Khiemnguyen

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

Kỹ năng phỏng vấn báo chí (phần 2)


3. Chuẩn bị trước khi phỏng vấn:

Đây là điều kiện cần thiết và tiên quyết nhất đảm bảo sự thành công của cuộc phỏng vấn.
- Liệu có phải một cuộc phỏng vấn được thiết lập trên cơ sở các sự kiện hay những vấn đề đang gây nhiều tranh cãi trong dư luận?
- Những điểm nào là  những điểm cần được khái quát hay khai thác?
- Những sự kiện đó có phải là  yếu tố làm hình thành những mâu thuẫn hay không ?
- Những điều đó có đáng làm cơ sở để thực hiện một cuộc phỏng vấn hay không ?
Người phỏng vấn phải tự đặt ra và trả lời những câu hỏi ấy trong thời gian chuẩn bị phỏng vấn. Hoạt động sáng tạo cá nhân của nhà báo trong giai đoạn này được phát huy cao nhất với sự kết hợp chỉ đạo định hướng của cơ quan báo chí.
Những thông tin đầu tiên mà người phỏng vấn buộc phải nắm được và khai thác trước là những số liệu cụ thể, ngày tháng, tên nhân vật hay sự kiện nhất là khi những thông tin này được sử dụng trong câu hỏi.
Những sai lầm của người phỏng vấn dù là nhỏ nhất cũng phải được sửa chữa ngay và phải coi đó là những bài học kinh nghiệm. Những ví dụ sau là những minh chứng về những sai lầm sơ đẳng nhất trong câu hỏi:
- Tại sao mới chỉ sau 3 năm nghiên cứu anh đã hoàn thành hệ thống thiết bị mới này?
- Không, chính xác là sau  5 năm trước đây...
Đây là những câu hỏi có sự can thiệp khá thô bạo về quan điểm hay là sự bộc lộ những hiểu biết nông cạn của nhà báo và như thế sẽ rất là bất lợi nếu như người bị phỏng vấn bất đồng với những quan điểm đó và có phản ứng ngược.
Luôn luôn phải nắm vững tên tuổi cũng như địa vị của người bị phỏng vấn nếu không sẽ dễ bị "hố", ví dụ :
- Với tư cách là người Giám đốc công ty, ông có thể cho biết...?
- Xin lỗi, tôi chỉ là một quản đốc điều hành...?
Những điều đó không ảnh hưởng nhiều đến những giá trị của thông tin được khai thác, song sự bất cẩn sẽ làm giảm đi lòng tin vào người phỏng vấn của người bị phỏng vấn. Và thậm chí làm giảm lòng tin của công chúng với nội dung của cuộc phỏng vấn.
Người phỏng vấn phải tạo ra một chuỗi câu hỏi và những câu hỏi về mặt chuyên môn sẽ được đưa ra sau cùng. Nhưng nên nhớ rằng những câu hỏi này không nhất thiết phải giải thích bằng những chi tiết chính xác. Đó là phương pháp cứng nhắc và nhiều khi người phỏng vấn buộc phải hỏi máy móc theo nội dung trình tự các câu hỏi đã chuẩn bị trước mà không đưa ra được những câu hỏi thích ứng với những thông tin mới nhận được từ người trả lời phỏng vấn. Nhiều khi, điều đó làm cho người trả lời bị cụt hứng và trả lời thiếu logic. Điều đó có nghĩa rằng sự chuẩn bị trước các câu hỏi có tính hệ thống là cần thiết song nên có sự linh hoạt trong việc áp dụng khi vào cuộc thực tế.
