Khiemnguyen

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Tản văn viết bằng Ipad 3 2


Một năm nữa sắp trôi qua. Thời gian là thứ duy nhất không có thể quay trở lại. Đó là quy luật, quy luật mang tính nghiệt ngã nhất của thế giới tự nhiên. Nói là nghiệt ngã vì với mỗi người thêm một tuổi là mất đi một tuổi. Nếu một đời người có thể ví như một chữ A, thì ta đang ở sườn bên kia của chữ đó mất rồi, gạch ngang giữa hai chân như sự níu kéo, sự ràng buộc với những năm tháng đã qua. Lòng tự hỏi, ta đã làm được gì trong một năm, làm được gì với cuộc đời này? Chẳng làm được bao nhiêu cả. Đó ko phải là sự tiếc nuối mà là sự chấp nhận. Ở cuộc đời này, danh phận do giời định đoạt, muốn cũng ko được mà ko muốn cũng ko được. Muốn được thì phải mất, cái gì cũng có giá của nó, nói cách khác là cái gì cũng có lý của nó.

Vừa ngồi Highland Coffee với một ông tiến sĩ về. Đó là một ông Tây học, một vị có bằng PhD từ năm bức tường Beclin sụp đổ. Rất oách, ta nghĩ thế. Hỏi sao anh ko phải là giáo sư, vị đó cười mà nói rằng uy tín khoa học mới là thứ đáng quý, chứ cái danh quý thật nhưng cái danh ko đi với cái thực thì ko có còn hơn. Khổng đã nói danh chính ngôn thuận, ông phải làm được cái gì, là ai thì người ta mới lọt tai, chứ chả là ai cả, nói gì cũng là chém gió mà thôi. Ko biết Khổng nói đúng hay vị tiến sĩ kia nói đúng. Nhưng sống đúng với mình, giữ được khoảng cách với cái Danh khó thật. Phàm đã là con người ai chẳng có chút sĩ diện, sĩ diện ko phải cho mình mà là sự vênh vang với thiên hạ. Vinh là thế và nhục cũng là thế.

Nhớ khoảng này năm ngoái, ngồi nhậu với ông Thái Lọ ở quận 3, hắn bảo đừng đem cái kiểu sĩ phu Bắc Hà vào SG, ở trỏng nhậu là bình đẳng, là anh em, ba cái danh vọng hão huyền chức tước nọ kia đừng có trưng ra ở đấy... Hee, ok. Cơ mà ông ăn cơm Bắc Hà già nửa đời người, vừa vô trỏng mấy hôm đã như là người khác. Sao sống đúng với mình khó thế. Hắn có bao giờ nghĩ hắn chơi với mình đâu thuần tuý là cái thằng mình, há phải hắn chẳng từng chơi với cái ghế mình ngồi hay sao.

Thôi ko viết nữa.

Phong cách là gì? Sáu đặc trưng của phong cách


PHONG CÁCH LÀ GÌ?

"Sự tồn tại lâu bền nhất của các cây viết chính là phong cách"

(Nguyễn Bùi Khiêm) Từ bút stylus từ tiếng Latin là "một dụng cụ nhọn dùng để viết". Điều đó, theo chú giải thuật ngữ của chúng tôi, là những gì từ phong cách có nghĩa từ cách đây 2.000 năm. Ngày nay, định nghĩa về phong cách không phải các công cụ được sử dụng bởi nhà văn, nhưng đặc điểm của các văn bản chính nó là: “Cách thức mà một cái gì đó được dùng để thực hiện, thể hiện, hoặc thực hiện một phong cách ngôn luận và viết. Theo nghĩa hẹp, có thể hiểu như là những con số vật trang trí mà luận rộng rãi, là đại diện cho một biểu hiện của người nói hoặc viết. Tất cả những con số thuộc lĩnh vực phong cách”
Nhưng nó không có ý nghĩa gì để viết “với phong cách”? Là phong cách của một chất lượng mà các nhà văn có thể thêm hoặc loại bỏ khi họ vui lòng? Là nó, có lẽ, một món quà mà chỉ có một số nhà văn xảy ra để được ban phước với? Một phong cách có thể bao giờ được tốt hay xấu, đúng hay sai - hoặc là nó nhiều hơn một vấn đề sở thích? Là phong cách của một loại rắc trang trí thêm vào một đoạn viết - hoặc là nó thay vì một thành phần thiết yếu của văn bản?
Ở đây, dưới sáu nhóm lớn, là một số trong những cách đa dạng của các cây bút chuyên nghiệp, trong đó đã trả lời cho những câu hỏi này. Chúng tôi mở với những nhận xét ​​từ Henry David Thoreau, một stylist giàu tính nghệ thuật, người đã bày tỏ sự thờ ơ đối với phong cách, và kết thúc với hai trích dẫn từ tiểu thuyết gia Vladimir Nabokov, người đã khẳng định rằng phong cách là tất cả những vấn đề, như sau:
1. Phong cách là thực hành
"Ai quan tâm đến những gì là phong cách của một người đàn ông, vì thế nó là hiểu, hiểu như là tư tưởng của ông nghĩa đen và thực sự, phong cách là không hơn so với các bút stylus, các bút ông viết với. Và nó không phải là sự đánh bóng, mạ vàng , trừ khi nó sẽ viết suy nghĩ của mình tốt hơn cho nó. Nó là một cái gì đó để sử dụng, và không nhìn vào" (Henry David Thoreau).
"Mọi người nghĩ rằng tôi có thể dạy cho họ phong cách gì các công cụ tất cả là có một cái gì đó để nói, và nói rằng nó rõ ràng như bạn có thể. Đó là bí mật duy nhất của phong cách."
(Matthew Arnold)
2. Phong cách là hình thức của nội dung
"Phong cách ăn mặc của những suy nghĩ, và để cho họ có bao giờ nên chỉ, nếu phong cách của bạn giản dị, thô, và thô tục, họ sẽ xuất hiện là bất lợi nhiều" (Philip Dormer Stanhope, Earl của Chesterfield).
"Phong cách của một người đàn ông nên giống như trang phục của mình nên càng không phô trương và nên thu hút được sự quan tâm ít nhất có thể” (CEM Joad).
3. Phong cách là con người
"Phong cách là chính con người" (George-Louis Leclerc de Buffon)
"Câu nói cũ của phong cách của Buffon đó là chính con người thật gần sự thật như chúng tôi có thể nhận được, nhưng sau đó hầu hết những người đàn ông sai lầm ngữ pháp cho phong cách, vì họ nhầm lẫn đúng chính tả các từ hoặc học cho giáo dục"(Samuel Butler).
"Khi chúng tôi nhìn thấy một phong cách tự nhiên, chúng tôi ngạc nhiên và vui mừng, vì chúng ta mong đợi để xem một tác giả, và chúng tôi tìm thấy một người đàn ông."
(Blaise Pascal)
"Phong cách là dấu hiệu của một tính khí đã được định hình, như dấu vân tay của mỗi người vậy” (Andre Maurois).
"Bản chất của một phong cách âm thanh là nó không thể được giảm đến quy tắc rằng đó là điều sống và thở với một cái gì đó của devilish trong đó - rằng nó phù hợp với chủ sở hữu của nó chặt chẽ chưa bao giờ nên lỏng lẻo, như da của ông phù hợp với mình Đó là, trong thực tế, khá là nghiêm trọng một phần không thể tách rời của anh ta như da .... Nói tóm lại, một phong cách luôn luôn là biểu tượng bên ngoài và có thể nhìn thấy một người đàn ông, và không thể có bất cứ điều gì khác" ( HL Mencken )
"Bạn tôi không tạo ra một phong cách làm việc, và phát triển bản thân, phong cách của bạn là một hóa thân từ bản thể riêng của bạn" ( Katherine Anne Porter)
4. Phong cách là quan điểm (Point of View)
"Phong cách là sự hoàn hảo của một quan điểm" (Richard Eberhart).
"Ở đâu có là không có phong cách, có hiệu lực không có quan điểm, về cơ bản, không giận dữ, không có tiền án, không có tự ngã. Style là ý kiến, treo giặt, tầm cỡ của một viên đạn, hạt mọc răng" (lexander Theroux).
"Phong cách là mà chỉ ra làm thế nào nhà văn có bản thân mình và những gì chàng nói là tâm trượt băng vòng tròn xung quanh chính nó như là nó di chuyển về phía trước" (Robert Frost).
5. Phong cách là kỹ năng thực hành
"Điều quan trọng là cách chúng ta nói nó nghệ thuật là tất cả về nghề thủ công.. Khác có thể giải thích nghề thủ công như phong cách nếu họ muốn. (US) là những gì liên kết bộ nhớ hoặc hồi ức, tư tưởng, tình cảm, nỗi nhớ, điềm, cách chúng tôi thể hiện tất cả những điều đó. Đó không phải là những gì chúng tôi nói nhưng làm thế nào chúng ta nói nó có vấn đề. "
(Federico Fellini).
"Từ thích hợp ở những nơi thích hợp, làm cho các định nghĩa thật sự của phong cách"
Jonathan Swift)
"Web, sau đó, hoặc mô hình, một trang web ở kết cấu một lần gợi cảm và hợp lý, thanh lịch và mang thai: đó là phong cách”Robert Louis Stevenson ).
"Điều bền nhất bằng văn bản là phong cách, và phong cách là đầu tư có giá trị nhất là một nhà văn có thể làm với thời gian của mình. Nó trả tiền chậm, đại lý của bạn sẽ thường lĩnh, nhà xuất bản của bạn sẽ hiểu lầm nó, và nó sẽ mất người bạn có bao giờ nghe nói để thuyết phục họ độ chậm rằng nhà văn người đặt dấu ấn cá nhân của mình trên con đường ông viết luôn luôn sẽ trả hết" (Raymond Chandler).
"Phong cách của tác giả là hình ảnh của tâm trí của mình, nhưng sự lựa chọn và lệnh của ngôn ngữ là kết quả của tập thể dục."  (Edward Gibbon)
"Một đến phong cách chỉ với nỗ lực tàn bạo, với bướng bỉnh cuồng tín và tận tâm."
(Gustave Flaubert)
6. Phong cách là bản chất của vấn đề
"Đối với tôi phong cách bên ngoài của nội dung, và nội dung bên trong của phong cách, giống như bên ngoài và bên trong của cơ thể con người Cả hai đi cùng nhau, họ không thể tách rời" (Jean-Luc Godard)
"Suy nghĩ và lời nói là không thể tách rời nhau Vật chất và biểu hiện là một phần của một phong cách là một suy nghĩ sang ngôn ngữ" (Đức Hồng Y John Henry Newman).
"Trong các vấn đề có tầm quan trọng nghiêm trọng, phong cách, chứ không phải chân thành, là điều quan trọng" (Oscar Wilde).
"Style, theo nghĩa tốt nhất của nó, là tiếp thu cuối cùng của tâm giáo dục, nó cũng là hữu ích nhất tràn ngập khắp toàn thân” (Alfred North Whitehead).
"Phong cách không phải là một cái gì đó áp dụng một cái gì đó đang dâng trào. Đó là bản chất của nó được tìm thấy, cho dù bài thơ, theo cách của một vị thần, chịu lực của một người đàn ông. Không phải là một chiếc váy" (Wallace Stevens).
"Phong cách và cấu trúc là bản chất của một cuốn sách, những ý tưởng tuyệt vời là hogwash ....”; "Tất cả các câu chuyện của tôi là súc của phong cách và không ai có vẻ blush đầu tiên có chứa nhiều vấn đề động học .... (Vladimir Nabokov).

