫn phải làm (ôi giời, ngày xưa bị bố đánh đòn còn chiến hơn mà vẫn chịu được thì có nhằm nhò gì cái đánh của mỹ nhân), cốt là để nàng có cớ mà phụng phịu, đưa đẩy, còn ta có cớ mà lấn lướt. Phụ nữ thật lạ, đi chơi với nàng nếu chân tay ta táy máy thì lập tức bị đẩy ra ngay, nhưng nếu ta không làm thế mà lại ngồi cứng đờ như khúc gỗ thì tức là ta đang xúc phạm sâu sắc đến lòng kiêu hãnh của nàng đấy . Vì thế làm trai nên nhớ: khi địch lùi một bước thì ta tiến một bước, khi địch lùi đến chân tường rồi thì ta phải lập tức ôm lấy để địch không còn nơi nào nương tựa ngoài vòng tay của ta.
17. KIM THIỀN THOÁT XÁC (VE SẦU VÀNG LỘT XÁC).
Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương. Ví dụ như ta đang uống bia cùng lũ bạn cũ, nhưng lại bảo nàng là tối nay anh phải làm việc ngoài giờ không đến em được. Nhỡ nàng bất thình lình cùng gia đình đi ăn tối mà gặp ta ở nhà hàng thì phải bàn bạc với chúng bạn chớp nhoáng và lập tức chủ động đến dẫn nàng tới giới thiệu với các “đối tác kinh doanh”.
18. KHÔNG THÀNH KẾ (KẾ BỎ TRỐNG CỬA THÀNH).
Ấy là khi ta vờ xây dựng quan hệ bạn bè với nàng, để nàng thong dong bước vào đời ta một cách vô tư, trong sáng, rồi khi thời cơ đã chín muồi ta tập hợp lực lượng và mưu chước để nàng không thể thoát khỏi cuộc đời ta.
19. CẦM TẶC CẦM VƯƠNG (DẸP GIẶC PHẢI BẮT TƯỚNG GIẶC).
iặc ở đây là một đội ngũ gồm những người thân xung quanh nàng và nàng là tướng. Đương nhiên nhân vật trung tâm là nàng rồi. Khi ta đã chiếm lĩnh trọn trái tim của nàng thì những cản trở khác có ăn thua gì. Các kế khác suy cho cùng cũng để phục vụ kế này.
20. BAN CHƯ NGẬT HỔ (GIẢ LÀM CON HEO ĐỂ ĂN THỊT CON HỔ).
Lão Tử nói: “Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về” là vậy. Ấy là có những lúc ta tỏ ra ngờ nghệch để nàng không cảnh giác, chẳng qua cũng chỉ là “ru ngủ quân thù” , thế rồi chờ thời cơ chín muồi ta mới giáng đòn sấm sét, tấn công chớp nhoáng khiến nàng không thể không nặng tình với ta, không những thế ta còn tiến lên để chi phối cuộc đời nàng.
21. QUÁ KIỀU TRỪU BẢN (QUA CẦU RỒI PHÁ CẦU).
Kế này có thể thêm một chút là khi tán nàng được rồi thì lập tức thiết quân luật, cắt mọi đường tiếp giáp để những gã trai rập rình không có cơ hội ăn trộm trái tim của nàng. Tất nhiên là kế này phải được thực hiện kín đáo, tế nhị không thì nàng sẽ nghĩ là ta độc đoán.
22. LIÊN HOÀN KẾ (KẾ MÓC NỐI NHAU).
Kế này cũng thêm một chút, là ta có thể câu kết với những thành phần có sức ảnh hưởng lớn đến nàng để chinh phục trái tim của nàng, ví dụ: người thân, bạn bè, đồng nghiệp, mà nếu bạn đang ở phương Tây thì có khi chỉ cần mua chuộc chú chó cưng là cũng đủ kiếm điểm trong mắt nàng rồi đấy.
23. DĨ DẬT ĐÃI LAO (LẤY KHỎE ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI MỆT).
Ấy là có những lúc tán gái ta vẫn phải lên kế hoạch chi tiết, có đầy đủ ngân sách dự phòng và thời hạn kết thúc… Khi đó ta có thể thong thả chờ cá cắn câu, không nhất thiết phải hấp tấp, nóng nảy mà làm hỏng việc lớn. Cái chính là ta phải nắm được “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để ra đòn quyết định. Nếu thời cơ chưa chín thì phải kiên nhẫn chờ đợi.