Trong trường hợp nhà báo muốn phỏng vấn một vị quan chức về chủ trương mới nào đó, chẳng hạn về chủ trương đóng cửa khai thác một mỏ than làm cho hàng ngàn người thất nghiệp. Nếu câu hỏi đơn giản là: "Tại sao lại có chủ trương...?" thì hẳn câu trả lời nhận được sẽ là "do hiệu quả kinh tế thấp, do mất an toàn...". Như vậy, hầu hết mọi người đều đã biết thông tin này, cuộc phỏng vấn như vậy sẽ đi vào sự vô nghĩa và nhàm chán. Để khai thác được những thông tin "ẩn" người phỏng vấn phải đưa ra những câu hỏi hàm chứa sâu sắc sự am hiểu lĩnh vực mà họ đang quan tâm. Cụ thể trong trường hợp này có thể đưa ra các câu hỏi, ví dụ như hỏi tới các nhu cầu về than, về tiềm năng xuất khẩu, về sự so sánh chi phí cho nhà máy nhiệt điện chạy bằng than và  khí đốt... cuối cùng mới khép lại bằng câu hỏi ngược là: tại sao lại có thể đóng cửa mỏ than đó được...
Tóm lại các bước mà người phỏng vấn phải chuẩn bị trước là :
1. Tập hợp đầy đủ những chỉ dẫn và thông tin cơ bản về đối tượng và người được phỏng vấn.
2. Tăng cường năng lực nghiệp vụ. Xác định thể loại phỏng vấn.
3. Phải biết điểm then chốt của các câu hỏi này là gì.
4. Phải phán đoán các phương án trả lời để có sự nhạy bén và chính xác trong phản ứng và bổ sung các câu hỏi.
Trong giai đoạn tiếp theo, sau khi công việc chuẩn bị đã tương đối hoàn tất thì có thể tiến hành phỏng vấn. Thời gian của cuộc phỏng vấn dài hay ngắn hoàn toàn phụ thuộc vào sự chủ động xử lý của người phỏng vấn.
Về mặt tâm lý cũng cần thiết phải được chuẩn bị chu đáo. Người phỏng vấn phải thật bình tĩnh tự tin, linh hoạt và tự chủ trong suốt quá trình cuộc phỏng vấn diễn ra. Trong quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn không những chỉ quyết định đưa ra những câu hỏi nào cho phù hợp mà còn phải theo dõi, thu nhận những thông tin mới, xử lý chúng và có thể sẽ dẫn dắt cuộc phỏng vấn đi theo một chiều hướng mới mẻ và thú vị hơn. Người bị phỏng vấn do bị nhiều yếu tố chi phối gây nên sự ức chế tâm lý làm cho cấu trúc ngôn ngữ, giọng nói và cách trình bày thiếu logíc và mất tự nhiên. Trong trạng thái tâm lý căng thẳng, thậm chí anh ta không có khả năng nghe rõ và chính xác câu hỏi. Một người phỏng vấn có kinh nghiệm và chuẩn bị tốt sẽ nhận thấy điều này và sẽ cố gắng làm điều gì đó để giải thoát người bị phỏng vấn ra khỏi tình trạng đó.Trong bất cứ hoàn cảnh nào người phỏng vấn cũng phải giữ thế chủ động và anh ta chỉ có thời gian rất ngắn để phân tích đánh giá, cảm nhận và ra các quyết định.
Người phỏng vấn sẽ trình bày tóm tắt những vấn đề cần được khai thác hoặc đáng quan tâm, và dĩ nhiên anh ta sẽ phải có sự khích lệ đúng mức để cho phép người bị phỏng vấn có thể nói nhiều và nói tập trung nhất. Đây là cơ hội thể hiện sự hợp tác và chấp nhận các yêu cầu của người chủ cuộc phỏng vấn, giúp cho người bị phỏng vấn có cơ hội giãi bày. Những trao đổi ngắn trước khi tiến hành phỏng vấn chính thức làm cho hai bên hiểu nhau hơn và làm cho người bị phỏng vấn cảm thấy thoải mái và tự tin hơn, bên cạnh đó người phỏng vấn có thể thực hiện kiểm tra các thiết bị kỹ thuật để điều chỉnh một vài yếu tố  như  tính mạch lạc, giọng, âm lượng và âm sắc, về độ nhạy và hướng của Micro.