“Đây là một bài dịch thô, gần như chưa có sự hiệu chỉnh về nội dung. Các bạn nên suy luận để có được nội dung tốt nhất” (Nguyễn Bùi Khiêm).



"Phong cách chính là người"


“Phong cách (…) cũng như màu sắc đối với người họa sĩ, không phải là một vấn đề về kỹ thuật mà là về cách nhìn. Nó là một phát lộ, vốn sẽ không thể có được bằng những phương tiện trực tiếp và hữu thức, về sự khác biệt về chất có trong cách mà thế giới hiện ra với mỗi chúng ta, sự khác biệt mà, nếu không có nghệ thuật, thì sẽ mãi là bí mật vĩnh hằng của mỗi con người”[1]
Nói cách khác, phong cách tác giả không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn chương mà nó là cách nhìn rất riêng của mỗi người về thế giới, phân biệt với cách nhìn của những người khác.
Mỗi người sinh ra và lớn len đều có riêng trong mình một khí chất, năng lực và kinh nghiệm để có thể tiếp thu những cái tốt đẹp và loại trừ những cái xấu. Qua trình đó dần hình thành trong mỗi chúng ta một vốn cá tính đặc biệt mà ta hay gọi là phong cách. Xét trên bình diện này, Buy-phong – một nhà văn nổi tiếng của Pháp từng nói: “Phong cách chính là người”. Quả thật trong cùng một hoàn cảnh nhưng phong cách của mỗi người không hoàn toàn giống nhau, mà nó chính là bản thân người mang phong cách đó. Cùng suy ngẫm và chiêm nghiệm về câu nói của Buy-phong để mỗi chúng ta có thêm những hiều biết và dần định hình trong mình một phong cách riêng. Trong cuộc sống, người ta thường định hình phong cách theo hai nghĩa. Một là, phong cách nghệ thuật. Đó là phong cách của một nhà văn, nhà thơ, nhà kiến trúc... hoặc phong cách của một thời đại nào đó.
Hai là, tác phong, tính cách của một người hay một lớp người nào đó trong xã hội được hình thành một cách tương đối ổn định, làm nên phong cách riêng của một người hay một lớp người đó.
Phong cách tuy đa dạng như vậy nhưng nhìn chung khi nhắc đến phong cách ta vẫn thường nhắc đến dấu ấn cá nhân của sự vật. Ngoài ra một điểm chung của bất kì loại phong cách nào là cũng đều chịu tác động mạnh mẽ sâu sắc của môi trường sống. Đó là những tác động của truyền thống văn hoá, đạo đức, tâm lí nghề nghiệp. Nhìn từ bình diện văn học, phong cách cũng đa dạng nhưng không kém phần sâu sắc.
Buy-phong đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”. Trong văn học, phong cách là yếu tố cấu thành tác phẩm không thể thiếu. Độc giả cũng như mọi nhà lý luận văn học mỗi khi nhìn nhận một tác phẩm, người ta thường hay chú ý đến hai phương diện quan trọng của phong cách văn học là: nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, phong cách là dấu ấn thể hiện cách nhìn nhận con người và cuộc sống, cách lí giải cuộc sống và con người… Về nghệ thuật, phong cách là cách lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật, kết cấu ngôn từ, sử dụng ngôn ngữ... Một tác phẩm hay chỉ được đánh giá khi tạo ra được dấu ấn riêng, mang lại cho người đọc những lay chuyển xúc cảm nhẹ nhàng mà tinh tế. Chính vì vậy, dù trên bất cứ bất cứ bình diện nào, khi đánh giá tác phẩm hay con người, phong cách cũng vừa là tiêu chí quan trọng, vừa là nơi thể hiện cái tính cách cũng như tâm hồn trong tác giả. Xin một lấy một góc nhỏ của nền văn học Việt Nam để chứng minh và làm rõ hơn khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”.
Nhắc đến văn học Việt Nam, nhắc đến phong cách con người tôi dần mường tượt ra sợi dây lien kết giữa chúng. Nguyễn Đăng Mạnh trong “Nhà văn, tư tưởng và phong cách” đã gắn phong cách với cá tính nhà văn khi ông xác định: “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau đó, trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách, ông lại một lần nữa coi phong cách “phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ. Nguyên Ngọc là cây bút sử thi - lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ... Rồi Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục, khi đi tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”.
Phong cách ở mỗi bình dịên đều đa dạng và sâu sắc. Văn học chỉ là một trong số những bình diện mà tôi muốn vay mượn nhằm đánh giá đúng và chính xác khi nhìn nhận con người. Tôi dần nhận ra câu nói của Buy-phong hết sức chập chờn. Bởi vì như tôi đã nói các định ngữ đã để định nghĩa chập chờn. Như tôi đã nói về một số phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính... có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được, mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng” này làm cho các định nghĩa trên không có giá trị khái niệm hóa đã đành, mà cả giá trị thao tác cũng không rõ rằng. Đó chính là sự chập chờn trong câu nói “Phong cách chính là người” của Buy-phong: Nó tạo cho những người đọc cho ta nhiều cách nhìn nhận riêng. Đó là sự tinh tế và óc sáng tạo khi nhìn nhận vấn đề của Buy-phong.
Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách.
Chính từ đó, mỗi học sinh chúng ta, nhìn nhận từ câu nói của Buy-phong, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần tập riêng cho mình thói quen nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống một cách rõ ràng, tinh té. Đồng thời cần không ngừng trau dồi vốn từ và sử dụng nó một cách linh hoạt. Đó chính là điều kiện dần cấn và đủ để ta đãn hình thành trong mình một phong cách nhỏ, nơi thể hiện cái tôi cá nhân của ta trong cuộc sống.
“Phong cách chính là người”- Buy-phong đã cho ta một nhận định sâu sắc, một bài học khi ta bước vào cuộc sống. Riêng tôi, nỗ lực để tạo riêng cho mình một phong cách, một cá tính sx là động lực giúp tôi vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống!


[1] PROUST Marcel, Le Temps Retrouvé (T.R.), Paris, Gallimard, Col. Folio, 1990, tr. 220.

Đi tìm phong cách chung của văn học (phần 1)