24. CHỈ TANG MẠ HÒE (CHỈ VÀO GỐC DÂU MÀ MẮNG CÂY HÒE).
Kế này là không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ. Đôi khi nàng cũng có những điểm sai trái và ta phải “nghiêm khắc dạy dỗ” , tuy nhiên, để không tỏ ra gia trưởng, và để nàng không khóc thì ta phải mắng sao cho khéo, khiến nàng thương ta, nể ta, phục ta và nghe lời ta.
25. LẠC TỈNH HẠ THẠCH (NÉM ĐÁ VÀO NGƯỜI DƯỚI GIẾNG).
Tôn Tử nói: “Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng – Mạnh thì đây là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt.” Lại nhớ chuyện Lã Bố bị bắt, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” Thế là Bố chết. Áp dụng chuyện xưa cho chuyện nay, nếu nàng có kể chuyện về một thằng tình địch nào đó thì phải khéo léo mà ném đá để nàng tự xử lý nó thôi.
26. HƯ TRƯƠNG THANH THẾ (THỔI PHỒNG THANH THẾ).
Kế này là để cho người ta lóa mắt, nể sợ, đặc biệt hữu hiệu vào lúc mới bắt đầu tán gái. Tất cả những ưu điểm mà ta có được phải thể hiện cho nàng biết (dù là trực tiếp hay gián tiếp), thậm chí ưu điểm nhỏ ta phải làm cho nó to ra. Ngày nay kế này được gắn những mỹ từ như “lăng xê”, “quảng cáo”…
27. PHỦ ĐỂ TRỪU TÂN (BỚT LỬA DƯỚI NỒI).
Có những lúc phải lùi một bước để tiến ba bước, ví dụ như nàng đang bừng bừng tức giận thì khoan hãy cãi lý với nàng, mà dỗ dành cho nàng hạ nhiệt . Đợi đến khi nàng dịu dàng như một con thỏ non ta sẽ đem chuyện đó ra châm chọc một cách hài hước để nàng thích chí và nể phục cái khiếu ăn nói của ta.
28. SÁT KÊ HÁCH HẦU (GIẾT GÀ CHO KHỈ SỢ).
Tán gái thành công chưa đủ, mà phải biết giữ cho tình yêu của nàng bền chặt với ta. Khổ nỗi cuộc sống nhiều cám dỗ, vì vậy thỉnh thoảng ta phải kể những trường hợp bên ngoài (đôi khi bịa ra là của một thằng bạn nào đó) hoặc đọc được trên báo chí để thăm dò thái độ và nâng cao ý thức chung thủy của nàng. Phải luôn làm cho nàng quán triệt tư tưởng rằng phản bội là đồng nghĩa với “đường ai nấy đi”, sẽ không có sự tha thứ.
29. PHẢN GIÁN KẾ (DÙNG KẾ CỦA ĐỐI PHƯƠNG ĐỂ QUẬT LẠI).
"Phản gián kế" là dùng người của đối phương để lừa đối phương. Ví dụ như trong thời gian còn thăm dò mà nàng phái thằng em đi tìm hiểu ta thì ta phải tận dụng ngay thằng này để nó làm nịnh thần cho ta.
30. LÝ ĐẠI ĐÀO CƯƠNG (ĐƯA CÂY LÝ CHẾT THAY CÂY ĐÀO).
Nghĩa là nếu ta có lỗi với nàng thì phải tìm cách đổ lỗi cho đối tượng khác, mà đối tượng hay nhất là những “nguyên nhân khách quan” để không bị mang tiếng ác.
31. THUẬN THỦ KHIÊN DƯƠNG (THUẬN TAY DẮT CON DÊ VỀ).
Kế này nghĩa là phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt (vụ này phải thật linh hoạt mới được). Ví dụ như đi chơi mà nàng không may bị dẫm vào vũng nước bẩn, đừng đứng đờ ra đó mà hãy mua ngay chai La Vie cho nàng rửa chân và tìm khăn lau cho nàng.
32. DỤC CẦM CỐ TUNG (MUỐN BẮT MÀ LẠI THẢ RA).
Có những lúc ta không nên tấn công ráo riết mà tránh xa ra, thực hiện những hành động cốt để thu phục lòng người, giữ người. Từ đó mà nàng tự tìm đến với ta.
33. KHỔ NHỤC KẾ (HÀNH HẠ THÂN XÁC MÌNH ĐỂ NGƯỜI TA TIN).
Có khi ta phải hành hạ cho mình ốm mấy ngày, hoặc giả vờ ốm, rồi đem cái thân xác khổ sở ấy mà mua chuộc tình thương mến thương của nàng, khiến nàng xót xa và chăm sóc cho ta.
34. PHAO BÁC DẪN NGỌC (NÉM HÒN NGÓI ĐỂ THU VỀ HÒN NGỌC).
a phải ga lăng với nàng, phải xem những ngày sinh nhật, valentine, 8-3… là dịp trời cho để thể hiện tình cảm sâu đậm của ta đối với nàng . Ngay cả khi không có lễ gì vẫn có thể kiếm chuyện để tặng quà cho nàng. Mất mấy món quà mà có cơ hội chinh phục được cả một người vợ, thử hỏi cái nào quý hơn?
35. TÁ THI HOÀN HỒN (MƯỢN XÁC ĐỂ HỒN VỀ).
Kế này là sau khi thất bại trong một cuộc tình, ta tìm đến cuộc tình khác (mượn xác) để lấy lại niềm vui (hồn về). Tuy nhiên, kế này có nguy cơ rủi ro cao là trong lúc tinh thần bất ổn, nếu không tinh ý thì có thể rước nhầm “xác chết”.
36. TẨU KẾ (CHẠY, LÙI, THOÁT THÂN).
Nếu sau khi tán xong một cô nàng ta mới té ngửa ra là nàng xấu xa đầy mình, không thể cải tạo, khi ấy chắc chả còn cách nào khác ngoài “bỏ của chạy lấy người”, it’s time to say good-bye! (Hy vọng các bác không phải áp dụng cách này)
Chúc các bạn tìm được người trong mộng của mình. Thanks


Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí (1)


CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách chức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng “phong cách là những khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu"[1], người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục khác nhau, để khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa học, phong cách hành chính - công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách chính luận.
Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí? Các nhà nghiên cứu đã có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí (như tính chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đây phần lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện mạo của cả một phong cách ngôn ngữ trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác.
Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách báo chí bao gồm:
1. Chức năng thông báo,
2. Chức năng hướng dẫn dư luận,
3.Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng,
4. Tính chiến đấu mạnh mẽ,
5. Tính thẩm mỹ và giáo dục,
6. Tính hấp dẫn và thuyết phục,
7. Tính ngắn gọn và biểu cảm,
8. Đặc điểm về cách dùng từ ngữ  (gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các khuôn biểu cảm ).
Dễ dàng nhận thấy là Hữu Đạt không có sự phân định rõ ràng giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không đồng loại, chỉ có các đặc điểm thứ sáu và thứ bảy là có vẻ xác đáng hơn cả. Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt cho thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất phát từ góc độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức năng chứ không phải bất cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu đạt có tính đặc thù của từng loại hình sáng tạo. Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập các sự kiện. Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, theo chúng tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện. Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí một loạt các tính chất cụ thể như:
1. Tính chính xác:
Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra những gây hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang thăm Trung Quốc, một nhà báo đã viết một bài phóng sự, trong đó có câu: “Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai nước Việt - Trung". Rõ ràng, từ “với” ở đây là không thể chấp nhận được (vì cụm từ “chia tay với...” biểu đạt ý nghĩa “từ bỏ, từ giã”), cần phải thay nó bằng từ “trong”. Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất 2 yêu cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ pháp; có vốn từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau dồi; thành thạo về ngữ âm; hiểu biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực và nguyên dạng để phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này có quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngôn ngữ có thể “kêu” nhưng rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ đối với độc giả. Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn từ thì cũng không thể chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đôi khi còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo chí đông tới mức không xác định được và họ (nhất là trẻ em) lại luôn xem các cơ quan báo chí là “ngọn đèn chỉ dẫn” trong việc dùng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
2. Tính cụ thể:
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình. Đoạn trích sau đây trong phóng sự “Hai giờ dưới lòng đất” của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân là một minh chứng:
“...Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi như hầm địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ mọ đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng còn va đầu vào đá. Tôi nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ còn mình tôi thôi sao? Tống, Lực đâu rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bò. Có tiếng nước róc rách.Đường lò ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu một cái dốc. “Bám vào, ngửa người ra, tụt xuống!”. Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra hai anh vẫn đi sát tôi, như có vẻ cố tình thử thách nhau một tý “cho nhà báo có thêm thực tế”. Thấy tôi thở phì phò, thợ lò bảo: “Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất mỏ Mông Dương đấy!”. Dễ nhất! tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài xe goòng than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang…”.
Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nhờ sự miêu tả một loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn trên, độc giả thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả dưới lòng đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông sâu sắc với nỗi cực nhọc trong công việc của những người thợ lò.
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định; với những con người cũng xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như "một người nào đó”, "ở một nơi nào đó", "vào khoảng", "hình như",...
3. Tính đại chúng:
 Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội, không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nhận thông tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G. Kostomarov: “Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt cũng không thấy khó hiểu[2]. Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng hạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài.
4. Tính ngắn gọn:
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho người viết, vì anh ta sẽ không đáp ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đọc (người nghe) vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta luôn cố gắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt. Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ (thực tế khảo sát của chúng tôi cho thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác phẩm báo chí có liên quan tới việc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ mà quên mất các thành phần chính của câu). Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov có lẽ chính xác hơn cả với phong cách ngôn ngữ báo chí: "Ngắn gọn là chị của thành công
5. Tính định lượng:
 Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép vè không gian và thời gian. Hiện tại, không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi viết bài không được phép vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài “không đặt trước” biên tập viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay trong số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có không ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối tượng dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thông qua việc viết một hay một số văn bản với độ dài cho sẵn. Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng thích nghi với mọi điều kiện thời gian cũng như không gian được dành cho việc công bố chúng.
6. Tính bình giá:
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn phải thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá (có lẽ trong các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là không có tính bình giá, tức là tác giả thể hiện sắc thái biểu cảm trung tính). Sự bình giá này có thể là tích cực mà cũng có thể là tiêu cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua ngôn từ. Chẳng hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ tiêu đề như: "Góc tối ở thành phố cảng”, “Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây Bắc”, “Lặng lẽ quá ... liên hoan phim”, “Giai điệu buồn của một đêm nhạc trẻ”,”Đó cũng là một cách sống đẹp” ... Còn trong các phần khác (cả mở đầu, triển khai lẫn kết thúc) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký...
7. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ: “Ở những “cua” cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trò cắm cổ chép như chép chính tả ở dưới vì không có thời gian giảng là “chuyện thường ngày ở huyện” (Hà Nội mới cuối tuần, 18/4/1998); “Sông Tô mà không lịch” (Văn hoá, 17/5/1999). Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí là vô cùng phong phú và đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là sự vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi chữ,nói lái, dùng ẩn dụ, v. v... hay chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính chất cá nhân. Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính biểu cảm, những thông tin khô khan mà nó chuyển tải khó có thể được công chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng mới chỉ tác động vào lý trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc,làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó thực hiện những hành động mà người viết vẫn chờ đợi.
8. Tính khuôn mẫu:
 Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm “khuôn mẫu”. Đó là những công thức ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin, làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt trong nhiều phong cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như: - Theo AFP, ngày...  tại..  .trong cuộc gặp gỡ...  Tổng Bí thư...đã kêu gọi... - TTXVN, ngày...người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết... Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời. Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa học, khuôn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển. Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cáigì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? nhưng thứ tự trả lời cho các câu hỏi đó có thể được sắp xếp khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Bên cạnh đó, các thành tố khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn kết hợp hài hoà với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí thường rất mềm mại, hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn bản hành chính, là nơi người ta chỉ sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
                                                                                   PGS. TS Hoàng Anh


[1] Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục, H., 1997, tr.19
[2] Kostomarov V. G., Tiếng Nga trên trang báo, M., 1978, tr. 62 ( bằng tiếng Nga )