Sẽ là sai lầm lớn nếu như người phỏng vấn bị mất quyền chủ động bởi biến cuộc phỏng vấn thành một cuộc tranh cãi, đó là điều không tránh khỏi  khi người phỏng vấn bộc lộ những quan điểm mang tính cá nhân đối với người được phỏng vấn. Người làm báo cần nhớ rằng trong một cuộc phỏng vấn  mình không phải là một quan toà, một thày kiện hay một hội thẩm viên, nếu không anh ta sẽ phải chấp nhận sự chống đối hoặc bất hợp tác.
Trách nhiệm của người phỏng vấn là làm rõ những vấn đề mà cuộc phỏng vấn đề cập. Hơn thế cuộc phỏng vấn  tạo ra sự thống nhất giữa các mối quan hệ có tính lôgich giữa các thông tin trong một thời lượng nhất định. Người phỏng vấn phải tạo được sự tin cậy đối với người bị phỏng vấn đồng thời thiết lập ra khả năng điều khiển cuộc phỏng vấn theo ý đồ đã định sẵn. Mọi vấn đề phức tạp hay đơn giản đều phải được đơn giản hoá trong một thời gian khoảng 2,5 phút (đó là thời gian thích hợp cho một cuộc phỏng vấn phát thanh hay truyền hình hiện đại). Một điều tối kị đối với người phỏng vấn là không được lạm dụng các phương tiện kỹ thuật và các biệt ngữ, thuật ngữ, nó sẽ  gây nên tình trạng mất tinh thần của người bị phỏng vấn và tất yếu kết quả cuộc phỏng vấn là rất thấp.
Kỹ thuật hỏi:
Một cuộc phỏng vấn là một cuộc hội thoại có mục đích. Trong một bình diện nào đó người  phỏng vấn  phải nắm chắc mục đích của cuộc phỏng vấn là gì. Sự tìm hiểu trước đối tượng bị phỏng vấn là việc làm cần thiết bởi trong cuộc phỏng vấn người hỏi phải luôn dựa vào câu trả lời để đưa ra các câu hỏi mới.
Sự cân bằng giữa hiểu biết và ngu dốt được coi là "sự hiểu biết ngây thơ" .
Mỗi một loại câu hỏi có một câu trả lời tương ứng và được khái quát bằng công thức:              6W + 1 H
1. Who ? Ai có mặt hoặc liên quan đến sự kiện đó?
2. When ?  Sự kiện đó xảy ra khi nào ?
3. Where ?   Sự kiện đó xảy ra ở đâu ?
4. What ?     Sự kiện đó là gì ?
5. Which ?   Những tình tiết cụ thể nào liên quan đến sự kiện đó ?
6. Why ?      Nguyên nhân xảy ra  sự kiện là gì ?
7. How ?      Toàn bộ diễn biến của sự kiện như thế nào ?
Có những loại câu hỏi dạng "mở" và giữa chúng có một số khác nhau, chẳng hạn:
-Anh cảm thấy như thế nào về...?
-Trong chừng mực cho phép, anh có cho rằng....?
Một câu hỏi có từ để hỏi là một dạng câu hỏi tốt nhất và cũng tương đối đơn giản. Thật vậy sau một  câu trả lời, có thể không cần thiết phải hỏi  thêm một câu  nào khác hơn là "Tại sao lại thế". Câu hỏi "tại sao" là sự biểu lộ của người được phỏng vấn dẫn dắt đến sự giải thích về những hành động, những cách xem xét, đánh giá, những động lực hay những tiêu chuẩn khác nhau.
- Tại sao bạn lại quyết định...?
- Tại sao bạn lại tin rằng điều đó cần thiết để...?
Thật là sai lầm nếu đôi khi chúng ta hỏi những câu hỏi dạng "đóng" có nghĩa là là những câu hỏi dạng "Đảo động từ"
- Có phải bạn là...?
- Có phải điều đó là...?
- Phải chăng họ sẽ không chấp nhận...?
Những gì mà người phỏng vấn hỏi là sự khẳng định hoặc phủ nhận, câu trả lời cho câu hỏi như vậy là Có hoặc Không. Trong trường hợp này người phỏng vấn phải có những câu hỏi thích hợp, nếu đó là nỗ lực để đề cập một đề tài mới thì hy vọng là người bị phỏng vấn  trả lời nhiều, hơn là chỉ trả lời không hoặc có. Điều đó có ý nghĩa quyết định tới sự thành công hay thất bại của cuộc phỏng vấn.