TS. Nguyễn Khắc Sính

Trong các vấn đề về phong cách văn học ở ta, cho đến nay, trong các công trình, giáo trình lí luận phần lớn đều nói tới vấn đề phong cách thời đại, phong cách cá nhân của nhà văn. Các khía cạnh khác của phong cách như phong cách thời đại, phong cách trào lưu, phong cách dân tộc tuy cũng có được nhắc tới nhưng hầu như chưa đựơc bàn bạc và vận dụng vào thực tiễn bao lăm. Theo nhịp độ phát triển và giao lưu, hội nhập của cuộc sống hiện nay, vấn đề phong cách chung đựơc nhìn nhận rõ hơn và đã đến lúc cần xem, xét cụ thể vấn đề rất phức tạp này.
Nhìn vào lịch sử vấn đề, thì từ xa xưa cho đến hiện đại, trên phạm vi toàn thế giới, vấn đề phong cách chung bao giờ cũng được xem xét bên phong cách cá nhân, thậm chí là mẫu số chung đề nhìn nhận ra phong cách cá nhân. Ở thời Hi Lạp cổ, theo Aristote, phát ngôn lý tưởng là kết hợp hài hòa giữa logic và cảm xúc dấu hiệu của nó là có kết cấu và có phong cách. Kết cấu đòi hỏi bài văn phải có bố cục gồm nhiều phần liên kết hợp lí, còn phong cách đòi hỏi phải có các phẩm chất chung, cơ bản và các phẩm chất cá nhân. Phong cách được hiểu chủ yếu là phong cách ngôn ngữ, các phương tiện của nó là cách sử dụng đúng đắn các từ đồng nghĩa, đồng âm, các tính từ, các ẩn dụ …Aristote viết trong Tu từ học (Rhetorica) như sau: “Phong cách sẽ có được các phẩm chất cần phải có, nếu như nó tràn đầy tình cảm, nếu như nó phản ánh đựơc tính cách và phù hợp với tình hình thực tế của sự vật”. Các phẩm chất cơ bản đó còn thể hiện qua nhịp điệu, bố cục …theo ông, phong cách (ngôn ngữ) phải được trau chuốt và trang nhã. Đó chính là phong cách ngôn ngữ chung của ngôn ngữ văn học. Đarli và Vamana, hai nhà lý luận văn nghệ cổ Ấn Độ trong các công trình của mình (Kaviadarsa và Kavialankarasutra) cũng đã trình bày học thuyết về các phẩm chất của phong cách chung – phong cách hay, bao gồm cả các yếu tố tu sửa ngôn từ tiêu biểu cho các tác phẩm, đặc biệt là nguyên tắc dhvani - ám thị , chứ không biểu trực tiếp, làm cho văn bản giàu chất thơ. Các nhà lý luận cổ điển Trung Quốc như Lưu Hiệp, Chung Vinh, Tư Không Đồ cũng nêu ra tư tưởng về chuẩn mực văn chương như, “ lục nghĩa” của Lưu Hiệp. Như vậy, phong cách chung như là chuẩn mực của văn chương đã đựơc đề xuất từ sớm.
Khái niệm phong cách cá nhân thực sự được đề xuất từ thế kỷ XVIII. Với Buffon, phong cách là sự biểu hiện hoàn mỹ vào tác phẩm cái nhân cách, tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo. Xin lưu ý là khái niệm phong cách của Buffon không chỉ áp dụng cho văn học, mà cho mọi sáng tác về tư tưởng như khoa học, triết học, lịch sử. Về sau Marx cũng sử dụng khái niệm phong cách này để đánh giá tác phẩm về kinh tế học của Prudon. Tư tưởng này được Flaubert (Pháp), Rauli (Anh) tán thành.
Với Goethe, phong cách là sự thống nhất chủ quan và khách quan trong sáng tác, khi nhà văn vừa vượt lên trên mọi sự mô phỏng đơn giản đối với tự nhiên, vừa vựơt lên trên cái tác phong, kiểu cách chủ quan của nhà văn. Với Hégel, phát triển tư tưởng của Phôn Rumô, phong cách được hiểu là phương thức biểu hiện, quy luật nghệ thuật của một loại hình nghệ thuật nào đó: phong cách thơ, phong cách nhạc kịch.
Như vậy, ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, khái niệm phong cách không phải chỉ nhấn mạnh vào phong cách cá nhân. Đi vào lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ phải nhường chỗ cho các phương diện khác như cá tính, quy luật nghệ thuật. Đáng chú ý là vào thế kỷ XVIII, khi khái niệm phong cách cá nhân đựợc đề xuất thì tại Đức, nhà mỹ học Winc Kelmann đã đưa ra khái niệm phong cách như một phạm trù của lịch sử nghệ thuật. Ông đã nói đến phong cách thời đại và phong cách cá nhân nghệ sĩ trong các dân tộc; do thời đại đổi thay mà nghệ thuật có những phong cách khác nhau…Ví dụ, ông chia nghệ thuật Hi Lạp cổ làm 4 thời kỳ với 4 phong cách: Phong cách đường nét, Phong cách cao cả, Phong cách đẹp, Phong cách chiết trung.
Sang thế kỷ XIX, H. Taine trong Triết học nghệ thuật (1865 – 1869), quan niệm văn hóa lịch sử về văn học nghệ thuật dựa trên cơ sở mô phỏng đời sống, cũng nói tới phong cách thời đại. Chẳng hạn, phong cách nghệ thuật Hi Lạp cổ, Phong cách Cơ đốc giáo, Phong cách tao nhã quý tộc cung đình thời Louis XIX có ảnh hưởng tới hầu như toàn châu Âu: Ý, Anh, Nga, Đức, Tây Ban Nha. Khi nào văn học xa rời thực tế thì phong cách suy thoái.
Vào thế kỷ XX Ken Viper trong sách Lịch sử các phong cách của nghệ thuật tạo hình (1910), Henrích Vônfơlin trong công trình Các khái niệm cơ bản của lịch sử nghệ thuật – vấn đề tiến hoá của phong cách trong nghệ thuật mới (1915), tác giả Mỹ W.Fleming trong sách Nghệ thuật và quan niệm (1947), cũng đều lấy khái niệm phong cách chung, phong cách thời đại, trào lưu để nghiên cứu mô tả quá trình lịch sử của nghệ thuật. Nhà nghiên cứu văn học Nga D.S.Likhachov nhận định: “ Trong thời đại của chúng ta có thể nói về phong cách thời đại, như phong cách barôcô trong chừng mực mà nó thể hiện trong tất cả các loại hìnhhoạt động nghệ thuật, trong những giới hạn thời gian và giới hạn địa lý.” Phải chăng trong mọi thời đại đều tồn tại cái mà chúng ta có thể gọi là phong cách thời đại. Xem thế đủ thấy trong lịch sử văn học nghệ thuật khái niệm phong cách chung luôn luôn có vai trò của nó, bên cạnh khái niệm phong cách cá nhân. Thậm chí nó còn có cả vai trò trong các thời đại, khi điều kiện để xuất hiện phong cách cá nhân chưa chín muồi.
Các công trình lí luận đầu thế kỷ XX như của V.Girmunski, của E.Utitz đều đặt khái niệm phong cách thời đại vào vị trí quan trọng của lí luận về phong cách.
Thế nhưng về phương diện lí luận, trong giới lí luận các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đặc biệt từ khi lí luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX, người ta có xu huớng chỉ thừa nhận phong cách cá nhân như là sự thể hiện đa dạng của phương pháp chung, sự thống nhất về phương pháp và sự đa dạng của phong cách cá nhân, và như vậy đã thu hẹp phạm vi biểu hiện của hiện tượng phong cách, xa rời một truyền thống nghiên cứu đã có hàng trăm năm.

Đi tìm phong cách chung của văn học (phần 2)


Công trình Lí luận phong cách (1968) của N.Sokolov có thể coi là tác phẩm đầu tiên trong các nước xã hội chủ nghĩa đặt lại vấn đề phong cách. Ông khẳng định phong cách là một hiện tượng nghệ thuật, thể hiện quy luật của nghệ thuật, là phạm trù thẩm mỹ trong tất cả mọi nghệ thuật. Bản chất của mọi sự thống nhất của mọi thành tố nghệ thuật theo những quy luật đặc thù. Đi theo quan điểm của một loạt tác giả như : H.Vônfơlin, V. Handenstein, Phơ rích, K.Viper, chủ yếu chỉ thừa nhận phong cách như một hiện tượng lịch sử, xã hội, thời đại chứ không phải thừa nhận phong cách cá nhân! Ngược lại với quan điểm quen thuộc của Trofimov, Timofiev, Elsbes, M.B. Khravchekon… N.Sokolov cho rằng “ Xem phong cách là hiện tượng cá nhân dễ đưa đến sự phủ nhận bản chất xã hội của họ. Không có phong cách cá nhân tách rời xã hội”. Ông không xem cá tính sáng tạo cá nhân ( theo cách hiểu của Khravchenko) là nhân tố tạo thành phong cách, bởi vì theo ông, nếu đã xem phong cách là một quy luật của nghệ thuật thì không được xem nó như là biểu hiện của cá tính sáng tạo vốn là một hiện tượng tâm lý, bởi hai phương diện đó nằm ở hai bình diện khác nhau. Xin lưu ý thêm, cũng vào lúc này (1967) G.Antonine ở Pháp đã nói Saint Beuve không hiểu gì Stendhail bởi vì hai ông mải đi tìm tiểu sử của ngài Beile! Từ đó ông cho rằng phong cách cá nhân là sự biểu hiện của phong cách chung, tức là phong cách thời đại, phong cách trào lưu. Ông đã lập luận rằng, nếu phương pháp chung có sự thể hiện riêng về mặt cá nhân thì đó là phương pháp riêng chứ không phải là phong cách riêng. Còn đã nói phong cách cá nhân thì đã là sự thể hiện riêng của phong cách chung phải phục tùng quy luật chung. Như vậy, người ta không thể nghiên cứu phong cách riêng mà không xét đến phong cách chung.
Đã đến lúc phải đi tìm những biểu hiện và cơ sở lý luận của phong cách chung, bởi vì sự vận động của văn học không thể chỉ là sự tích luỹ không ngừng các phong cách cá nhân mà còn ở chỗ mỗi giai đoạn văn học đều mang lại cho lịch sử một phong cách mới, và không có lý do gì để chỉ nói phong cách cá nhân mà dè dặt, không nói đến phong cách chung. Mặt khác, phong cách cá nhân không thể tự nó hình thành mà không có tác động của một phong cách chung nào đó. Trong truyền thống nghiên cứu văn học Trung Quốc xưa, người ta phân biệt được phong cách văn học Hán với phong cách thời Lục Triều, phân biệt được phong cách Đường với phong cách Tống, phân biệt Nguyên, Minh , Thanh. Ở phương Tây, cùng là nghệ thuật thời Trung đại, nhưng người ta phân biệt phong cách Bizantin thời kì đầu với phong cách La Mã tăng lữ và phong cách La Mã phong kiến; cùng là phong cách Barroco thời chống cải cách tôn giáo, phong cách Barroco quý tộc thời Louis XIV, phong cách Barroco hạn chế của thời khôi phục vương triều. Nhưng điều đó đã trở thành thường thức của giáo trình về lịch sử nghệ thuật.
Vậy phong cách chung là gì? Nó có những đặc điểm gì?
Theo D.S. Likhachov, thứ nhất, phong cách chung là phong cách nghệ thuật mà nó vựợt lên trên chất liệu cụ thể như ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, thể loại, cá tính, để có thể có đặc điểm chung ảnh hưởng tới các loại hình nghệ thuật khác nhau. Chẳng hạn như phong cách Barroco đã nói trên, thể hiện trong hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, văn học. Tương tự, phong cách lãng mạn trong văn học 1932 – 1945 của Việt Nam vừa thể hiện trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, trong thơ mới, trong âm nhạc và trong hội hoạ. Trong văn học, phong cách chung thể hiện ở tẩt cả mọi thể loại, và đó là một lớp, một phạm trù phong cách bên cạnh các lớp khác như phong cách cá nhân, phong cách dân tộc, phong cách trào lưu….
Thứ hai, phong cách chung, đặc biệt là phong cách thời đại là sự biểu hiện của trình độ kỹ thuật biểu hiện, của trạng thái văn hoá, xã hội, tập quán tâm lý thời đại đã hình thành nên phong cách. Phong cách thể hiện tập trung ở cách thể hiện thế giới và con người, cảm thụ bản thân nghệ thuật. Chẳng hạn nghệ thuật Ai Cập cổ đại có nền tảng là tôn giáo Ai Cập, tôn giáo về cái chết; trái lịa, nền tảng của nghệ thuật Hi Lạp cổ đại là thế giới quan yêu đời. Khi nào nội dung và hình thức cuộc sống thay đổi thì nghệ thuật, vốn là biểu hiện của cuộc sống đó cũng là thay đổi, và sự đổi thay đó “ chính là đổi thay phong cách” (E.Utitz: Phong cách là gì?).
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, giới khoa học đã nói đến phong cách cá nhân của các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu; cũng đã nói đến phong cách hiện thực, phong cách lãng mạn. Nhưng cũng có thể nói đến phong cách thời đại thể hiện ở các điểm sau:
+ Một là, quan niệm lí tính đối với cuộc đời, niềm tin vào khoa học, tiến bộ, lẽ công bằng, tư tưởng bình đẳng, tự do. Khi Thơ mới đòi hỏi thể hiện nhu cầu giải phóng cá tính trong tình cảm cũng là lúc các tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đấu tranh cho các quyền con người của cá nhân; và cũng là lúc các tiểu thuyết hiện thực lên án xã hội bất công chà đạp lên số phận con người sau lũy tre làng. Một số nhà văn Tự lực văn đoàn có phong cách hiện thực chính là do ảnh hưởng của phong cách thời đại trong cảm hứng tố cáo và trữ tình. Văn học Cách mạng xuất hiện trong giai đoạn này cũng mang tính lý và tính lý tưởng rất đậm.
+ Hai là, sự hiện đại hóa đồng loạt các thể loại văn học do tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch nói, du kí, tùy bút, phê bình văn học nhất loạt xuất hiện, thay thế hẳn các thế loại truyền thống. Các hình thức truyền thống như thơ bảy chữ, năm chữ, lục bát,…đều được cấu trúc lại.
+ Thứ ba, các nhà văn, nhà thơ dù sáng tác theo thể loại nào đều đã cắt đứt với truyền thống tập cổ mà tự mình cấu tứ, sáng tạo, vai trò chủ thể của tác giả đặt lên hàng đầu. Người ta phân biệt rõ ràng sáng tác và phóng tác, lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao…cùng một loạt nhà Thơ mới đa dạng về phong cách cá nhân đã tiêu biểu cho ý thức chủ thể nổi bật, như là một đặc trưng của phong cách thời đại.
+ Thứ tư, khác với lối văn truyền thống nặng về vần điệu đăng đối với điệu ngâm nhịp nhàng, lối văn hiện đại chuyển hẳn sang văn xuôi: văn tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự mang hình thức khẩu ngữ, kịch hóa, thân mật, suồng sã trong khoảng cách gần, lời thơ về cơ bản là mang hình thức điệu nói đầy giọng điệu giãi bày, tâm tình.
Một yếu tố quan trọng nữa của phong cách là cách bố cục, kết cấu, tổ chức nội dung tác phẩm, thể hiện cách cảm thụ của tác giả là ngừơi đọc kiểu mới. Điều nổi bật của văn học giai đoạn này là kết cấu mở, mở từ giữa chừng và kết thúc lửng. Văn đã vậy mà thơ cũng vậy.
Nhưng đặc điểm trên đây xác định phong cách thời đại cơ bản trong văn học 1930 – 1945, cho phép phân biệt nó với văn học giai đoạn trước và sau đó.
Phong cách thời đại có những nét truyền thống nhưng không đồng nhất, nghĩa là bên trong nó vẫn có sự phân hóa theo các yếu tố khác nhau như phương pháp sáng tác, cá tính sáng tạo, khuynh hướng tư tưởng xã hội, thẩm mỹ. Nhưng phong cách thời đại đó xây dựng trên nền tảng trạng thái văn hóa xã hội rộng lớn nên có tính thống nhất không thể bác bỏ.
Phong cách văn học dân tộc không đơn giản chỉ là tính độc đáo dân tộc về đề tài, chủ thể, ngôn ngữ, thể loại mà còn là quy luật riêng của sáng tạo nghệ thuật. Phong cách dân tộc qua các thời kỳ đều có sự đổi thay và phát triển, cho nên theo Sokolov, có thể nói đến các phong cách dân tộc.
Cũng vậy, phong cách trào lưu tuy một mặt có phạm vi bao quát nhỏ hơn phong cách thời đại và dân tộc, song xét về mặt khác nó lại rộng hơn, có tầm vóc quốc tế. Phong cách thời đại trong giai đoạn tăng cường giao lưu quốc tế cũng có tầm vóc quốc tế. Trong các tương quan đó, dân tộc là phạm trù có sự kết tinh phong cách thời đại và trào lưu. Khi xét tới phong cách chung, thiết nghĩ phải tính đến các tương quan ấy với nhau mới làm sáng tỏ một phong cách nào đó.

Đi tìm phong cách chung của văn học (phần 3)


Xét về bản chất của phong cách, cho đến nay có nhiều cách thể hiện khác nhau. Tuy nhiên có thể nhìn phong cách theo bốn phương diện liên quan chặt chẽ với nhau như sau.
1. Phong cách là dấu hiệu độc đáo, không lặp lại, đánh dấu phẩm chất thẩm mỹ riêng biệt của một hiện tượng văn học nào đó. Phong cách hoặc là “con người”, là sự sáng tạo, sự mới mẻ làm nên vẻ riêng biệt ít thấy hiện tượng văn học khác nhưng lại nhất quán, xuất hiện thường xuyên ở hiện tượng văn học cụ thể. Cần hiểu rằng sự bền vững, nhất quán nói ở đây là nói từ cái cốt lõi, cái trong bản chất, còn trong quá trình triển khai thì phong cách lại đòi hỏi sự đa dạng và đổi mới. Muốn đạt được yêu cầu ấy, phong cách cần phải có phẩm chất thẩm mỹ, nghĩa là khi nói tới một hiện tượng văn học nào đó có phong cách thì hiện tượng văn học ấy phải mang lại cho người đọc, người xem, người nghe một sự hưởng thụ thẩm mỹ dồi dào. Ở đây cũng cần lưu ý thêm một điểm: phong cách phải có phẩm chất thẩm mỹ nhưng phẩm chất này không chỉ thuần túy về mặt hình thức, kỹ thuật mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể nó sẽ biểu hiện chủ yếu ở phạm vi nội dung hay phạm vi hình thức.
2. Phong cách là phẩm chất của chính thể. Khi định nghĩa về phong cách, dù có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, nhưng các định nghĩa đó đều đề cập đến “tính hệ thống”, “tính thống nhất”, “tính tổng hòa”,…Điều này chứng tỏ, phong cách là phẩm chất của hệ thống thể hiện qua các yếu tố chứ không phải phẩm chất do tổng cộng các thuộc tính của các bộ phận của tác phẩm. Phong cách là phẩm chất xuyên suốt qua các yếu tố tác phẩm, qua các tác phẩm của một tác giả hoặc các tác giả của một trào lưu nghệ thuật. Ngay cả khi nói phong cách nghệ thuật là tính độc đáo của hình thức nghệ thuật thì cũng phải thấy rằng đó không phải là hình thức cụ thể của một tác phẩm cụ thể, cá biệt mà là cái hình thức được lặp đi lặp lại, vừa thống nhất vừa đa dạng trong nhiều tác phẩm khác nhau của một nhà văn, một trường phái hay một thời đại văn học, nghệ thuật (khi chúng ta nói về phong cách Nguyễn Tuân, phong cách Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1932- 1945,v.v…là đứng trên quan niệm này). Vì thế, có thể nói phong cách nghệ thuật là hình thức siêu hình thức cụ thể của sáng tác nghệ thuật.
3. Phong cách là phẩm chất tương đối ổn định của sáng tác. Các đặc điểm của nó được lặp đi lặp lại tương đối thường xuyên, ít thay đổi. Nhưng đây là ổn định trong sự phong phú đa dạng, có biến đổi chứ không phải là sự lặp lại giản đơn, nghèo nàn. Tuy nhiên cần lưu ý rằng sự ổn định là cơ bản, nhờ thế nó mới trở thành phong cách để phân biệt với các phong cách khác. Chẳng hạn, có thể nói tới phong cách trữ tình của Tố Hữu bởi nét trữ tình này về cơ bản là ổn định, được lặp đi lặp lại tương đối thuờng xuyên trong các sáng tác của ông. Nhưng trữ tình trong Từ ấy không hoàn toàn giống trữ tình trong Việt Bắc, nó cũng khác với trong Gió lộng, Ra trận, và đặc biệt là khác với trữ tình trong Một tiếng đờn.
4. Phong cách là hình thức của chủ thể. Phong cách là gương mặt tinh thần, Buffon đã từng khẳng định: phong cách là bản thân con người. Dĩ nhiên, người ở đây không phải là con người trừu tượng, chung chung mà là người với những phẩm chất trí tuệ, tình cảm, cá tính cụ thể. Nhưng cũng không thể giản đơn coi văn như con người mà đó là tài năng tư duy, tổ chức của con người. M.Bakhtin khẳng định tính tích cực của chủ thể trong sáng hình thức, khẳng định cái nhìn mới là yếu tố căn bản của phong cách nghệ thuật. M. Prust, D.S. Likhachov cũng đồng tình với quan niệm này. Tư duy, hệ hình tư duy, thái độ cảm xúc, quan niệm giá trị tạo thành hình thức cảm nhận của chủ thể. Hình thức cảm nhận của chủ thể dẫn đến những phát hiện mới về hình thức, bút pháp, kỹ thuật, tạo thành nền tảng của phong cách. Nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc Lý Trạch Hậu cho rằng lịch sử của phong cách là lịch sử tâm lý cảm nhận của nhân loại hay dân tộc. Đó là hình thức của chủ thể, cho nên phong cách có quan hệ mật thiết với phương pháp nghệ thuật.
Như vậy có thể hiểu, bản chất nghệ thuật, thẩm mỹ của phong cách là: không phải mọi hình thức của chủ thể tạo thành phong cách mà là các hình thức chủ thể tạo thành giá trị nghệ thuật. Vì thế, Viper, Sokolov đều cho rằng có những tác phẩm không có phong cách, có những giai đoạn giao thời không có phong cách.
*
* *
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, khi đề cập đến vấn đế phong cách thì không chỉ nói đến một cấp độ phong cách nhà văn hay phong cách tác phẩm mà còn phải nghiên cứu kỹ càng các cấp độ khác như phong cách thời đại, phong cách trào lưu, trường phái…Từ phong cách cá nhân nhà văn đến phong cách thời đại, trào lưu đều được soi rọi dưới ánh sáng của phong cách chung. Ví dụ, khi chúng ta nói đến phong cách hiện thực chẳng hạn. Chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu văn học, ngoài sự thống nhất về phương pháp sáng tác còn có sự thống nhất về phong cách. Trước hết là chi tiết chân thực của đời sống hàng ngày dùng để dệt nên bức tranh đời sống như nó vốn có – đây là nguyên tắc mô tả nên nó thuộc phạm trù phong cách. Đặc điểm thứ hai, như Engels nói, chủ nghĩa hiện thực không muốn bộc lộ khuynh hướng một các lộ liễu mà muốn nó được toát ra từ tình huống đây là thuộc phương thức thuyết phục người đọc và phương thức biểu hiện cách chiếm lĩnh đời sống như M.B. Khravchenko từng nói. Một đặc điểm nữa của phong cách hiện thực, theo D.S Likhachov diễn đạt, là khoảng cách gần gũi của người kể đối với nhân vật, thâm nhập vào nội tâm, kể từ bên trong. Đặc điểm cuối cùng là sự bộc lộ yếu tố cá nhân và phong cách cá nhân nhà văn.
Đặc điểm phong cách chung này làm cho hiện tượng phong cách cá nhân của trào lưu hiện thực phong phú và đa dạng chưa từng có. Hay khi chúng ta nói phong cách thời đại cũng vậy. Khái niệm phong cách thời đại dùng để chỉ một phong cách chung, phong cách lớn bao trùm mọi thể loại trong một loại hình, mọi loại hình trong thời đại ấy. Sự bao trùm này không chỉ ở một quốc gia, dân tộc mà nó chứa đựng tính chất xuyên dân tộc, xuyên quốc gia cùng chịu sự chi phối chung của một ý thức hệ nhất định, ví dụ như ý thức hệ tôn giáo trong phong cách Gotic bao trùm hầu hết các dân tộc từ phương Tây đến phương Đông, hay ý thức hệ vô sản trong phong cách thời đại của các nền văn học nghệ thuật từ thập niên 20 đến thập niên 90 của thế kỷ XX ở các nước Nga, Trung Quốc, Việt Na, Cu Ba, v..v….
Thực tế này khiến chúng ta nghĩ rằng, không thể nghiên cứu kỹ càng vấn đề phong cách chung của văn học. Ngược lại, chúng tôi cho rằng cần phải thực hiện hành trình “đi tìm” nó một cách cẩn trọng để cho thấy, sáng tác văn học trong một thời đại nào đó, một dân tộc nào đó không phải là tổng cộng giản đơn các phong cách cá nhân đa dạng mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại tạo thành một phong cách bao trùm lên các phong cách cá nhân ta có thể gọi là phong cách chung của văn học.
(Đăng trong Tạp chí NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, Số 2/2008)

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Mối quan hệ văn học và báo chí


Báo chí Việt Nam hiện nay có chịu nhiều ảnh hưởng của văn chương hay không? Đó là vấn đề còn đang gây nhiều tranh cãi. PGS - TS. Nguyễn Thị Minh Thái, giảng viên khoa Báo chí (ĐH Quốc gia Hà Nội) đã có cuộc trao đổi ngắn với Tuần Việt Nam về vấn đề này.
- Là một giảng viên của khoa báo chí, đồng thời bà cũng là một người viết văn, một nhà báo. Vậy xin được hỏi bà, xét trên thực tế hoạt động báo chí thì ngày nay liệu văn chương và báo chí có còn bất phân?
Văn - báo không bất phân. Văn là văn, báo là báo. Chỉ có duy nhất một chỗ đáng lưu ý là những tác phẩm văn học đăng trên báo chí và những bài viết mang tính văn bản truyền thông đặc thù. Văn báo bất phân chỉ tồn tại trong nửa đầu thế kỉ 20 khi Việt Nam chưa có nổi một nền văn học. Thời đó, báo chí là nơi đăng tải tác phẩm văn học, là nơi dạy người ta viết văn.
- Nhưng trên báo chí hiện nay vẫn tồn tại những bài viết miêu tả dông dài. Đó có phải là do ảnh hưởng của cách viết văn?
Cần phân biệt tính văn học với sự dông dài. Báo chí rất dứt khoát, rõ ràng. Có 2 loại tác phẩm: một là tác phẩm thông thường mang tính thông tấn cao, không pha tạp văn chương, đòi hỏi sự trong sáng của thông báo và ngôn ngữ. Mỗi một chữ là một thông tin, mỗi một dòng là một thông báo, cả tác phẩm phải đạt tới sự trong sáng đó.
Ngoài ra có một loại văn bản khác chồng lên văn bản loại một là văn bản truyền thông đặc thù dùng để bình luận về các tác phẩm văn học nghệ thuật. Văn bản này được viết bằng một thứ bình luận văn chương.
Thực tế đó dẫn đến một số người sự lầm lạc. Bởi mỗi một loại truyền thông như vậy đòi hỏi một cách viết riêng. Báo chí dứt khoát từ chối cách viết của văn học.
 - Những bài viết như vậy cần được gọi tên là gì?
Làm gì có tên gọi. Đấy là những tác phẩm kém cỏi và ngu ngốc, đáng vứt vào sọt rác. Không thể đổ lỗi lầm đó cho việc ảnh hưởng của văn học, không thể làm nhục văn học. Không thể viết dài mà đổ tội cho văn học được. Ngắn dài không quan trọng mà quan trọng là hàm lượng thông tin.
- Lấy ví dụ ở thể loại phóng sự, báo chí nước ngoài coi trọng yếu tố thông tin. Vậy tại sao phóng sự của Việt Nam xuất hiện quá nhiều cái "tôi" của tác giả (cái "tôi" của tác giả vẫn được coi là một đặc trưng trong lĩnh vực viết văn)?
Bởi phóng sự Việt Nam sinh ra trong một hoàn cảnh văn hóa khác. Phóng sự phải phục vụ cho nền văn hóa ấy và đã được Việt Nam hóa. Phóng sự Việt Nam viết theo cách của Việt Nam, tại sao lại phải viết theo cách của phương Tây. Cuối cùng còn phải xét đến: Một phóng sự nào đó có phải phóng sự báo chí không, có đủ hàm lượng và giá trị thông tin, được viết đúng chính tả hay không?
Nó sẽ là một tác phẩm báo chí nếu đáp ứng được hai tiêu chí: Có một góc nhìn, đưa được một thông báo cốt lõi. Một phóng sự không thể đưa cùng lúc 4 thông báo cốt lõi. Tuy nhiên, cái nhìn của người viết phóng sự tuyệt nhiên không thể giống cái nhìn của nhà văn: Anh không thể tưởng tượng, hư cấu, bịa tạc. Tiêu chí thứ hai là nó có những chi tiết để phục vụ cho thông báo cốt lõi đó.
- Vậy với những người có gốc viết văn rồi lại đi làm báo như bà thì sao?
Bài báo cần viết kiểu gì, tôi sẽ viết kiểu đấy. Tôi viết một tin chắc chắn khác một bài thời sự và suy nghĩ, xã luận. Tôi có một nhà báo và một nhà văn trong người. Hai cái đó không ảnh hưởng gì đến nhau, viết cái gì ra cái đấy. Có chăng tôi dùng cách viết văn chương để viết phê bình những tác phẩm về văn chương và nghệ thuật.
- Theo quan điểm của bà, cần phải làm gì để rạch ròi trong cách thể hiện bài viết?
Người viết phải là chủ thể của bài viết. Khi làm báo thì tư cách nhà báo là số 1. Anh có thể vay mượn phương pháp từ các loại hình khác nhưng phải nhận thức rằng mình là người đưa thông tin, đưa cái mới.
Ví dụ: Nhà báo có thể người vẽ biểu đồ, nhưng là biểu đồ đưa thông tin và là một cửa tiếp nhận cho độc giả. Còn khi tôi viết về chân dung nghệ thuật, tôi vẫn mượn ngôn ngữ văn chương nghệ thuật để diễn đạt.
- Cảm ơn PGS!

Phóng sự văn học và phóng sự báo chí


Phóng sự là một thể loại tiêu biểu trong loại hình tác phẩm ký tự sự. Vào những điều kiện lịch sử xã hội thuận lợi, phóng sự được sử dụng rộng rãi ở cả làng văn lẫn làng báo. Chính tính chất “lưỡng sinh” đặc biệt này đã khiến cho phóng sự được cắt nghĩa và lý giải bằng nhiều quan niệm khác nhau. Có thể nói, phóng sự là một thể loại phức tạp, không dễ nhận diện các đặc trưng thể loại đích thực như một số thể loại khác cùng loại hình ký. Dẫu vậy, nhìn chung, các kiến giải về bản chất thể loại phóng sự của giới nghiên cứu văn học và báo chí hiện nay (ở trong nước cũng như ngoài nước) đều thống nhất ở một điểm, coi phóng sự là thể loại nằm giữa văn học và báo chí. Điều này có thể được xem như một tiền đề về lý luận để từ đó nhìn nhận, nghiên cứu hiện trạng phát triển của phóng sự theo tinh thần “phân môn biệt loại” tương đối với các thể loại văn học khác.
Tuy nhiên, thực tế lại có phần phức tạp hơn nhiều, bởi lẽ có những tác phẩm phóng sự chỉ thuần túy là những trang ghi chép, tả thực, thông tin về sự kiện khách quan. Bên cạnh đó, có những tác phẩm phóng sự dù vẫn viết về những “sự thực ở đời” nhưng lại nghệ thuật không kém những tác phẩm nghệ thuật đích thực. Nếu soi chiếu ở những chiều kích sâu hơn ta sẽ thấy bản thân tác phẩm phóng sự luôn chịu sự qui định của nhiều tác nhân để có thể kết tinh thành những sắc diện thẩm mỹ phần nào mang giá trị văn chương hay chỉ là những đường ray thông dẫn sự kiện khách quan đơn thuần. Vì vậy rất cần có sự phân biệt để định vị phẩm chất đích thực cho các tác phẩm được gọi là phóng sự nói chung.
Lâu nay, các nhà nghiên cứu lý luận văn học và lý luận báo chí đã bàn nhiều về sự khác biệt giữa ký văn học và ký báo chí nhưng lại chưa mấy chú tâm phân biệt phóng sự báo chí với phóng sự văn học. Nếu có chăng chỉ là những phác thảo sơ lược, thiếu hệ thống toàn diện. Sự so sánh nếu chỉ dừng lại ở cấp độ loại hình cơ bản nhiều khi chưa soi tỏ các tiểu tiết phức tạp nảy sinh ở cấp độ thể loại. Hơn thế, từ giữa thập niên 80 của thế kỷ trước trở lại đây, sự bùng nổ trở lại của thể loại phóng sự còn kéo theo xu hướng tách bạch khá rõ ràng, trong lối thể hiện, phóng sự báo chí và phóng sự văn học. Cùng xuất hiện trên mặt báo, cùng mang danh phóng sự, nhưng con đường vươn tới đích của sự thật ở hai loại phóng sự này có nhiều điểm khác biệt. Vì vậy việc thiết lập một “giải phân cách” mềm mại, tương đối nhằm khu biệt chúng không chỉ có ý nghĩa đối với người nghiên cứu mà còn hết sức cần thiết cho người sáng tạo cũng như người tiếp nhận.
Tính chất thông tin trong tác phẩm
Nhìn chung, các thể loại ký đều ghi chép, phản ánh các sự kiện có thật trong hiện thực khách quan. Riêng với phóng sự thì ngoài tính khách quan, chân xác, còn đòi hỏi cả tính thời sự, cập nhật và khả năng lý giải, phân tích, điều trần về sự thật nữa. Do vậy, ngay ở điểm này giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí đã bắt đầu bộc lộ ranh giới. Trong khi đối với phóng sự báo chí tính xác thực của thông tin được đặt ra một cách nghiêm ngặt thì phóng sự văn học vẫn được phép có những khoảng “phi phỏng” (không xác định) lượng thông tin. Lối nói phiếm chỉ trong định danh hoặc việc dùng từ, ngữ vô định thường không mấy khi được chấp nhận ở phóng sự báo chí thì phóng sự văn học lại coi đó như là một thủ pháp nghệ thuật nhằm mềm hóa thông tin, tránh cho người đọc những cú sốc bất lợi về thực tại. Những đoạn mô tả cảnh sắc thiên nhiên, trạng huống tâm lý, hành tung nhân vật... được tỉnh lược tối đa hoặc chỉ dựng lên như cái nền của phóng sự báo chí thì phóng sự văn học đôi khi lại khai thác chúng như một phương tiện hữu hiệu góp phần biểu đạt tư tưởng thẩm mỹ. Mặt khác, sự kiện trong phóng sự báo chí càng mới mẻ, cập nhật, vấn đề đặt ra càng nóng bỏng, bức xúc thì tính hấp dẫn càng cao, khả năng tác động đối với đời sống xã hội càng lớn. Còn trong phóng sự văn học, sự kiện có ý nghĩa “châm ngòi nổ” nhiều khi không nhất thiết phải theo sát dòng thời sự. Thậm chí có một độ lùi thích hợp về không gian, thời gian càng giúp cho người viết có thể tái hiện một cách sinh động, đầy đủ và soi sáng sự kiện từ nhiều chiều. Trong phóng sự báo chí, sự thật cho dù có được “tạo dáng” đôi chút song nó vẫn phải mang đầy đủ, nguyên dạng tầm vóc và cốt lõi của sự kiện bản thể.Tính thẩm mỹ của thông tin nếu có được chủ yếu là do tự thân hiện thực mang lại chứ không phải do dụng công tôn tạo của người viết. Trái lại, ở phóng sự văn học tuy vẫn lấy việc phản ánh người thực, việc thực làm chủ đích nhưng ngoài chức năng đáp ứng nhu cầu nhận thức cho công chúng, tác phẩm còn phải vươn tới yêu cầu giao tiếp thẩm mỹ, định hướng thông tin. Vì vậy, không chỉ phương châm viết cho đúng, cho trúng mà cả yêu cầu viết cho hay ở phóng sự văn học cũng không giống như phóng sự báo chí. Bản lĩnh của nhà báo là lựa chọn tư thế, góc nhìn, thời điểm “phát hỏa” sao cho “mũi tên sự kiện” trúng đích một cách nhanh nhất. Mọi vấn đề được mô tả, tái hiện, lý giải, điều trần sao cho trực tiếp, khách quan và nổi bật nhất để có thể tác động thẳng tới tri giác người đọc. Nhưng với nhà văn lại không chỉ như thế. Mũi tên có thể trúng đích song những gì còn lại, những gì thay đổi, những gì sẽ tái sinh cho một cuộc sống tốt đẹp sau đó mới là điều người cầm bút cần đặt ra và hướng tới. Sự thật dẫu có được trình bày, diễn giải đầy đủ, kỹ lưỡng đến mấy mà tính khái quát của vấn đề nêu ra chưa thực sự gắn với những nỗi niềm nhân sinh thế sự, chưa thể coi nhà văn đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Nếu ở phóng sự báo chí, thông tin sự kiện được xem là sự sống còn của tác phẩm thì ở phóng sự văn học tính thẩm mỹ của thông tin mới là tiêu chí cuối cùng để đánh giá. Người làm phóng sự văn học không chỉ đi đến tận cùng sự thật mà còn đòi hỏi phải làm sao cho những sự thật ấy vừa gây “nhức nhối trí tuệ” vừa có khả năng rung động tâm hồn, thức tỉnh lương tri thời đại.
Như vậy, đủ thấy rằng sự khác nhau về tính chất thông tin giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là một thực tế bắt nguồn từ mục tiêu phản ánh, tái tạo hiện thực. Đây cũng chính là điểm mấu chốt dẫn đến sự phân biệt chúng trên một số bình diện khác./.

Sự thật là yếu tố quan trọng hàng đầu của báo chí


Khách quan và chân thật là những khái niệm tương đối, không thể định lượng kiểm tra một cách tuyệt đối. Trong nhiều trường hợp cụ thể, khách quan hay không khách quan phụ thuộc vào khuynh hướng chính trị của nhà báo của cơ quan báo chí. Nguyên tắc đó không tách khỏi sự chi phối bởi nguyên tắc khách quan, chân thật của báo chí.
Vậy, trung thực thực nghĩa của nó là gì? Tại Từ điển tiếng Việt, xác định rõ: “1. Ngay thẳng, thật thà - con người trung thực. 2. Đúng với sự thực, không làm sai lạc đi. Báo cáo trung thực sự việc xảy ra. Tác phẩm phản ánh trung thực cuộc sống”.
Hội Nhà báo Việt Nam cũng đã xây dựng bản: “Quy định về đạo đức nghề nghiệp” bao gồm 9 điểm. Bao quát 9 điểm của bản Quy định với tính tư tưởng chủ đạo vẫn là yếu tố trung thực. Tuy vậy, tính trung thực vẫn được nêu rõ ở điểm 3: “Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật”. Rõ vậy, cũng chẳng cần phải bàn luận thêm nữa.
Tính Đảng của với tư cách là khuynh hướng phát triển ở trình độ cao của báo chí cách mạng không hề đối lập và mâu thuẫn với tính chân thật. Với tính nhìn váo sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta đòi hỏi báo chí phản ánh mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách chân thật, khách quan đúng bản chất. Báo chí phát hiện và trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Đồng thời báo chí cũng phát hiện và tích cực tuyên truyền cổ động cho các nhân tố mới, các mô hình và các điển hình tiên tiến. Báo chí không chỉ có nhiệm vụ truyền bá, phổ biến những quan điểm, tư tưởng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước mà còn có nhiệm vụ phản ánh những tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phản ánh những cách làm hay diến ra hàng ngày trên mọi miền đất nước. Báo chí chân thực không chỉ phản ánh đúng từng sự việc cụ thể, từng góc độ và thời điểm của cuộc đấu tranh xã hội mà còn vạch ra toàn bộ xu thế là bản chất của cuộc đấu tranh đó.
Trong quá trình thâm nhập cuộc sống, nhà báo bộc lộ thái độ của mình, báo chí bộc lộ khuynh hướng và đỉnh cao của nó là nguyên tắc tính Đảng. Tính Đảng đòi hỏi nhà báo, cơ quan báo chí phản ánh trung thực khách quan chân thật trong khi tiếp cận sự kiện, vấn đề với một thái độ xây dựng. cầu thị cùng với toàn bộ xu thế phát triển của xã hội, với sự nghiệp đổi mới đang diễn ra vừa khó khăn vừa thuận lợi, vừa có thành tựu vừa có vấp váp sai lầm. Sự thật là đặc điểm đặc trưng là yêu cầu tồn tại của bản thân báo chí. Nó đạt đến mức độ nào, trình độ nào, bị bóp méo, xuyên tạc hay bị lợi dụng, cắt xén là tùy thuộc nhiều vào nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trong thư Bác gửi Hội nghị thông tin, tuyên truyền và báo chí toàn quốc tháng 2 năm 1948, có đoạn: “…đôi khi sơ suất, cẩu thả làm giảm giá trị tờ báo hoặc làm mất lòng người xem. Thí dụ: Tờ báo nọ đăng bài có đầu không đuôi. Tờ báo kia quên cả lịch sử trận Đống Đa ngày 5 tháng Giêng âm lịch thì viết là 10 tháng 11. Tờ báo khác đăng tin vị linh mục X. hàng địch, kỳ thực, vị ấy là người tốt”. Bác chỉ nêu khái quát một số trường hợp để làm ví dụ cho bổn phận và trách nhiệm của người làm báo mà tính thiết yếu là sự trung thực; phải trung thực với lịch sử khi viện dẫn; phải trung thực khi thông tin sự việc; phải trung thực khi phản ánh các hiện tượng tiêu cực; phải rõ ràng, minh bạch, không lấp lửng, không đầu không đuôi, dễ phản tác dụng… Bác Hồ của chúng ta quả tâm huyết và thấu đáo biết chừng nào với vai trò của báo chí và phẩm chất của người làm báo. Và, Người dạy chúng ta bằng chính việc làm của mình là viết những bài báo chân thực có sức truyền cảm.
Rõ ràng rằng, lịch sử là lịch sử, không ai có thể “bẻ cong” nó theo ý đồ của mình được. Nếu làm điều đó với lịch sử, tất yếu sẽ nhận được sự phỉ báng của nhân dân, những người đã đổ máu và công sức để giành độc lập dân tộc. Trung thực với sự kiện lịch sử chính là thước đo nhân cách và nhãn quan chính trị của người làm báo vậy.
Để làm được điều đó khi đưa tin hoặc bình luận mỗi nhà báo, mỗi cơ quan báo chí cần phản ánh đúng sự thật, tránh hư cấu, tránh điển hình hóa nhân vật, khái quát hóa bối cảnh tình hình cụ thể, tránh bịa đặt những chi tiết khi chưa kiểm tra, xác minh. Ngay cả khi lấy tin, trích dẫn các nguồn tin của các báo, đài nước ngoài cũng cần phải thận trọng, chắt lọc kỹ không nên dưa một cách vô thưởng vô phạt. Giữ vững lòng tin với nhân dân, với Đảng trong mỗi bài viết, trên mỗi tấm ảnh của chính mình cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo tính khách quan, chân thật của báo chí.

Tiểu phẩm báo chí là gì?


I. Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt, “tiểu phẩm” có nghĩa là:
- Bài báo ngắn về vấn đề thời sự có tính chất châm biếm.
- Màn kịch ngắn mang tính chất hài hước, châm biếm hoặc đả kích.
Theo quan niệm của Bùi Đình Khôi: “Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ngắn gọn, mang tính văn học, được diễn đạt bằng một ngôn ngữ châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát, mà thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước những sự việc hoặc hiện tượng đó”.
Như vậy, có thể nói “tiểu phẩm” là tác phẩm được viết bằng thể loại tản văn ngắn gọn, xinh xắn nhưng giàu chất trữ tình. Người Trung Quốc xem các loại văn tự, bạt, ký, truyện, văn tế, thư tín... có ngôn ngữ trau chuốt, tình cảm phong phú đều là văn tiểu phẩm. Người phương Tây xem văn tiểu phẩm là thể loại văn xuôi nhỏ, kết cấu tự do, thiên về thể hiện các ấn tượng và ý kiến cá nhân trước các sự việc và vấn đề cụ thể, không nhằm đưa ra cách lý giải bao quát, điều cốt yếu là có cách kiến giải mới mẻ, gây ấn tượng sâu đậm. Văn tiểu phẩm có loại thiên về triết lý, có loại thiên về tiểu sử, phong cảnh, phong tục, có loại nghiêng về phần văn học, có loại thiên về phổ biến khoa học, có loại thuần tuý trữ tình. Phong cách chung của văn tiểu phẩm là tính hình tượng, cô đọng, tính ngụ ý, ngữ điệu trò chuyện, tâm tình bộc lộ trực tiếp nhân cách, cá tính của tác giả, để lại ấn tượng nhẹ nhàng, khoáng đạt.

Từ đó có thể đưa ra khái niệm về tiểu phẩm như sau: Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận - nghệ thuật, mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về một sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó.
Trên thế giới, tiểu phẩm ra đời vào những năm 60 – 70 thế kỉ 18 với sự xuất hiện các bài viết của Nôvicốp và Giecxen trên báo chí Nga.
Vào đầu thế kỉ 19 trên báo chí Pháp xuất hiện những bài viết của cố đạo Guyliêng Giốp Phroa được nhiều người biết đến.
Ở Việt Nam, theo một số tài liệu nghiên cứu, các dạng trào phúng và tiểu phẩm bắt đầu xuất hiện trên báo chí vào những năm đầu thế kỉ 20 với những tờ báo như Đông Dương tạp chí, Đông Tây, Duy Tân, Phong hoá, Vịt đực, Con ong…Trên những tờ báo này đã xuất hiện nhiều bài viết có tính châm biếm, hài hước, in những hí hoạ, biếm hoạ, thậm chí có những tờ báo chuyên in truyện cười với những tác giả nổi tiếng như Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương.Tuy nhiên, phải đến thời kì Cách mạng dân chủ khi báo chí tiến bộ và cách mạng có điều kiện phát triển công khai, thể loại tiểu phẩm mới thực sự phát triển. Cùng với thời gian, tiểu phẩm ngày càng phát triển và hoàn thiện cùng với quá trình phát triển của nền báo chí Việt Nam. Cùng với các thể loại báo chí khác, tiểu phẩm báo chí góp phần vào việc thực hiện mục tiêu của đất nứơc: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
 Mẫu mực của thể loại văn tiểu phẩm ở phương Tây có thể tìm thấy qua tập tiểu phẩm của Môngten (1533-1592), các tiểu phẩm của Vônte, Điđơrô, Letxinh, Hecđơ, Punskin, Giecxen... ở phương Đông, văn tiểu phẩm có truyền thống lâu đời nhưng có sự nở rộ của của chúng gắn liền với ý thức về nhân cách, cá tính. Tiêu biểu cho thể loại văn tiểu phẩm phương Đông là Tiểu phẩm của Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Chu Tư Thanh, Băng Tâm... ở Trung Quốc; hay “Vũ Trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ ở Việt Nam.
Ngày nay, nhiều phương tiện truyền thông đã ra đời và ngày một phát triển có tính chất quy mô như vô tuyến truyền hình, phát thanh... Tuỳ theo phương thức truyền thông của của mỗi loại hình mà các cách thể hiện tiểu phẩm báo chí cũng có nhiều dạng khác nhau. Ngoài những hình thức truyền thống là văn xuôi, thể trào phúng còn có trong ca dao, kịch ngắn, phim hài, nhiếp ảnh, tranh biếm hoạ... và trong tương lai, trên báo chí sẽ xuất hiện nhiều hình thức phong phú, đa dạng hơn nữa.
Cho tới nay, tuy còn nhiều quan niệm khác nhau về tiểu phẩm, nhưng có thể nêu một khái niệm được nhiều người chấp nhận về tiểu phẩm như sau: Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận- nghệ thuật, mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về một sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó.
II. Đặc trưng, đặc điểm của tiểu phẩm báo chí
1.Tính trào phúng:
Theo Bách khoa toàn thư Liên Xô: trào phúng là một phương pháp nghệ thuật đặc biệt, tái tạo lại hiện thực, khám phá ra nó là một cái gì đó sai lệch, vô lý, không xác đáng ở bên trong (khía cạnh nội dung) bằng cách hình tượng đáng cười, đáng phê phán, chế nhạo (khía cạnh hình thức).
Trào phúng không chỉ là nét đặc biệt của sáng tác văn học, báo chí mà còn là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước... được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng... những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội.
Trào phúng có nghĩa là dùng lời nói bóng bẩy, kín đáo để mỉa mai kẻ khác. Trong tiểu phẩm báo chí, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học. Văn trào phúng bao gồm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc và âm hưởng khác nhau, từ những mẩu chuyện tiếu lâm, các vở hài kịch đến thơ trào phúng, thậm chí cả tiểu thuyết. Đó là sự bao trùm của tiếng cười trong lĩnh vực văn học và báo chí. Từ lâu, người ta cũng đã quan tâm đến việc sắp xếp vị trí của trào phúng như một dạng của tính trữ tình ở khía cạnh bộc lộ quan niệm bên trong của con người. Thời kỳ Phục hưng, quan điểm này bị nghi ngờ khi đứng trước cả tác phẩm lớn của Xetvantéx, Rabơle và đến thế kỷ 19, Hêghen còn cho rằng trào phúng không mang tính sử thi và không phù hợp với tính trữ tình. Theo L.T.Timophéep- trào phúng là phương diện đặc biệt của sáng tác văn học, gần gũi với trữ tình sử thi và kịch trong trường hợp cụ thể.
Trào phúng là sự hài hước, diễu cợt, vạch ra cái lố bịch, kỳ khôi để răn đời nên tính hài hước của nó được biểu hiện bằng tiếng cười trào lộng. Đối tượng của tiếng cười là các hành vi, bản chất xấu xa của một cá nhân, một tầng lớp, thậm chí một giai cấp nào đó trong cộng đồng. Tính gây cười đặc biệt này chính là công cụ quan trọng để đả kích cái xấu còn tồn tại trong xã hội. Đồng thời nó cũng là thang thuốc bổ giúp mọi người quên đi bao lo toan, khó nhọc trong cuộc sống và cố gắng vươn lên để hoàn thiện bản thân mình.
2. Tính châm biếm:
Châm biếm - đả kích là một dạng đặc biệt trong sáng tác văn học, báo chí, là dùng lời lẽ thâm thuý, vạch trần bản chất của đối tượng, hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Châm biếm gắn liền với lẽ phải, yêu cầu của châm biếm cũng cao hơn hài hước ở mức độ gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật. Về phương diện xã hội, phần lớn các tác phẩm của châm biếm thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc, những kẻ đi ngược dòng lịch sử, những kẻ phản bội... chẳng hạn như các tác phẩm của Nguyễn ái Quốc, Tú Mỡ, Thợ Rèn, X.cvantex, Xăntcôp Sedrin...
Các nhà văn, nhà thơ trào phúng thường có các tác phẩm có giá trị đả kích bọn thống trị tàn bạo hà khắc, bọn xâm lược và bè lũ phản bội, bán nước cầu vinh, phê phán, bài trừ những thói hư tật xấu, những tư tưởng không chính thống, không lành mạnh trong xã hội.
“Châm biếm với những đề tài nội bộ thực hiện vai trò tích cực của mình bằng việc, khi tố cáo cái xấu, cái khuyết điểm, tác động lên sự vận động đi lên của xã hội”.
Trong văn châm biếm thường chứa đựng các ẩn ý khiến kẻ có “tật” phải “giật mình”, còn người đọc thì thích thú khi phát hiện ra khía cạnh mà tác giả có ngụ ý nói đến. Đó là hai ý tưởng gặp nhau, tạo nên một ấn tượng khó quên.
Đối với người dân, châm biếm hài hước nhiều khi có tác dụng giáo dục một cách nhẹ nhàng, sâu xa mà không kém phần hiệu quả. Những đoạn thơ, đoạn văn vừa góp phần baì trừ các tệ nạn xã hội, vừa có tính xây dựng. Tính bài trừ này thể hiện rõ ở dụng ý phê phán trong cái hài hước biểu hiện ngay ở nội dung tác phẩm. Châm biếm, hài hước còn có thể sử dụng các thủ thuật: so sánh, ẩn dụ, ví von... để tạo nên tiếng cười sảng khoái, sâu sắc và mang lại hiệu quả lớn.
3. Tính đả kích
Tiểu phẩm báo chí còn được sử dụng để đả kích, phê phán và lên án gay gắt những hành vi xấu xa, bỉ ổi cũng như những hành động thù địch của kẻ thù. Đối tượng bị đả kích có thể có tên tuổi, địa chỉ rõ ràng. Đả kích có tác dụng rõ rệt là đánh gục đối phương về mặt tinh thần.
Trong tiểu phẩm báo chí, tính đả kích, hài hước được thể hiện bằng cái cười nghiêm khắc đối với cái xấu xa bị bóc trần khỏi vỏ bọc ngoài đẹp đẽ, tạo cho người đọc có thái độ đúng dắn với tiêu cực, cái xấu và dễ dàng nhận diện được nó trong những cái tưởng như rất thường trong cuộc sống.
4. Cái hài trong Tiểu phẩm:
Trong các tiểu phẩm báo chí cái hài thuộc phạm trù mỹ học, phản ánh hiện thực phổ biến của đời sống xã hội ở những cung bậc khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự không tương xứng mà người ta có thê cảm nhận được. Khi bàn về cái hài, S.Cneepxki - nhà văn, nhà tư tưởng Nga đã viết “Cái hài là sự trống rỗng và sự vô nghĩa ở bên trong được che đậy bằng cái vỏ huênh hoang tự cho rằng có nội dung và ý nghĩa thực sự”.
Cái hài thường gắn với cái buồn cười, nhưng không phải cái buồn cười nào cũng có tính hài. Cái hài bao gồm ý nghĩa xã hội gắn liền với sự khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. Nó là sự phê phán mang tính cảm xúc sáng tạo tích cực có sức công phá mạnh mẽ đối với cái tiêu cực luôn tồn tại trong xã hội. Sức mạnh phê phán vừa có tính phủ định, vừa mang tính khẳng định. Nó phủ định cái xấu xa mang danh cái đẹp mà tính hài là cơ sở đặc trưng cái đẹp, vốn là của hiện thực. Trong các tác phẩm báo chí tiếng cười có nhiều cung bậc và những sắc thái khác nhau. “Người ta thường coi humuor, hài hước là cung bậc đầu tiên và châm biếm là cung bậc cuối cùng”.
Trong hài hước, phép biện chứng của trí tưởng tượng phóng khoáng hé mở cho thấy đằng sau cái tầm thường là vẻ cao quý, sau cái điên rồ là sự anh minh. Trong châm biếm, đối tượng của tiếng cười là thói hư tật xấu, vì thế nổi bật nên là giọng đả kích, phủ định, tố cáo dẫn đến tiếng cười mang các sắc thái khác nhau: cười khinh bỉ, mỉa mai, chua chát...
Bởi vì trong humuor, phép biện chứng của trí tưởng tượng, phóng khoáng hé mở cho ta thấy đằng sau cái tầm thường là cái cao quý, sau cái điên rồ là cái anh minh, sau cái buồn cười là nỗi đau. Trái lại, trong châm biếm, đối tượng của tiếng cười là thói hư, tật xấu, nên nổi bật lên là cái giọng đả kích, phủ định, tố cáo. Tiếng cười trong các tác phẩm, tiểu phẩm còn mang những sắc thái phong phú, da dạng: Cười khinh bỉ, cười thiện cảm, cười nghiêm khắc, cười chua chát... Dĩ nhiên trong tác phẩm tiểu phẩm, cái hài dù ở cung bậc nào cũng cần có ba yếu tố tạo thành.
Một là, bản chất mang tính hài hước của đối tượng mà ai cũng có thể dễ dàng cảm nhận được.
Hai là, sự cường điệu của những đường nét, kích thước và những liên hệ của chúng trong việc mô tả đối tượng.
Ba là, sự sắc bén, ý nhị, hóm hỉnh của người thể hiện nhằm làm tăng thên hiệu quả của tiếng cười.
Trong các tác phẩm của tiểu phẩm báo chí còn có hài hước, hay còn gọi là humuour- một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ yếu gây cười, mua vui. Trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa, cân đối giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là lý tưởng và thực tế, như dốt mà hay nói chữ, sợ vợ mà lên mặt làm chồng, trưởng giả học làm sang.
Khác với nghịch dị, hài hước trong tiểu phẩm thường biểu hiện tính chất kín đáo, thâm trầm, không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức độ nhẹ nhàng, đùa vui, thiện ý. Vì thế mà hài hước trong các tác phẩm tiểu phẩm biểu hiện sản phẩm trí tuệ, tài năng của tác giả. Đặc trưng của hài hước trong tiểu phẩm còn bởi sự khéo léo, nhẹ nhàng của tác giả, vạch ra các mâu thuẫn, tạo ra cái buồn cười, bất ngờ giúp công chúng nhận ra sự trớ trêu của tình huống, mỉm cười mà phân tích đúng sai.
5. Tính hài kịch trong tác phẩm tiểu phẩm:
Như trên đã nói, chủ đề tư tưởng của tác phẩm tiểu phẩm hướng vào sự cười nhạo cái xấu xa, lố bịch đối lập với lý tưởng xã hội hoặc chuẩn mực đạo đức. Nhân vật, sự kiện, hiện tượng của hài kịch trong tiểu phẩm thường không có sự tương xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài của mình nên đã trở thành lố bịch. Các tính cách trong hài kịch của tác phẩm tiểu phẩm thường được mô tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở trạng thái tĩnh, nhất là những nét gây cười. Phạm vi phản ánh của hài kịch trong các tác phẩm tiểu phẩm hết sức rộng lớn: từ những vấn đề chính trị - xã hội, đến những thói hư, tật xấu trong cuộc sống hàng ngày. Trong tác phẩm tiểu phẩm tính hài cũng có thể cho phép ở một góc độ nhất định sao cho nỗi đau không lấn át cái cười để từ đó hài kịch chuyển thành chính kịch.
Cái hài trong tiểu phẩm biến chất do nội dung cung bậc, tính chất của tiếng cười quyết định.
Nguồn: langthangtrenmang