Trong một trường hợp nào đó thì "câu hỏi đảo" chỉ thay thế cho một câu hỏi mà người phỏng vấn muốn biểu đạt theo một chiều hướng mong đợi. Do cấu tạo câu hỏi đảo cho nên chúng chỉ được sử dụng khi câu trả lời có/ không đáp ứng được yêu cầu nào đó:
- Trong năm nay biểu thuế sẽ tăng, phải không thưa ngài ?
- Ông sẽ tham gia tranh cử trong kỳ bầu cử sắp tới chứ?
 Câu hỏi mở rộng:
Sự giới thiệu ở phần trên chỉ là sự khái quát việc người phỏng vấn có thể đưa ra những cơ hội khác nhau cho người trả lời. Rõ ràng sự hiện diện của dạng câu hỏi Có/ Không làm cho người được phỏng vấn  bị ràng buộc và có rất ít cơ hội để thể hiện vì câu hỏi rất hạn chế. Ngược lại, nó là câu hỏi chung chung thì sẽ làm cho người bị phỏng vấn bối rối, ví dụ như ở câu hỏi sau:
­- Bạn vừa trở về sau một chuyến du lịch châu Âu, bạn có thể giới thiệu chuyến đi này không ?
Câu hỏi này không hẳn là câu hỏi, nó chỉ đơn thuần là một yêu cầu. Chỉ những người làm báo ít kinh nghiệm mới hỏi những câu hỏi như thế, họ nghĩ rằng với câu hỏi như thế nó sẽ giúp cho những người bị phỏng vấn không bị quá lo lắng hay hồi hộp. Trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại và người bị phỏng vấn sẽ bị bối rối và sẽ không biết nên bắt đầu từ đâu.
Loại câu hỏi khác, loại câu hỏi mà về mặt hình thức dường như có ích, đó là câu hỏi  dạng logic "Hoặc":
- Anh giới thiệu đợt sản phẩm mới này là nhằm mục tiêu lợi nhuận hay chỉ là nhằm chiếm lĩnh thị trường ?
Hạn chế lớn nhất với dạng câu hỏi này là phạm vi câu trả lời đã bị bó hẹp trong một số các khả năng mà câu hỏi đã đưa ra, cho nên người bị phỏng vấn không có cơ hội để trả lời "Cũng không hẳn là như vậy, nỗ lực của chúng tôi chỉ là nhằm...". Trong những trường hợp tương tự như vậy người phỏng vấn không nên đưa ra những gợi ý mà chỉ nên ra những câu hỏi tương tự như :
- Tại sao anh lại giới thiệu loại sản phẩm này...?
Câu hỏi “khích”:
Nếu người bị phỏng vấn được bày tỏ một cách rõ ràng các quan điểm của mình và có thể đưa ra những cách trả lời khác nhau, điều này là cần thiết khi có những quan điểm chống lại anh ta. Chính điều này cũng tạo cho anh ta cơ hội tự làm thoả mãn trong việc bác bỏ những lý lẽ hoặc những sự ép buộc trong các câu hỏi. Vai trò của người phỏng vấn là xác nhận những điều mà anh ta biết phải có "địa chỉ" cụ thể. Những dạng chung của loại câu hỏi "Khích" là:
- Mặt khác, điều đó nói lên rằng...?
- Một vài người đã chỉ trích rằng...?
- Bạn sẽ xử sự như thế nào nếu người ta nói bạn...?
Ví dụ đầu tiên trong ba ví dụ trên như không phải là một câu hỏi nhưng nó vẫn được trình bày và nếu loại bỏ nó thì có thể làm giảm hiệu quả sự thành công của cuộc phỏng vấn một cách đáng kể. Trong cuộc phỏng vấn nó câu hỏi dạng "khích" nhiều khi đóng vai trò một lời khẳng định, một câu bình luận mà thông tin hàm chứa trong câu hỏi này mang tính chủ đạo và chính thống. Nhưng người phỏng vấn phải đảm bảo rằng những quan điểm được đưa ra là một câu hỏi mang tính khách quan. Có thể nói trong trường hợp này nhà báo đang phải " Chơi tốt với một người bạn tồi".
Câu hỏi kép:
Một cách hỏi cho những người làm báo ít kinh nghiệm là hỏi gộp hai câu hỏi thành một.
- Tại sao cuộc họp đó lại lộn xộn, anh sẽ có biện pháp ngăn chặn như thế nào trong cuộc họp lần sau ?
Đối với những câu hỏi tương tự như thế này, người trả lời chỉ có thể trả lời được một trong hai câu hỏi, hoặc là câu trước hoặc là câu sau, những cái "bẫy" đã được gài chính trong câu hỏi và nếu người trả lời không để ý sẽ vô hình mà thừa nhận. Nhưng nhà báo phải thật cẩn thận trong trường hợp người bị phỏng vấn tỉnh táo nhận ra và khôn khéo dẫn dắt câu trả lời sang hướng khác và nhà báo sẽ rất dề bị mất quyền chủ động.
Những câu hỏi phải luôn giữ được mức độ ngắn và giản đơn, những câu hỏi quanh quẩn, dông dài sẽ mang lại những câu trả lời tương tự, điều này chứng tỏ rằng nhưng câu hỏi của người phỏng vấn có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ cuộc phỏng vấn. Người phỏng vấn phải thật sự quan tâm tới các câu hỏi, nếu mục đích của những câu hỏi khổng rõ ràng kể cả trong suy nghĩ của người phỏng vấn thì đối với người được phỏng vấn cũng không được hiểu  rõ ràng. Sự nhầm lẫn của người nghe là khả năng có thể bị thoái hoá trong sự lãnh đạm và sau hết là sự mất hứng từ chính cuộc phỏng vấn gây ra.
Câu hỏi chủ đạo:
Chán nản, thiếu kinh nghiệm hoặc những câu hỏi ác ý sẽ được đưa ra cho người bị phỏng vấn trong một số trường hợp ngoại lệ, như:
- Tại sao ông lại bắt tay vào kinh doanh khi năng lực tài chính của mình đã đi vào sa sút ?
- Anh giải thích như thế nào về hành động cậy quyền cậy thế này...?
Đây là những lời "ác ý" tác động trực tiếp vào người nghe - người bị phỏng vấn. Người bị phỏng vấn như không còn cơ hội để thanh minh hay phủ nhận những quan điểm đó. Thực tế cho thấy công chúng phải tự xác định được và tiếp nhận thông tin từ cuộc phỏng vấn mang lại. Hơn thế, với loại câu hỏi này, những thông tin chứa đựng trong nó được xem như là những thông tin nền cho toàn bộ cuộc phỏng vấn cho cả người bị phỏng vấn và công chúng. Trong loại câu hỏi này người phỏng vấn sẽ đưa ra những quan điểm và những câu hỏi để có thể chấp nhận được là :
- Anh đã bắt đầu công việc kinh doanh của mình với bao nhiêu vốn?
- Vào lúc này anh coi như đã thoả mãn với những gì anh có phải không ?
- Hiện nay anh nhìn nhận điều đó như thế nào ?
- Anh đã nói gì với mọi người, những người có liên quan tới việc cậy quyền cậy thế của anh ?
Việc hỏi trực tiếp để bộc lộ nhiều ý kiến cá nhân, những câu hỏi hóc búa có thể được chấp nhận bởi sự điềm tĩnh thoải mái của người phỏng vấn và sự chịu đựng của người bị phỏng vấn. Khi người phỏng vấn bị chỉ trích vì nội dung câu hỏi anh ta đưa ra thì đó chính là nội dung cần được khai thác và nó có giá trị hơn bất cứ câu hỏi nào khác. Tất nhiên, trong một số trường hợp việc đưa ra câu hỏi dạng chủ đạo cũng phải thật mềm mỏng và khéo léo:
- Trong trường hợp này thì câu hỏi đặt ra là tại sao ông lại xử sự như thế, thưa ông ?
Câu hỏi "tại sao lại xảy ra" không phải là câu hỏi nhằm mục đích tìm hiểu sự việc đó đã diễn ra như thế nào, nhất là trong trường hợp người trả lời phỏng vấn muốn lẩn tránh câu trả lời. Nếu anh ta chỉ cần ngập ngừng một giây thôi thì công chúng sẽ dễ dàng nhận ra và công sức của ngươì phỏng vấn sẽ trở nên vô ích.
Phỏng vấn không câu hỏi
Một vài người thường thích tạo ra sự dài dòng không cần thiết thông qua cách đặt vấn đề hay xử lý các câu hỏi. Điều nguy hiểm là cuộc phỏng vấn có thể sẽ thành một cuộc tranh luận hay là những thông tin mà công chúng nhận được chủ yếu là từ người phỏng vấn hơn là từ người bị phỏng vấn. Chẳng hạn, người trả lời phỏng vấn có thể bị dẫn dắt theo một số trường hợp :
- Điều này xảy ra là không bình thường !
Thay vì với câu hỏi : Đó là điều bình thường phải không ?
Một ví dụ khác tương tự như:
- Anh không có vẻ như đã đưa ra những bảng thống kê đó.
Thay vì một câu hỏi: Anh đưa ra bản thống kê đó để đánh giá gì vậy ?
Thông thường sự sai lầm ở phỏng vấn không câu hỏi là mục đích của cuộc phỏng vấn không rõ ràng hoặc không được xác định, người bị phỏng vấn có thể trả lời những gì anh ta thích hoặc anh ta hiểu. Và người phỏng vấn sẽ rất  khó khăn trong việc điều khiển đề tài và thời lượng của cuộc phỏng vấn .
Đôi khi người phỏng vấn cũng có thể hỏi các câu hỏi:
- Tôi có thể hỏi bạn nếu...?
- Tôi rất muốn nếu như bạn có thể trả lời tại sao...?
Điều này là không cần thiết trong một cuộc phỏng vấn đã có những thoả thuận từ trước. Đôi khi nó là một biểu hiện của phương pháp tiếp cận đối tượng. Cách diễn đạt này nhằm được dùng để hướng dẫn người phỏng vấn nhận ra những khó khăn không lường trước được của một cuộc phỏng vấn. Đúng hơn là một giải pháp tình thế chi sự thiếu tin cậy giữa hai bên và tạo ra cho cả hai bên có đủ thời gian cần thiết để chuẩn bị và đó cũng là việc giành được thời gian để khiến cho người nghe cảm thấy mức độ căng thẳng của cuộc phỏng vấn .
Sự giao lưu không lời:
Thông thường một cuộc phỏng vấn đã được thiết lập thì nó không được để gián đoạn. Trong cuộc phỏng vấn, mối quan hệ giữa hai bên không chỉ thông qua các câu hỏi và câu trả lời mà thực ra còn được thiết lập qua biểu hiện ở ánh mắt và nét mặt. Sự tập trung phải được duy trì thường xuyên và không thể coi thường.
Mắt của người phỏng vấn phải nói lên được sự đồng điệu với những gì anh ta nói hoặc là thái độ phản ứng đúng với những gì anh ta nhận được. Người phỏng vấn không bao giờ được tỏ ra chán nản hoặc thiếu kiên nhẫn, có thể biểu đạt sự đồng ý hay không đồng ý qua cử chỉ của cánh tay và cử chỉ, nét mặt.
Tuy nhiên cũng cần phải tránh những hành động dễ gây cho người bị phỏng vấn sự nổi giận như gật đầu và nói " aha!" hay "ừ hừ"...
Trao đổi bằng mắt là cách thức thường xuyên nhất và hiệu quả nhất để điều chỉnh thời gian cho một cuộc phỏng vấn. Nó báo hiệu là đã có một câu hỏi khác đã cần phải đưa ra. Những biểu hiện bằng tay cũng rất cần thiết và giữa hai bên cũng cần có sự thống nhất trong việc trao đổi những thông tin này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét