Khiemnguyen

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2017

Camera đầu tiên của VTV


VTV.vn – VTV News xin giới thiệu tới quý độc giả bài viết của nhà báo Nguyễn Văn Vinh, Nguyên Phó Trưởng Tiểu ban tuyên truyền đối ngoại, Đài THVN về chiếc camera “Ngựa trời”.

Ngày nay, chỉ với chiếc máy quay bé xíu hay chiếc điện thoại thông minh, bất cứ ai cũng dễ dàng làm ra được những video clip có độ phân giải HD, thậm chí là 4K. Sự phát triển vượt bậc ấy của công nghệ càng làm cho tôi nhớ tới buổi phát sóng chương trình truyền hình đầu tiên của chúng ta được tạo ra bởi chiếc camera có tên “Ngựa Trời”.
Ngày 7 tháng 9 năm 1970, ngày phát sóng chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là một sự kiện quan trọng, đánh dấu việc ra đời của truyền hình ở miền Bắc, trong khi ở miền Nam đã có truyền hình vài năm trước đó.
Chiếc máy camera Ngựa Trời
Chiếc máy camera “Ngựa Trời”
Từ yêu cầu thực tế và sự phát triển của tình hình đất nước, Bộ biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, do ông Trần Lâm làm Tổng biên tập, đã nêu quyết tâm ra mắt chương trình truyền hình vào dịp kỷ niêm 25 năm thành lập Đài (7/9/1945 – 7/9/1970). Từ đầu năm 1970, Đài lập một nhóm cán bộ gọi tạm là “Ban chuẩn bị làm truyền hình” do Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Nhất phụ trách kỹ thuật và kinh tế, đứng đầu. Việc phân công này thể hiện sự quan tâm, ưu tiên khâu kỹ thuật nhằm đảm bảo sự thành công cho buổi truyền hình đầu tiên.
Yêu cầu mang tính quyết định lúc đó là xây dựng hạ tầng kỹ thuật truyền hình tối thiểu, gồm: trường quay với camera điện tử; máy phát sóng truyền hình; ăng ten phát sóng; máy thu hình. Vì không thể có ngoại tệ mạnh để mua thiết bị của nước ngoài, lãnh đạo Đài đã động viên anh chị em kỹ thuật phát huy tinh thần tự lực và sáng tạo, lắp các thiết bị truyền hình với linh kiện điện tử phát thanh sẵn có, quyết tâm phát sóng bằng được chương trình thử nghiệm vào ngày 7-9-1970.
Những yêu cầu cơ bản nêu trên Đài có thể giải quyết nhưng để tự lắp được một camera điện tử thì anh em kỹ thuật thật sự gặp muôn vàn khó khăn. Chúng ta không có bộ phận quan trọng nhất của một camera điện tử là ống thu hình Super Orthicon. Để khai thông vấn đề nan giải này, Tổng biên tập Trần Lâm đã viết thư cho ông Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về phát thanh và truyền hình Liên Xô phụ trách kỹ thuật để xin 2 ống thu hình Super Orthicon đã quá thời hạn sử dụng. Phía bạn đồng ý, một thời gian sau, 2 ống thu hình điện tử được ông Lê Tiến, Trưởng đoàn thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại Moscow mang về để anh em kỹ thuật lắp ráp. Đối với Đài truyền hình Trung ương Liên Xô, những ống thu hình này đã quá tuổi thọ, nhưng để làm chương trình thử nghiệm ở Việt Nam thì vẫn còn dùng được.
Các kỹ sư lắp ráp chiếc camera Ngựa Trời
Các kỹ sư lắp ráp chiếc camera “Ngựa Trời”
Từ đầu tháng 8 năm 1970, công việc lắp camera điện tử được tiến hành khẩn trương. Sau nhiều ngày đêm miệt mài nghiên cứu, các cán bộ kỹ thuật đã được lắp chiếc camera điện tử đầu tiên, cho ra những hình ảnh lờ mờ trôi trên màn hình. Mọi người rất vui và phấn khởi khi thấy với những linh kiện dùng cho phát thanh được gom từ nhiều nguồn cùng những nỗ lực không mệt mỏi của anh chị em, chiếc camera đã cho ra hình ảnh có thể sử dụng được. Sau một thời gian tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện, 2 camera điện tử đã được lắp ráp thành công. Tuy một số tính năng còn chưa hoàn chỉnh như: không di chuyển được, 3 ống kính khó thay đổi khi bắt hình, nhưng cả 2 camera đều đã cho ra hình ảnh trên monitor.
Về hình thức, 2 camera này trông khá lạ mắt. Anh em kỹ thuật đã tạo một cái “hộp” đặt vừa ống thu hình Super Orthicon và các bảng mạch linh kiện điện tử cồng kềnh thời đó. Camera trông hơi thô nhưng cho hình ảnh sử dụng đươc. Một số anh chị em gọi đùa đó là “thùng lạc rang” của người bán dạo trên hè phố thời đó. Nhưng Bộ biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam lại nhìn những camera này dưới một góc độ khác.
Ông Trần Lâm đánh giá cao quyết tâm, tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cường của anh chị em kỹ thuật và từ hình dáng độc đáo của nó, 2 camera được đặt tên là “Ngựa Trời”, lần lượt có số hiệu “NT1″ và “NT2″. “Ngựa Trời” là tên một loại súng tự tạo của quân Giải phóng miền Nam, được sử dụng trong chiến đấu, phóng đầu đạn lớn gây nỗi kinh hoàng cho quân địch. Việc đặt tên “Ngựa Trời” thể hiện tình cảm sâu nặng của anh chị em Đài Tiếng nói Việt Nam với miền Nam. Đó cũng là niềm tự hào về lòng quyết tâm, sự sáng tạo của một thế hệ từ hai bàn tay trắng đã tạo nên được những chiếc camera có một không hai này.
Tổng biên tập Trần Lâm phát biểu ra mắt buổi truyền hình đầu tiên
Tổng biên tập Trần Lâm phát biểu ra mắt buổi truyền hình đầu tiên
Camera điện tử “Ngựa Trời” đã làm tròn sứ mạng của mình trong buổi phát sóng chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên vào 19h ngày 7 tháng 9 năm 1970, tại Studio M (phòng thu nhạc lớn) 58 phố Quán Sứ, Hà Nội. Chiếc camera thô sơ chính là “linh hồn” của buổi truyền hình kéo dài gần hai tiếng đồng hồ với đầy đủ các chương trình Thời sự, Những bông hoa nhỏ và Ca nhạc.
Để tránh rủi ro “tàng hình”, điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào, các đạo diễn đề nghị giữ camera “Ngựa Trời” cố định, chỉ sử dụng một ống kính; phải điều chỉnh khoảng cách của phát thanh viên, giá để bảng chữ sao cho camera chỉ lia qua, lia lại để bắt hình. Mỗi lần chuyển cảnh từ phát thanh viên sang bảng chữ hay đổi diễn viên, phải đậy nắp ống kính để chuyển máy, bắt hình mới. Khán giả trong trường quay vừa xem cảnh thật, vừa xem hình trên monitor, lúc im phắc, lúc lại rộ lên “rõ quá! rõ quá!”.
Chương trình thiếu nhi những ngày đầu của Đài THVN
Chương trình thiếu nhi những ngày đầu của Đài THVN
PTV Nguyễn Thơ đọc bản tin Thời sự
PTV Nguyễn Thơ đọc bản tin Thời sự
Thành công của buổi truyền hình ngày ấy là bước ngoặt đánh dấu sự ra đời của truyền hình ở miền Bắc, tạo nguồn lực cơ bản góp phần quan trọng vào việc tiếp quản và vận hành Đài Truyền hình Sài Gòn 5 năm sau đó (30/4/1975). Đó cũng là nền tảng vững chắc cho sự phát triển mang tính đột phá của Đài Truyền hình Việt Nam như ngày nay.
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số với những thay đổi đến chóng mặt trong kỹ thuật truyền hình và công nghệ thông tin, nhưng những chiếc Camera “Ngựa Trời” 45 năm trước đã để lại một dấu ấn sâu đậm, không thể phai mờ về quyết tâm và sự sáng tạo của con người Việt Nam.

Tổng quan về công tác thống kê


Thông tin thống kê có vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách, quản lý và điều hành nền kinh tế. Trong thời đại ngày nay, mọi hoạt động của xã hội đều gắn với thông tin nói chung và đặc biệt là thông tin thống kê kinh tế - xã hội nói riêng
Trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, ngành Thống kê luôn đảm bảo đáp ứng tương đối đầy đủ các thông tin kinh tế xã hội phục vụ Đảng và chính quyền các cấp, các ngành trong hoạch định chính sách và chỉ đạo điều hành nền kinh tế. Hiện nay, nhu cầu sử dụng thông tin thống kê ngày càng nhiều, không chỉ từ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ngành mà còn từ nhiều đối tượng khác trong và ngoài nước, đòi hỏi ngành Thống kê phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng đầy đủ hơn, kịp thời hơn. Thực tế hiện nay người sử dụng còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm, khai thác thông tin thống kê. Phạm vi thống kê chưa bắt kịp sự phát triển nhanh của một số lĩnh vực, chưa phản ánh sát kết quả hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động kinh tế đang được xã hội hoá cao.
Để phục vụ kịp thời và hiệu quả hơn việc xây dựng và điều hành các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phục vụ quá trình dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, Lãnh đạo Tổng cục Thống kê đã chỉ đạo để tìm ra các giải pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng thông tin thống kê. Nâng cao chất lượng thông tin thống kê là vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Bài viết này giới thiệu tổng quan những vấn đề chung về chất lượng thông tin thống kê.
I. Một số vấn đề chung về chất lượng thông tin thống kê
1. Khái niệm chất lượng thông tin thống kê
Khái niệm chung nhất về chất lượng thông tin thống kê được hiểu đó là "sự phù hợp cho sử dụng". Ban đầu các nhà thống kê hiểu và đồng nhất chất lượng thông tin thống kê với tính chính xác của nó. Cách hiểu như vậy chưa đầy đủ vì nếu thông tin chính xác nhưng được tính toán và công bố chậm, hoặc người sử dụng không thể tiếp cận để có thông tin thì cũng không thể nói thông tin thống kê có chất lượng vì nó không có ý nghĩa dưới góc độ người sử dụng. Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Thống kê Canađa đã đưa ra định nghĩa: "Chất lượng của thông tin thống kê là sự phù hợp sử dụng của khách hàng".
Để đáp ứng nhu cầu của ‘’khách hàng‘’ đối với thông tin thống kê, cơ quan thống kê phải xác định yêu cầu của người sử dụng là gì. Dựa vào điều kiện hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia, ý thức phục vụ người sử dụng, mỗi cơ quan thống kê có cách tiếp cận tới khái niệm chất lượng và đưa ra các tiêu thức riêng để phản ánh chất lượng thông tin thống kê. Với chức năng nhiệm vụ và mục tiêu, mỗi tổ chức quốc tế có cách tiếp cận riêng tới khái niệm và lựa chọn các tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê khác nhau. Chẳng hạn, Quỹ tiền tệ quốc tế quan tâm nhiều tới phương pháp luận thống kê nên đã xây dựng một lược đồ đánh giá chất lượng thông tin theo thứ bậc với năm cấp. Cấp một có năm tiêu thức phản ánh chất lượng và hiểu đó là các điều kiện tiên quyết, bao gồm: tính trung thực; tính tin cậy về phương pháp luận; tính chính xác; khả năng tiếp cận và khả năng phục vụ. Cấp hai và cấp ba bao gồm các yếu tố và các chỉ tiêu của chất lượng. Cấp bốn đề cập tới những vấn đề tập trung đặc biệt và cấp năm liên quan tới những điểm cơ bản cần thực hiện để đảm bảo chất lượng thông tin.
Cơ quan Thống kê Châu Âu với quan điểm đặt người sử dụng và các yêu cầu của họ đối với số liệu thống kê vào trọng tâm trong công tác nên cơ quan này đã dựa vào các định mức của tiêu chuẩn ISO 8402 để đưa ra 7 tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê, bao gồm: tính phù hợp, tính chính xác, khả năng tiếp cận, tính kịp thời, tính chặt chẽ, khả năng so sánh và tính đầy đủ. Cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc (UNSD) và một số tổ chức khác như tổ chức Nông nghiệp và Lương thực quốc tế đưa ra ý tưởng về chất lượng thông tin chỉ tập trung vào một số yếu tố phản ánh về chất lượng. Chẳng hạn, vào năm 1996, UNSD đã công bố Quy tắc phổ biến số liệu áp dụng trong thực tế thống kê, đồng thời UNSD cũng tiến hành rà soát trong nội bộ công tác thu thập số liệu, hiệu chỉnh và công bố thông tin để tìm ra phương pháp tốt nhất cho các hoạt động thu thập số liệu, hiệu chỉnh, đánh giá và công bố các bản siêu dữ liệu.
Khác với các tổ chức thống kê quốc tế, căn cứ vào tình hình thực tiễn và trình độ phát triển của từng nước, các cơ quan Thống kê quốc gia nghiên cứu và lựa chọn các tiêu thức riêng để áp dụng trong công tác quản lý chất lượng thông tin thống kê của nước mình. Cơ quan Thống kê Canađa - một trong những cơ quan thống kê quốc gia đi đầu trên thế giới trong thực hiện quản lý chất lượng thông tin thống kê và coi công tác này có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình quản lý chung của toàn bộ cơ quan đã lựa chọn sáu tiêu thức sau: tính phù hợp, tính chính xác, tính kịp thời, khả năng tiếp cận, tính chặt chẽ và khả năng giải thích. Thống kê Thụy Điển quan niệm chất lượng sản phẩm thống kê là chất lượng của các thông tin đầu ra do người sử dụng quyết định. Sản phẩm thống kê được coi là có chất lượng nếu hầu hết người sử dụng tin tưởng rằng sai số thống kê được kiềm chế và trong một khoảng cho phép, độ lệch chuẩn và khoảng tin cậy phản ánh đúng thực tế. Thống kê Thụy Điển có trách nhiệm bảo đảm số liệu thống kê phù hợp với mục đích của người dùng tin và chỉ lựa chọn năm tiêu thức để phản ánh chất lượng thông tin: tính chính xác, khả năng tiếp cận, tính kịp thời, tính chặt chẽ và khả năng so sánh.
2. Thống kê Việt Nam lựa chọn các tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin
Dựa vào Điều 4 của Luật Thống kê, xét điều kiện thực tế của Việt Nam, đồng thời tham khảo việc lựa chọn các tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin của tổ chức thống kê các nước và quốc tế, Tổng cục Thống kê đề xuất sáu tiêu thức nên lựa chọn trong công tác quản ký và nâng cao chất lượng thông tin thống kê:tính phù hợp, tính chính xác, tính kịp thời,khả năng tiếp cận, khả năng giải thích và tính chặt chẽ. Đề xuất sáu tiêu thức dựa trên những cơ sở chủ yếu sau đây:
a, Để đảm bảo tính trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời trong hoạt động thống kê được qui định trong Luật Thống kê đòi hỏi thông tin thống kê phải đáp ứng các tiêu thức về tính phù hợp, tính chính xác và tính kịp thời. Luật thống kê cũng qui định "Công khai về phương pháp thống kê, công bố thông tin về thống kê" và "Bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận và sử dụng thông tin thống kê nhà nước phải được công bố công khai". Hai nguyên tắc này đòi hỏi thông tin thống kê phải đáp ứng các tiêu thức về khả năng tiếp cận và khả năng giải thích.
b, Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng độ tin cậy của thông tin thống kê đó là phương pháp luận áp dụng trong thu thập, xử lý và biên soạn các chỉ tiêu chưa đồng bộ và thống nhất. Tính chặt chẽ đòi hỏi TCTK phải sử dụng thống nhất các khái niệm, phân loại chuẩn và phương pháp luận trong toàn bộ hệ thống thống kê, vì vậy tiêu thức tính chặt chẽ rất cần thiết và phù hợp với tình hình thực tiễn của TCTK.
c, Áp dụng sáu tiêu thức là điều kiện cần để TCTK đáp ứng 10 nguyên tắc cơ bản của thống kê nhà nước do các tổ chức thống kê quốc tế nêu ra, đảm bảo uy tín của TCTK và đảm bảo chất lượng của thông tin thống kê.
d, Lựa chọn sáu tiêu thức phù hợp với xu thế lựa chọn chung của cơ quan thống kê các nước và các tổ chức quốc tế, đảm bảo tính tương thích trong cách hiểu, phương pháp tiếp cận đến phương pháp quản lý chất lượng thông tin thống kê và trong chừng mực nào đó đảm bảo khả năng so sánh giữa các cơ quan thống kê quốc gia.
Sáu tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê có nội dung như sau :
(i) Tính phù hợp của số liệu thống kê được thể hiện qua mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng. Đánh giá mức độ phù hợp của số liệu thống kê phụ thuộc vào nhu cầu khác nhau và hay thay đổi của người dùng tin. Với nguồn lực có hạn, cơ quan thống kê không thể đáp ứng tất cả nhu cầu của người dùng tin mà phải xác định những loại số liệu biên soạn nhằm giải quyết bất cập giữa nhu cầu thông tin đa dạng với nguồn lực có hạn nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của người sử dụng.
(ii) Tính chính xác của số liệu thể hiện qua mức độ phản ánh sát thực các hiện tượng kinh tế, xã hội của các chỉ tiêu thống kê. Không thể đòi hỏi số liệu thống kê phản ánh đúng hiện tượng vì thông tin thống kê đầu vào dùng để tính toán luôn chứa đựng sai số hệ thống và sai số ngẫu nhiên.
(iii) Tính kịp thời của số liệu thống kê biểu thị độ trễ về thời gian giữa thời kỳ hay thời điểm số liệu thống kê phản ánh với thời điểm công bố số liệu. Luôn có sự đánh đổi giữa tính chính xác và tính kịp thời của số liệu thống kê, yêu cầu số liệu càng nhanh thì độ chính xác của số liệu càng kém.
(iv) Khả năng tiếp cận của số liệu thống kê thể hiện mức độ dễ dàng để có được số liệu từ các cơ quan thống kê. Khả năng tiếp cận thể hiện ở hai khía cạnh: Mức độ dễ dàng để có thể xác minh được số liệu thống kê cần có và sự phù hợp của các phương thức tiếp cận số liệu.
(v) Khả năng giải thích của số liệu thống  phản ánh mức độ sẵn có của những thông tin bổ sung và các bảng giải thích cần thiết giúp cho người dùng tin hiểu và sử dụng số liệu một cách chính xác và hợp lý, bao gồm: khái niệm của chỉ tiêu, các phương pháp phân loại đang áp dụng, phương pháp thu thập và xử lý thông tin, phương pháp luận dùng trong biên soạn chỉ tiêu và chỉ rõ mức độ chính xác của số liệu thông tin thống kê.
(vi) Tính chặt chẽ của số liệu thống kê phản ánh mức độ kết hợp số liệu từ các nguồn khác nhau để đưa vào cùng một lược đồ số liệu rộng hơn theo thời gian. Tính chặt chẽ đòi hỏi cơ quan thống kê phải sử dụng thống nhất các khái niệm, phân loại chuẩn và phương pháp luận trong toàn bộ hệ thống thống kê.
Các tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê mang ý nghĩa định tính. Trong quản lý, các nhà thống kê đã xây dựng Hệ thống đánh giá chất lượng thông tin để đo lường chất lượng thông tin về mặt định lượng. Hệ thống này tập trung đánh giá trên sáu lĩnh vực: (i) Môi trường làm ra thông tin thống kê, (ii) Tính phù hợp của qui trình làm ra thông tin thống kê, (iii) Tính chính xác của hoạt động thu thập thông tin, (iv) Tính hoàn hảo của thông tin thống kê đã công bố, (v) Mức độ thoả mãn nhu cầu của người sử dụng, (vi) Nỗ lực hoàn thiện chất lượng thông tin. Trong mỗi lĩnh vực đều lựa chọn một số chỉ tiêu để đánh giá và cuối cùng lượng hoá bằng điểm số cho cả hệ thống.
II. Thực trạng chất lượng thông tin thống kê của nước ta
1. Thực trạng chất lượng thông tin thống kê nước ta
Trên cơ sở lựa chọn sáu tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê, trong phần này chúng tôi đề cập tới thực trạng chất lượng thông tin thống kê theo những tiêu thức này.
1.1. Tính phù hợp của thông tin thống kê là một đòi hỏi cao và khó đối với ngành Thống kê vì yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin thống kê rất đa dạng và có tính phức tạp khác nhau. Cơ quan quản lý nhà nước cần nhiều thông tin mang tính tổng hợp, ngược lại yêu cầu thông tin của nhà đầu tư lại rất cụ thể về các yếu tố sản xuất, kết quả sản xuất và chi tiết đến từng ngành, nhóm ngành.
Do yêu cầu đa dạng và phức tạp của các đối tượng sử dụng, ngành Thống kê không bao giờ đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi của tất cả các đối tượng sử dụng chủ yếu và các đối tượng khác. Nhìn chung số liệu của Tổng cục Thống kê ngày càng mở rộng và đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của các đối tượng dùng tin, nhưng mới đảm bảo một phần yêu cầu và còn thiếu nhiều chỉ tiêu như: Chỉ tiêu phản ánh về tiến bộ kỹ thuật và áp dụng công nghệ kỹ thuật mới, chỉ tiêu phản ánh về năng lực sản xuất và sử dụng năng lực của một số ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân,... Mặt khác còn có sự trùng chéo về thông tin thống kê đầu ra giữa TCTK và một số Bộ, ngành liên quan. Số liệu thống kê của các chuyên ngành phân tổ theo vùng lãnh thổ còn bất cập, chưa phù hợp, chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng.
1.2. Tính chính xác. Hiện nay ngành Thống kê chưa lượng hoá được các sai số, đồng thời mức độ chính xác của số liệu mới chỉ đánh giá mang tính chất định tính và theo kinh nghiệm của các chuyên gia. Nhìn chung, số liệu thống kê tính chung cho toàn bộ nền kinh tế đã phản ánh đúng bản chất và xu hướng của các hiện tượng kinh tế, xã hội như: tốc độ tăng trưởng của sản xuất, cơ cấu kinh tế,... Tuy vậy, mức độ tiệm cận của xu hướng so với thực tế vẫn chưa sát do số liệu thống kê còn chứa đựng các sai số không chỉ do chủ quan của cán bộ thống kê, mà còn bị ảnh hưởng của tư tưởng thành tích cục bộ, áp đặt số liệu theo chủ quan duy ý chí của lãnh đạo các cấp.
Tính chính xác của số liệu thống kê còn được đánh giá thông qua mức độ chênh lệch của số liệu ước tính, số liệu sơ bộ và số liệu chính thức. Qua tìm hiểu một số chuyên ngành cho thấy tính chính xác của số liệu thống kê hiện nay vẫn là chủ đề gây nhiều tranh luận. Hiện tượng chênh lệch giữa số liệu ước, số liệu sơ bộ và số liệu chính thức, giữa số liệu tổng hợp chung của toàn quốc với số liệu của các địa phương là khá phổ biến. Hiện tượng này phát sinh ở hầu hết các chuyên ngành.
1.3. Tính kịp thời. Ngành Thống kê đã tổ chức thu thập, tổng hợp và công bố số liệu vào những thời điểm, dưới các dạng số liệu khác nhau: số ước tính, số sơ bộ và số chính thức. Chế độ báo cáo thống kê định kỳ áp dụng đối với các Cục Thống kê đã bổ sung nhiều chỉ tiêu so với trước và các biểu báo cáo đã thay đổi về thời gian để có thông tin kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng. Ngành Thống kê đã tăng số kỳ báo cáo của nhiều chỉ tiêu nên đã nâng cao hơn tính kịp thời trong cung cấp thông tin thống kê. Tuy vậy, tính kịp thời của thông tin thống kê còn chưa đồng đều giữa các ngành, các nhóm chỉ tiêu. Nhiều chỉ tiêu, báo cáo chính thức, đặc biệt là các chỉ tiêu báo cáo năm, số liệu của các cuộc tổng điều tra thống kê,... còn chậm đã làm giảm tính thời sự và giá trị của thông tin.
1.4. Khả năng tiếp cận. Số liệu thống kê được biên soạn nhằm mục đích hướng tới nhu cầu của người sử dụng và phổ biến rộng rãi dưới nhiều hình thức. Trong các hình thức phổ biến khác nhau, trang Web của TCTK được người dùng tin đánh giá cao. Tuy vậy, việc cung cấp thông tin thống kê vẫn còn những hạn chế. Chưa công bố rộng rãi một số thông tin ước tính và thường tập trung công bố một số chỉ tiêu quan trọng, cho một số đối tượng sử dụng chủ yếu như: Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan trực tiếp. Nhiều thông tin chỉ công bố hạn chế ở mức độ tổng hợp và cho phạm vi cả nước. Số lượng và chủng loại các ấn phẩm còn ở mức khiêm tốn, chưa đa dạng, chậm được cải tiến cả về hình thức và nội dung thông tin. Thông tin để người sử dụng có thể khai thác qua mạng chưa nhiều và chưa được cập nhật kịp thời. Công tác tuyên truyền quảng bá về thống kê còn ít. Chưa có cơ chế rõ ràng về cung cấp các thông tin chuyên sâu, chi tiết, các cơ sở dữ liệu vi mô. Do vậy, việc cung cấp các loại thông tin còn mang tính tự phát, tuỳ tiện và nhiều khi không thống nhất giữa các đối tượng khác nhau.
1.5. Khả năng giải thích. Ngành Thống kê đã quan tâm đến khả năng giải thích của số liệu và trên thực tế đã đáp ứng được yêu cầu của các đối tượng sử dụng về tính công khai, minh bạch đối với phương pháp thu thập thông tin và chế độ báo cáo. Phương án của các cuộc tổng điều tra được công khai trên trang Web của TCTK để mọi đối tượng có thể tìm hiểu. Phổ biến thông tin thống kê có kèm theo các bảng giải thích về khái niệm, nội dung, phương pháp tính. Tuy vậy, vẫn còn những tồn tại cần khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa khả năng giải thích của số liệu thống kê trong thời gian tới với mục tiêu để đa số người sử dụng biết được những thông tin nào hiện có, phương pháp thu thập và tính toán các chỉ tiêu cũng như thời điểm cung cấp số liệu.
1.6. Tính chặt chẽ. Số liệu thống kê cơ bản đã đảm bảo tính chặt chẽ và lôgíc cả về không gian và thời gian. Số liệu sơ cấp được thu thập, tính toán dựa trên các khái niệm, định nghĩa và phân tổ theo một chuẩn mực thống nhất nên có thể dùng để tổng hợp và liên kết giữa các chỉ tiêu có liên quan. Số liệu tổng hợp được sắp xếp theo trình tự khoa học, thống nhất về phạm vi và cách phân tổ.
Quá trình thiết kế các loại phiếu điều tra được thực hiện một cách đồng bộ ở các khâu công việc từ việc xác định nhu cầu, nội dung điều tra đến xây dựng phương án, thiết kế mẫu, phiếu điều tra, tài liệu hướng dẫn cũng như các qui trình bắt buộc trong điều tra. Chế độ báo cáo thống kê thường xuyên được nghiên cứu, bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với nhu cầu thông tin trong từng thời kỳ và đặc điểm tổ chức sản xuất của các đơn vị đề xuất những nội dung và hình thức báo cáo phù hợp. Tuy vậy đi sâu tìm hiểu số liệu chi tiết của ngành còn thấy bất hợp lý. Phần lớn số liệu chỉ sử dụng được ở mức độ toàn nền kinh tế, phân tổ đối với ngành cấp I và cấp II. Các bộ số liệu khác nhau phân tổ chi tiết đến ngành cấp III còn có mâu thuẫn. Giữa Tổng cục với các Cục Thống kê và giữa các Cục Thống kê với nhau chưa có sự thống nhất về nội dung, phương pháp điều tra thu thập số liệu, tổng hợp, tính toán và suy rộng trên địa bàn lãnh thổ. Chưa đảm bảo tính hệ thống và thiếu sự chỉ đạo thống nhất, mặc dù nội dung, nguồn thông tin và phương pháp tính của nhiều chỉ tiêu đã được xây dựng theo những qui trình chặt chẽ và khoa học nhưng trên thực tế việc tổ chức thực hiện chưa nghiêm túc.
2. Các nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng thông tin thống kê
2.1. Phương pháp thống kê có vai trò quan trọng, không những quyết định phương pháp tính các chỉ tiêu cụ thể mà còn quyết định tới các hoạt động thống kê có liên quan. Với thực tế hiện nay về phương pháp thống kê của ngành, Tổng cục cần rà soát và hoàn thiện phương pháp thống kê thuộc tất cả các lĩnh vực. Đây là một nội dung lớn, cần đưa ra thành một chương trình công tác trọng tâm của ngành. Ở đây chúng tôi chỉ liệt kê một vài nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng của một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đó là: Phạm vi tính chưa đầy đủ; đơn vị thống kê dùng để thu thập thông tin chưa phù hợp; phương pháp tính còn nhiều bất cập, chưa tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc cơ bản khi tính chỉ tiêu; qui trình tính chưa phù hợp và khoa học.
2.2. Tính đồng bộ của số liệu thống kê được phản ánh trên hai góc độ: đồng bộ giữa số liệu đầu vào và chỉ tiêu đầu ra được đề cập theo các nội dung sau: (i) Giữa số liệu trung ương và số liệu địa phương, (ii) Số liệu giữa TCTK và các Bộ, Ngành, (iii) Giữa chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu chuyên ngành, (iv) Giữa số liệu dự báo và số liệu chính thức. Đồng bộ về phương pháp và công cụ dùng trong biên soạn các chỉ tiêu được đề cập theo các nội dung sau: (i) Đồng bộ giữa số liệu thống kê chuyên ngành và thống kê tổng hợp, (ii) Đồng bộ giữa thống kê tài khoản quốc gia thuộc TCTK với các Cục Thống kê, (iii) Đồng bộ của thống kê chuyên ngành, giữa TCTK với các Cục Thống kê.
2.3. Cơ chế quản lý và một số yếu tố khác như: quan niệm của người sử dụng thông tin, phương thức phổ biến thông tin, sự hiểu biết của người sử dụng về qui trình sản xuất số liệu thống kê cũng là những nhân tố tác động tới chất lượng của thông tin thống kê. Chẳng hạn, Cục Thống kê các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu sự quản lý của TCTK về nghiệp vụ chuyên môn, nhưng hệ thống chính trị thuộc sự quản lý của địa phương. Do bệnh thành tích và một số lý do khách quan khác, lãnh đạo tỉnh và thành phố đôi khi can thiệp vào số liệu do các Cục Thống kê tính.
III. Một số vấn đề cần nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng thông tin thống kê
1. Hoàn thiện phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê có tầm quan trọng đặc biệt vì nó sẽ quyết định tới các loại thông tin thống kê đầu vào, tới đối tượng thu thập thông tin, phương pháp và công cụ dùng trong tính toán các chỉ tiêu thống kê đầu ra. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi đề xuất một số nội dung cơ bản nhất về hoàn thiện phương pháp thống kê trong tổng thể các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin thống kê, bao gồm các nội dung sau:
1.1. Đơn vị thống kê. TCTK cần nghiên cứu và hoàn thiện từng loại cụ thể đơn vị thống kê với mục đích biên soạn từng chỉ tiêu kinh tế cụ thể. Vụ Phương pháp chế độ thống kê phối hợp với các đơn vị có liên quan thực hiện nội dung này.
1.2. Xây dựng và áp dụng các bảng phân loại. Bên cạnh việc rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các bảng danh mục hiện có TCTK cần tiếp tục nghiên cứu và trình Chính phủ ban hành một số bảng phân loại mới. Khi đã xây dựng và ban hành các bảng phân loại và danh mục, Tổng cục phải có biện pháp áp dụng vào từng lĩnh vực thống kê phù hợp. Việc áp dụng phải đáp ứng hai yêu cầu: (i) áp dụng ở mức độ chi tiết, đảm bảo yêu cầu tính chi tiết của các lĩnh vực thống kê và đáp ứng khả năng so sánh, (ii) áp dụng thống nhất cho các lĩnh vực thống kê có liên quan.
1.3. Xác định phương pháp và qui trình tính. Đảm bảo sự nhất quán và thống nhất về phương pháp thống kê có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong kế hoạch công tác giai đoạn 2007 - 2010, TCTK nên dành nguồn lực và thời gian thoả đáng để xác định các phương pháp thống kê phải áp dụng trong thống kê tổng hợp và thống kê chuyên ngành.
Việc thực hiện phương pháp thống kê có liên quan tới tất cả các nghiệp vụ chuyên môn, liên quan giữa TCTK với các Cục Thống kê, giữa TCTK với các Bộ, ngành. Để đảm bảo chất lượng thông tin thống kê nói chung, đảm bảo khả năng so sánh và độ tin cậy về phương pháp áp dụng đòi hỏi các đơn vị trong Tổng cục phải tuân thủ và áp dụng thống nhất phương pháp thống kê. Tổng cục có thể áp dụng một số giải pháp nhằm tạo ra sự nhất quán và thống nhất giữa các đơn vị trong Tổng cục; giữa các đơn vị trong Tổng cục và các Cục Thống kê; giữa TCTK và các Bộ, ngành.
1.4. Qui trình tính toán cần nghiên cứu và đổi mới đối với từng chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Đối với GDP Tổng cục nên áp dụng qui trình tính từ trên xuồng. Áp dụng qui trình này có các ưu điểm; (i) Kiểm soát được phạm vi thu thập thông tin của các Cục Thống kê, (ii) Không mất thời gian và lực lượng cán bộ để kiểm soát việc tính toán và áp dụng thống nhất phương pháp tính của các Cục thống kê, (iii) loại trừ bệnh thành tích muốn có tốc độ tăng trưởng cao của các tỉnh, thành phố, (iv) Với việc áp dụng đơn vị cơ sở làm đơn vị thống kê, Tổng cục Thống kê sẽ loại trừ hiện tượng chênh lệch giữa số liệu của trung ương và địa phương, (v) Thực hiện đúng Luật Thống kê qui định: "Thủ trưởng cơ quan thông kê trung ương công bố thông tin thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia", (vi) Tổng cục có thể sắp xếp lại đội ngũ cán bộ giữa trung ương và địa phương.
2. Nghiên cứu các giải pháp quản lý chất lượng số liệu thống kê
2.1. Quản lý tính phù hợp. TCTK cần xây dựng kế hoạch rà soát định kỳ nhu cầu của người sử dụng. Quá trình rà soát có thể thực hiện theo bốn nhóm hoạt động sau:
a, Xây dựng cơ chế phản hồi của người dùng tin, bao gồm: thành lập Hội đồng thống kê quốc gia; thành lập Hội đồng tư vấn chuyên môn cho các lĩnh vực thống kê chủ yếu của TCTK; trao đổi định kỳ với phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để tìm hiểu nhu cầu thông tin của giới doanh nghiệp và thông báo cho họ chính sách phục vụ và phổ biến thông tin của TCTK; trao đổi định kỳ với các cơ quan Thống kê nước ngoài và các tổ chức quốc tế để tìm hiểu nhu cầu mới về thông tin thống kê,…
b, Rà soát lại các chương trình công tác thống kê nghiệp vụ và thống kê tổng hợpnhằm đánh giá mức độ thoả mãn nhu cầu của người sử dụng. Tất cả các đơn vị trong Tổng cục phải làm báo cáo định kỳ đề cập rõ việc thực hiện chương trình công tác, xác định phương hướng, rà soát tiêu thức tính phù hợp của số liệu thống kê và đề xuất những thay đổi trong thời gian tới. Tất cả các đề xuất trong báo cáo sẽ được cân nhắc trong quá trình lập kế hoạch công tác thống kê cho giai đoạn tiếp theo.
c. Phân tích số liệu. Hoạt động phân tích số liệu sẽ phát hiện ra bản chất bên trong của số liệu hiện có và sẽ biết được số liệu thuộc đơn vị nào để đưa thành nhiệm vụ công tác cho một số Vụ thống kê có liên quan, hoặc có thể thành lập các tổ phân tích với cơ chế linh hoạt.
d. Lập kế hoạch phát triển công tác số liệu của ngành thống kê cho giai đoạn trung và dài hạn sẽ được cung cấp một lược đồ chiến lược phát triển một cách bài bản và làm cơ sở đưa ra những thay đổi trong chương trình công tác của ngành trong các năm tiếp theo. TCTK nên đưa việc lập kế hoạch phát triển công tác thông tin nên trở thành một chương trình nghị sự quan trọng trong Hội nghị Tổng kết công tác thống kê hàng năm. Đề nghị lãnh đạo các cấp trong Ngành xác định những công việc nào chưa cần thiết thực hiện trong năm tới và vài năm tiếp theo, đồng thời khuyến khích mọi ý kiến đề xuất những công việc cần làm nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng tin.
2.2. Quản lý tính chính xác. Chất lượng thông tin đầu vào quyết định tính chính xác của số liệu thống kê. Hiện nay, thông tin thống kê đầu vào chủ yếu dựa vào các cuộc điều tra, các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin điều tra, bao gồm các nội dung phù hợp với qui trình điều tra: (i) Thiết kế chương trình điều tra; (ii) Thực hiện điều tra; (iii) Đánh giá chất lượng của số liệu điều tra; (iv) Đánh giá việc tuân thủ phương án điều tra.
2.3. Quản lý tính kịp thời. Tổng cục Thống kê cần nghiên cứu, áp dụng một số giải pháp sau: (i) Phân loại số liệu và xác định thời điểm công bố đối với từng loại số liệu; (ii) Rà soát và hoàn thiện chính sách phổ biến thông tin đối với từng chỉ tiêu thống kê; (iii) Thông báo trước kế hoạch, trong đó nêu rõ thời điểm công bố các loại số liệu; (iv) Xây dựng kế hoạch, xác định thời gian hoàn thành và xây dựng chương trình giám sát việc thực hiện kế hoạch cho từng hoạt động thống kê của từng lĩnh vực hoạt động cụ thể; (v) Nghiên cứu và tiến tới áp dụng hoàn thiện công nghệ thông tin vào mọi khâu và mọi quá trình hoạt động thống kê để nâng cao năng lực, giảm thời gian xử lý và truyền đưa thông tin.
2.4. Quản lý khả năng tiếp cận. TCTK cần thực hiện một số giải pháp như sau; (i) Tìm hiểu sở thích của người dùng tin và thành lập Tổ nghiên cứu thị trường; (i) Tiến hành lập hồ sơ của các đối tượng sử dụng thông tin thống kê; (iii) Xây dựng trang Web trở thành phương thức phổ biến số liệu chủ yếu của Tổng cục và đưa trang Web trở thành một thư viện thông tin; (iv) Xây dựng mối liên hệ phổ biến thông tin thống kê qua hệ thống thư viện quốc gia, hệ thống thư viện của trung tâm thông tin quốc gia của Bộ Khoa học và Công nghệ, hệ thống thư viện của các trường Đại học; (v) Quản lý tập trung và thống nhất hoạt động công bố và phổ biến số liệu qua "Qui chế công bố thông tin thống kê"; (iv) Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ thống kê qua việc thành lập một bộ phận khách hàng.
2.5. Quản lý khả năng giải thích. TCTK có trách nhiệm giải thích cho người sử dụng hiểu rõ các loại số liệu thống kê hiện có. Khi công bố bất kỳ một chỉ tiêu hay một loại số liệu thống kê nào, Tổng cục phải cung cấp các thông tin có liên quan như khái niệm, phân loại hiện đang áp dụng để biên soạn số liệu; phương pháp thu thập số liệu và phương pháp tính các chỉ tiêu; đánh giá tính chính xác của số liệu. Nên đưa ra danh mục những chỉ tiêu đã được tính toán, đồng thời cũng chỉ ra những tồn tại của phương pháp và đánh giá cách tính tốt đến mức nào. Biên soạn các bản siêu dữ liệu của hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và các chỉ tiêu thống kê khác.
TCTK cần xây dựng và thực hiện chính sách phổ biến kiến thức cho những người dùng tin. Mỗi loại đối tượng phải có phương thức và nội dung phổ biến phù hợp. Đối với các đại biểu Quốc hội, Tổng cục nên có những buổi báo cáo khái niệm, nội dung chủ yếu của một số chỉ tiêu kinh tế xã hội quan trọng; đối với các Bộ, ngành, Tổng cục có thể tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề về
khái niệm, nội dung và phương pháp tính một số chỉ tiêu thống kê có liên quan; đối với đông đảo công chúng, Tổng cục có thể thực hiện chương trình phổ biến kiến thức qua các phương tiện thông tin đại chúng.
2.6. Quản lý tính chặt chẽbao gồm ba nhóm giải pháp: (i) Xây dựng và áp dụng thống nhất khái niệm, phân loại nhằm đảm bảo tính thống nhất trong tính toán của toàn bộ hệ thống thống kê; (ii) Thống nhất các qui trình tính; (iii) Phân tích, so sánh và tổng hợp số liệu nhằm tìm ra các sai lệch và sự bất hợp lý của số liệu thống kê.
2.7. Thực hiện các nguyên tắc của thống kê nhà nước.
Thực hiện đầy đủ 10 nguyên tắc của thống kê nhà nước là cơ sở nâng cao vị trí, vai trò và uy tín của TCTK, đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng của thông tin thống kê. Tổng cục cần đưa ra những giải pháp cụ thể 10 nguyên tắc thành những hành động nhằm thực hiện trong thực tế công tác của ngành đối với tất cả các lĩnh vực có liên quan.
2.8. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng thông tin thống kê
Tổng cục nên xây dựng Hệ thống đánh giá chất lượng thông tin thống kê theo sáu lĩnh vực trong hệ thống đánh giá chất lượng và cần thực hiện một số công việc theo các bước: (i) Thành lập nhóm chuyên trách đánh giá và quản lý chất lượng số liệu thống kê; (ii) Nghiên cứu và đề xuất các lĩnh vực cần đánh giá chất lượng, phù hợp với tình hình thực tế của ngành Thống kê nước ta hiện nay; (iii) Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng số liệu của từng lĩnh vực; (iv) Triển khai đánh giá chất lượng tại Tổng cục cho các lĩnh vực lựa chọn cho thời kỳ 2008 - 2010. Tổng kết, rút kinh nghiệm cho giai đoạn sau.
2.9. Các giải pháp về môi trường thống kê
Trong nhóm giải pháp này gồm: (i) Môi trường pháp lý; (ii) Mối quan hệ với đối tượng cung cấp số liệu; (iii) Tuyển dụng và đào tạo cán bộ của ngành thống kê; (iv) Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành Thống kê; (v) Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê.

Thứ Bảy, 26 tháng 8, 2017

Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ

1. Khái quát lịch sử vùng đất Nam Bộ từ đầu đến thế kỷ XVII
(1)  Khái quát tự nhiên, lịch sử:
Chúng ta biết 3 nền văn minh trên đất nước Việt Nam là Văn Lang - Âu Lạc, Champa và Phù Nam đều có cơ sở từ 3 nền văn hóa là Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo (đặc trưng vùng miền) - địa văn hóa, thể hiện sự thống nhất trong dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết “trăm trứng” ý chỉ sự phân bố bộ lạc, nói đúng hơn là hình thành “đồng bào” (tức cư dân ở một cộng đồng lớn, xuất xứ từ bọc trăm trứng). Về văn hóa Sa Huỳnh - Óc Eo thì có điểm giống là cùng là người Malayo – Polinesiens kết hợp với người Môn - Khmer sáng lập; khác biệt là ở chỗ: Sa Huỳnh là phát triển không liên tục, đứt đoạn; nổi lên vào thời sắt sớm và phát triển khá lâu; Óc Eo nổi lên thời sắt muộn, nhưng phát triển cao, nhưng không lâu (văn minh Phù Nam). Dẫn đến Nam Bộ sau khi Phù Nam bị đổ thì rơi vào tình trạng hoang hóa. Hiện nay Nam Bộ có 19 tỉnh thành, thời Pháp là 20 tỉnh (province).
Vương quốc Chân Lạp ra đời ở vùng Hạ Lào (vùng sông Semun), cư dân Chân Lạp sống ở ruộng cao, rẫy (người Chăm sống trên ruộng cao), là một trong khoảng 10 chư hầu của Phù Nam với diện tích trải dài từ vùng Nam Bộ - Nam Trung Bộ của Việt Nam, Campuchia, một phần đồng bằng sông Mê Nam và sông Chao Phraya (Thái Lan), Nam Thái Lan và một phần Bắc Malaysia (3 bang phía bắc) - trung tâm là vùng Nam Bộ; kinh đô là Angkor Borei (không phải là Vyadhapura (thành phố của người đi săn) như Coedès đoán đâu). Kinh tế Phù Nam là kinh tế biển (chịu ảnh hưởng Malayo -Polinesiens hơn tính bản địa), hiện vật cụ thể là đồng tiền La Mã, khuyên tai hai đầu thú, thành cổ Óc Eo do Malleret tìm ra năm 1944. Năm 627 – 649, Chân Lạp thôn tính Phù Nam; nhưng thôn tính xong thì Chân lạp lại rút về vùng cao (vùng Biển Hồ - khai sinh bộ lạc Cha) sinh sống vì họ không quen kinh tế biển, không biết canh tác ruộng thấp (ruộng lầy lụt), cho nên Nam Bộ bị người Khmer bỏ hoang, kéo dài đến thế kỷ XVII với lý do: dân số ít, sở trường canh tác ruộng trũng không có nên Chân Lạp có xu hướng phát triển về phía Tây Nam.
Các tài liệu như Phủ biên tạp lục, Gia Định thành thông chí viết rất công phu về quá trình người dân mở đất ở Nam Bộ. Đầu tiên là văn hóa Óc Eo với di tích Giồng Cá Vồ có các hiện vật thể hiện giao thoa Sa Huỳnh - Óc Eo: khuyên tai hai đầu thú (thú - trâu), mộ chum. Nhờ khảo cổ học của Malleret, người ta phát hiện kinh đô là Angkor Borei nằm ở phía tây sông Hậu (tỉnh Kirivong, Campuchia) cách Châu Đốc 30 km về phía Tây Bắc. Kể từ khi Phù Nam tan rã cho tới thế kỷ XVII, dấu ấn Khmer mờ nhạt trong khi Phù Nam tăng cao. Tang ma – hôn nhân có tương đồng Champa và Óc Eo (vì cùng là ngữ hệ Nam Đảo). Tượng Phật gỗ Buddhapad ở Phù Nam, làm theo phong cách Gandara (Ấn Độ - Hy lạp). Cuốn Chân Lạp phong thổ ký của Châu Đạt Quan (thế kỷ XIV) vẽ lại chi tiết hành trình của ông đến một số quốc gia ở Đông Nam Á (Chiêm Thành, Xiêm, Angkor…), kể chi tiết về cư dân, đời sống và phong tục tập quán…
Địa kinh tế: về tự nhiên thì Nam Bộ có hai vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (thời Minh Mạng (1832) đã gọi Tây Nam Bộ là miền Tây), mốc là thành Phụng - Gia Định là trị sở. Thời Minh Mạng là 6 tỉnh, Nam Bộ được gọi là Nam Kỳ; Pháp thuộc là 20 tỉnh - hai thành phố lớn là Sài Gòn và Chợ Lớn - Nam Bộ; thời Nhật chiếm đóng thì đổi lại là Nam Bộ; từ 1945 - 1975 phía Việt Nam Cộng hòa gọi là Nam phần, gồm 27 tỉnh; phía cách mạng (Ủy ban hành chính Nam Bộ) thì lập thành 2 phân liên khu: miền Đông và miền Tây với 11 tỉnh.
Năm 1976 - 1977 có 13 tỉnh thành.
Năm 2004 có 19 tỉnh thành với vùng Đông Nam Bộ (5 tỉnh, một thành phố), Tây Nam Bộ (12 tỉnh, một thành phố).
Dân số Nam Bộ theo thống kê năm 2011:
+ Đông Nam Bộ: 14.890.800 người
+ Tây Nam Bộ: 17.330.900 người
Tổng cộng: 32.221.700 người
2. Khái quát lịch sử vùng đất Nam Bộ từ  thế kỷ XVII – thế kỷ XIX
a. Tiến trình lịch sử:
Trước khi người Việt vào khai phá, vùng đất Nam Bộ này từ lâu đã có người sinh sống, chủ yếu là người Mon - Khmer, Malayo - Polinesiens (Nam Đảo) có gốc chính là người bản địa Indonesiens. Chính các tộc người thuộc nhóm Môn - Khmer này (Chăm, Edeh, Giarai, Raglai, K’ho) tiếp xúc văn hóa Ấn Độ. Tộc Chăm, Giarai, Stieng, Mạ tiếp xúc văn hóa Ấn Độ và lập các vương quốc theo mô hình Ấn Độ: Champa, Bà Lợi, Xích Thổ, Châu Mạ, Stieng (Thủy Xá - Hỏa Xá) nhưng mang tính Indonesiens bản địa, vùng phân bố của họ kéo dài từ Đồng Nai - Sài Gòn - Vàm Cỏ, kể cả người Khmer - họ rút về Tây Ninh; còn các tộc người như Raglai, K’ho kháng cự tiếp xúc Ấn Độ thì rút lên Tây Nguyên, hình thành 5 dân tộc và giữ được tính bản địa. Người Việt từ Thuận Hóa, phía Bắc và Nam - Ngãi theo đường biển vào và họ chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước, ruộng thấp. Ta lưu ý người Việt, Tày và Mường thuở trước canh tác ruộng kiểu Nam Á: Việt khai phá ruộng thấp, trong khi Tày và Mường khai khẩn, làm ruộng cao, ruộng bậc thang, dùng khoọn đưa nước lên máng để dẫn nước về tưới ruộng. Từ ruộng khô thành ruộng bậc thang là sự tiến bộ rõ rệt của con người, được một tạp chí của Mỹ khen là “hệ thống ruộng bậc thang đẹp nhất thế giới”.
Người Chăm cũng làm ruộng cao như một số vùng ở Tây Nguyên và Tây Bắc, tôn giáo là thờ Thần Lửa (biểu thị vũ trụ, sự sống - đặc trưng của người Chăm hải đảo), mái thuyền kiểu Đông Sơn ở các đền tháp Champa.
Người Việt cổ căn bản dùng lúa nước làm nghề nghiệp chính của mình; họ từ trung du kéo xuống khai phá vùng đầm lầy phía thấp (đắp đất, tát nước…) để tạo thành đồng bằng như hiện nay bằng việc chinh phục, cải tạo tự nhiên. Chữ Việt mô phỏng theo công cụ lao động người Việt: có hai bộ là Rìu (tức công cụ lao động để khai phá) và Mễ (ngũ cốc, canh tác lúa nước), khẳng định tính cần cù, chịu thương chịu khó làm việc của người Việt. Họ đến khai khẩn Nam Bộ khi vùng này bị Chân Lạp bỏ hoang hóa từ lâu.
Năm 1620, chúa Nguyễn là Sãi vương (còn gọi là Chúa Phật) con trai của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) gả công chúa Ngọc Vạn (là con nuôi của ông) cho vua Chân Lạp Chey Chetta II ở Oudong. Ba năm sau, Chúa Nguyễn xin Chân Lạp (thông qua Ngọc Vạn) cho lập hai đồn thu thuế ở Prei Nokor (Gia Định) và Kas Krobey (Bến Nghé). Lý do để Chúa Nguyễn làm việc này là do lúc này cư dân Việt sống rất no đủ và sầm uất nên cần thu thuế; tạo điều kiện cho dân khai khẩn để biến nơi này thành căn cứ vững chắc chống lại Chúa Trịnh ngoài Bắc.
Trong thời gian này, người Việt tập trung khá đông (5 - 6 vạn người) với các thành phần đến nơi này đa dạng, gồm:
- Nông dân nghèo lưu trú.
- Lính bỏ ngũ.
- Tù nhân lưu đày.
- Người mở rộng làm ăn (gọi là “người có vật lực”).
Phương thức chủ yếu:
- Đi lẻ tẻ. Họ đi chủ yếu là đường biển vì đường bộ hiểm trở (trộm cướp); đi biển để tiện di chuyển, có thể dừng lại nghe tin tức
- Triều đình chiêu mộ dân khai hoang.
Họ đến trong khi nơi đây tồn tại dân bản địa rất ít; sống chủ yếu ở các vùng cao, gò trũng ở Gò Công, Mỹ Tho, Trà Vinh, Sóc Trăng, Long Hồ. Khi người Việt đến, người Việt sống hòa nhập với dân bản địa, học hỏi giao lưu văn hóa với bản địa tạo thành một nền văn hóa bản địa đa dạng và đặc sắc.
Khi họ đến, họ mang theo đời sống và tính cách rất phong phú
Đời sống cư dân Nam Bộ khác Bắc Bộ nhiều:
- Dễ thay đổi.
- Mở.
- Ven sông.
Làng Nam Bộ có đặc điểm:
- Phân bố trên giồng đất cao với nhiều nước ngọt, gia súc; khai phá bằng phương pháp móc lõm.
- Hình thành tự phát, không bị ràng buộc và không quy chế (Bắc Bộ quy chế, hương ước ngặt nghèo).
- Không theo gia tộc lớn (không cùng dòng máu; Bắc Bộ là gia tộc lớn, có tính cộng đồng mạnh, cư trú cố định trong làng; người ngoài thì bị bắt ra ở rìa làng).
- Có chế độ công điền, công thổ bền vững, chính quyền không xâm phạm được.
- Nhà nước tổ chức làng Nam Bộ thành các phường, trại, nậu (thôn ở xa) là các hình thức tổ chức chưa chặt chẽ. Vùng cao nhất ở thành phố Hồ Chí Minh là Gò Vấp (tên gốc là Gò Vắp: do người dân lấy đất xung quanh đắp mà cao lên), Phú Nhuận là kho để của ăn (Nhuận: kho của; Phú: giàu có).
Tính cách cư dân Nam Bộ:
- Cởi mở: phóng khoáng, không có quy định nghiêm ngặt.
- Dễ dãi: ăn nói, ẩm thực, nhà ở.
- Thoải mái: sinh hoạt, tín ngưỡng (ông đạo: đạo sờ, đạo khùng, đạo điên, đạo dừa…); khác người, gàn dở. 
- Giàu tính mạo hiểm: đi phiêu lưu nơi xa, không ràng buộc (Phú Xuân cũng trải; Đồng Nai cũng từng).
Ở vùng đất mới, Chúa Nguyễn thực thi một chính sách rất thoáng và cởi mở. Chúa cho phép cư dân muốn khai thác đất đai, ruộng gò bao nhiêu tùy ý; khi người dân khai phá xong thì phải báo cáo với chính quyền. Ngoài ra, Chúa cho lập 9 kho lương, trại lính, lập thuế “biệt nạp” kêu gọi cư dân tùy số tài sản ít hay nhiều mà tự nguyện nộp thuế; thóc thì dùng hộc và giạ đong cũng đủ. Chính sách của Chúa Nguyễn là đúng đắn, hợp quy luật, thể hiện sự ứng xử độc đáo của ông với người dân; tạo điều kiện cho cư dân, quan binh, người ô hợp về khai khẩn để khống chế và xác lập chủ quyền.
Thời trước thuộc Chân lạp, cư dân bản địa rất ít về số lượng, chỉ sống ở những ruộng cao nhiều hơn ruộng trũng, thấp, tập trung nhiều ở Gò Công, Mỹ Tho, Trà Vinh, Sóc Trăng, Long Hồ mà ở những vùng này, đất đai nhiều và bị hoang hóa. Đến thế kỷ X - XVII, nhiều người dân phía Bắc vì trốn lính, binh dịch, tô thuế nên lưu tán dần về phía Nam. 
Năm 1658, chúa Nguyễn đánh Mô Xoài (Mỗi Xuy), bắt vua Chiêm xong rồi thả ra với điều kiện phải dâng đất Mô Xoài cho chúa Nguyễn. Việc chúa Nguyễn đánh Mô Xoài là hợp quy luật, là bắt buộc để cho người dân khai khẩn và mở rộng đất đai, tiến tới xác lập chủ quyền (chiến tranh, dân số và tồn tại vương triều). Theo sự điều động của chúa Nguyễn, lưu dân Việt (về sau có người Hoa) từ Mô Xoài di chuyển xuống Bà Rịa, Đồng Nai (Bàn Lân, Bàn Gỗ, Cù Lao Rùa), Bến Nghé, lập tiền trạm để tiến tới khai khẩn các vùng đất mới. Thế kỷ XVII, họ có mặt hầu hết ở Đông Phố (Gia Định), Biên Hòa với 4 vạn hộ, khoảng 20 vạn nhân khẩu. 
Năm 1679 - 1680, người Hoa vào Nam Bộ. Họ vốn có gốc ở Quảng Tây - Quảng Đông (Trung Quốc), làm nông nghiệp; vì phong trào “phản Thanh phục Minh” mà sang đây. Lúc đầu họ tính định cư ở Quảng Nam nhưng bị Chúa ngăn cản, thế là họ rút vào Nam Bộ là nơi hiện đang có tranh chấp với Champa, Chân lạp. Tại nơi đây, nhóm Dương Ngạn Địch - Trần Thượng Xuyên với 3.000 người được Chúa chia vùng định cư: nhóm Dương Ngạn Địch thì xuống vùng Mỹ Tho (Mỹ Tho đại phố; chợ Phố Lớn); còn nhóm Trần Thượng Xuyên thì di chuyển lên vùng Lộc Dã (Đồng Nai) cao khoảng 200 - 300 m so với mực nước biển, định cư ở Bàn Lân, xây dựng thương cảng Cù Lao phố sầm uất một thời. Riêng nhóm Trần Thượng Xuyên thì về sau tách thành 2 nhóm nhỏ là Thanh Hà (Biên Hòa) và Minh Hương (Sài Gòn - Bến Nghé); khu chợ Sài Gòn thời kỳ đó gọi là Đông Phố, sông Sài Gòn thời đó (thế kỷ XVII - XVIII) gọi là Ngưu Chử giang, về sau gọi là Bình Trị giang (gọi khác nữa là Tân Bình giang, do chảy qua phủ Tân Bình - theo Gia Định thành thông chí). Cùng thời điểm với sự di cư của nhóm Dương Ngạn Địch - Trần Thượng Xuyên vào Mỹ Tho và Biên Hòa; Mạc Cửu người Quảng Đông vì chống Thanh nên phải chạy vào Chân Lạp, rồi xin làm chức Ốc nha Sài Mạt cai quản vùng đất Mang Khảm gồm 7 phủ lớn (1680 - 1690), mở sòng bạc và đánh thuế, chặn đánh thuyền Khmer - bị Khmer chống trả nên lánh nạn sang Xiêm. Về sau, ông rút về Hà Tiên và mở rộng quyền thống trị từ suốt vùng Đông Nam Chân lạp kéo dài qua Hà Tiên, xuống tuốt dưới Cà Mau; gồm 7 phủ lớn (tương đương 7 sòng bạc lớn của ông ta). Năm 1708, Mạc Cửu dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn; đến 1757 thì Hà Tiên nội thuộc chúa Nguyễn. Tuy nhiên vào năm 1772 - 1778, Cù Lao phố bị tàn phá (do vụ Lý Tài phản Tây Sơn, bị Nguyễn Nhạc phá trụi), người Hoa Minh Hương rút về Chợ Lớn lập làng và dần sống hòa nhập với người Việt. Cũng vào cuối thế kỷ XVII, người Chăm từ Lovek (Campuchia) chuyển vào sinh sống ở Tây Ninh, Châu Đốc. Do từ xưa họ giỏi chiến trận nên Chúa Nguyễn gọi họ là người Côn Man và dùng họ để trấn giữ biên cương phía Tây Nam Tổ quốc.
+ Chính sách của chúa Nguyễn đối với người Hoa trong quản lý người Hoa thì nhẹ nhàng nhưng cũng rất kiên quyết. Để ngăn chặn người Hoa có thể nổi loạn chống lại chính quyền (người Hoa có bang hội mạnh), Chúa Nguyễn lập hai làng là Thanh Hà và Minh Hương cho họ sinh sống; chặn đứng cuộc nổi loạn của Hoàng Tiến (1680)... với mục đích cuối cùng là quản lý và ổn định đời sống người Hoa, tạo điều kiện cho cư dân Việt di cư vào nhiều và đông hơn để kiềm chế, không cho người Hoa hùng cứ, nổi loạn.
Do chính sách này của chúa Nguyễn, lưu dân Việt di cư vào ngày càng nhiều và họ dần trở thành chủ thể của vùng phương Nam rộng lớn này. Việc xác lập “chủ thể” người Việt có từ năm 1623, khi chúa Nguyễn thiết lập 2 đồn thu thuế đầu tiên ở Sài Gòn và Bến Nghé; trong thời gian này, người Việt có mặt khá đông (5 - 6 vạn người năm 1623; hơn 10 vạn người năm 1679), người Hoa lúc mới vào cũng chỉ có 3.000 người mà thôi (năm 1679). Như vậy, đa số lấn át thiểu số, đa số là chủ thể. Người Việt sống thành những cộng đồng đông và lớn, có tổ chức và luật tục chặt chẽ, nên khó cho người Hoa xâm nhập vào. Ai đến trước thì hiển nhiên là “chủ thể”, ai đến sau thì bị gọi là “Khách” và chịu những điều kiện rất khắc nghiệt. Vì thế, quan điểm “người Hoa khai khẩn, chúa Nguyễn xác lập chủ quyền” là sai, thực tê người Việt đã có mặt trước ở Nam Bộ từ lâu, trong khi đó đến 1679 người Hoa mới tới và phải chịu sự quản lý của người Việt.
Năm 1693, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh đánh Champa, bắt vua Chiêm là Bà Tranh và đổi Champa thành Thuận Thành trấn. Người Chăm mất nước đã chạy loạn sang Chân lạp, Malaysia cư trú; tiếp thu Hồi giáo. Nhóm Chăm ở Oudong thì bị vua Chân Lạp theo Phật giáo bạc đãi, xung khắc Balamon Chăm với Phật giáo Chân Lạp, nên bị vua Chân Lạp đánh đuổi về biên giới Việt - Miên, tập trung nhiều nhất ở Tây Ninh, Châu Đốc. Chúa Nguyễn sử dụng họ và gọi là người Côn Man (vương triều mạnh, giỏi thủy chiến), cho họ trấn giữ biên phía Tây Nam để bảo vệ đất đai của người Việt. 
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lý Đông Phố. Tại đây, ông lập hai huyện là Phước Long (Dinh Trấn Biên, Biên Hòa) và Tân Bình (dinh Phiên Trấn, Gia Định); lập chính quyền mới: đầu là lưu thủ (quân sự), cai bộ (hành chính) và ký lục (xét xử). Lúc này, người Việt tập trung khá đông: 20 vạn người; sống dọc theo giồng cao và ven sông, người Hoa lúc này khoảng 4 vạn người sống ở các khu làng ở Thanh Hà và Minh Hương. Đồng thời, Nguyễn Hữu Cảnh kêu gọi lưu dân tiếp tục khai hoang, bản thân ông cũng khai hoang một số và mất ở cù lao bên Bãi Xàu (sau là Cù Lao ông Chưởng). Sự kiện này đánh dấu mốc chúa Nguyễn xác lập chủ quyền trên vùng đất Sài Gòn - Gia Định.
Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn.
Năm 1731, Sá Tốt của Chân Lạp nổi loạn, đánh đuổi vua Satha II tháo chạy về Hà Tiên. Để giúp vua Chân Lạp, chúa Nguyễn cử Trương Phước Vĩnh đem quân đánh bại Sá Tốt, đưa vua Chân Lạp trở lại ngôi. Để chuộc lỗi, vua Chân Lạp dâng hai xứ là Méso (Mỹ Tho) và Longhor (Long Hồ) cho chúa Nguyễn. Chúa nhận đất, đổi thành dinh Long Hồ và châu Định Viễn.
Năm 1755 - 1757 diễn ra sự kiện Tầm Phong Long. Năm 1755, thực hiện kế “tằm thực” của Nguyễn Cư Trinh, chúa Nguyễn xúc tiến mở rộng chủ quyền ở các vùng đất cuối cùng ở Nam Bộ. Ở Chân Lạp do có loạn, vua Nặc Nguyên chạy sang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên; chúa Nguyễn cử binh dẹp loạn, đưa vua Chân lạp trở lại ngôi. Để đền ơn, Nặc Nguyên dâng đất Tầm Bồn và Lôi Lạp (nay là Tân An và Gò Công) để chuộc tội và bù vào thuế còn thiếu 3 năm. Năm 1756, Nặc Nguyên mất, chú là Nhuận lên thay đã dâng hai phủ Ba Thắc và Trà Vinh lên Chúa Nguyễn để được công nhận là vua, về sau ông này bị Hinh giết; nhưng do Chân lạp nội loạn (phe Xiêm - phe Nguyễn) nên con của Nặc Nguyên là Nặc Tôn phải bỏ chạy sang nương nhờ ở Hà Tiên. Sau khi được Chúa đưa về để lên ngôi vua, Nặc Tồn dâng đất Tầm Phong Long (vùng giữa sông Tiền - sông Hậu, nay là Sa Đéc và Châu Đốc) và 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh cho Chúa Nguyễn. Đến lúc này, công cuộc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn ở Nam Bộ hoàn tất về căn bản. 
b. Thực trạng phân bố dân cư, xã hội Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII
Cho đến khi Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ, phân bố dân cư khá ổn định:
- Người Việt: do số lượng đông đảo nên vùng phân bố rất rộng lớn. Có 3 vùng cư dân Việt sinh sống:
+ Đông Phố (Biên Hòa, Gia Định).
+ Mỹ Tho.
+ Mang Khảm.
- Người Chăm: đi theo hướng Tây Nguyên, Tây Nam Bộ sang Campuchia, bị xua đuổi sang Châu Đốc.
- Người Hoa: 1679 - 1680, thị tứ:
+ Nhóm Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến vào Mỹ Tho.
+ Trần Thượng Xuyên vào Bàn Lân (Biên Hòa).
+ Mạc Cửu: Hà Tiên.
- Người Khmer: ở vùng cao và làm ruộng rẫy trên cao, ở Ba Thắc, Trà Vinh; sống theo kiểu phum - sóc và rất nghèo.
Các khu vực khai phá:
+ Mô Xoài - Bà Rịa - Biên Hòa - Bến Nghé, người Việt là chủ đạo, người Hoa ở Biên Hòa rất ít ỏi. Lúc này Sài Gòn trở thành thương cảng là vì: (1) Đường vào cảng thuận lợi, mấy cảng khác như Vàm Nao là cửa quá hẹp nên tàu khó vào; (2) Người Minh Hương độc quyền cảng và (3) Hàng xuất khẩu đều là hàng rời.
+ Mỹ Tho - Long Hồ: là khu vực an ninh, có dinh Long Hồ lớn dùng làm nơi tập kết lực lượng phản ứng nhanh, bảo vệ biên cương phía Nam Tổ quốc. Tiền Giang - Hậu Giang là vùng chuyển quân lên Cao Miên. Vùng này đất đai màu mỡ, nhiều nước ngọt.
+ Ba Giồng: là nơi người Việt và người Hoa từ Vũng Gù, Vàm Nao vào khai phá, lập làng xóm sung túc. Chúa Nguyễn lập kho Cam Lạch để thu thuế (1741) và chuyên chở lúa từ đây ra Phú Xuân, Trung Hoa để buôn bán. Năng suất lúa nơi đây đạt loại cao nhất: 1 giạ = 300 giạ lúa; ở Pháp, Anh thì 1 giạ = 100 giạ lúa thôi.
+ Mang Khảm - Hà Tiên: có người Việt sinh sống (có nhiều ở Campuchia, Thái Lan). Do họ Mạc cướp quyền buôn bán của người Khmer nên họ nổi loạn - dọa giết, ông ta trốn sang Bangkok lánh nạn. Về sau rút về Hà Tiên rồi dâng vùng đất này cho chúa Nguyễn.
+ Kinh tế:
Nông nghiệp: trồng lúa và hoa màu trên 3 loại ruộng:
- Ruộng cao (sơn điền): có nhiều ở Mô Xoài, Vàm Cỏ Đông, Bà Rịa, Long Hồ; gieo lúa trên ruộng này phải vào trời mưa. Canh tác: chặt và đốt cây để làm rẫy, làm xong 3 - 4 năm thì rút đi nơi khác.
- Ruộng trũng (thảo điền): tập trung đông dân Việt ở Gia Định, sông Tiền, Bến Tre, Long Hồ và Mỹ Tho, Sóc Trăng, Rạch Giá, Cà Mau; canh tác trên ruộng ít lầy lội, dùng trâu khỏe để cày cấy. 
- Ruộng sâu (trũng nhiều): dùng sức người là chính. Phảng là sự sáng tạo của người khai phá (kết hợp giữa phảng cỏ của Khmer và rựa của Ngũ Quảng để khai thác, vỡ hoang và đắp bờ để cấy.
Ruộng thảo điền được chú trọng; ngoài ra họ cầy cấy lúa theo ruộng thụt (2 - 3 năm), phạt cỏ giúp đất đai tơi xốp và màu mỡ, ra lúa có năng suất cao. 
Lúa  có hai loại: lúa canh và lúa thuật
+ Lúa canh: không dẻo, hạt nhỏ, mềm và thơm.
+ Lúa thuật: dẻo, hạt tròn và lớn.
Ngoài ra, người Nam Bộ còn sáng tạo nhiều loại lúa khác như lúa bắt chim, lúa cà nhe, lúa trò cau, lúa Tàu, lúa nếp (nếp than, nếp cẩm), lúa Chiêm và lúa trảng cao (trồng ở ruộng trũng). Do có nhiều sáng tạo trong kỹ thuật, lúa được gặt hái tốt nên số vụ lúa tăng lên nhiều, lúa đủ dùng trong ngày. Lúc trước, lúa cày 1 vụ, về sau tăng lên 2 - 3 vụ/năm; nhìn chung có hai vụ chính:
+ Vụ mùa (vụ chính): thu hoạch bông lúa chưa chính tới, nhưng năng suất lại cao. Lúc đó, người ta dùng lúa làm bánh cho các lễ hội Ok Om Bok (Khmer, mừng lúa mới).
+ Vụ chiêm (vụ phụ): thu hoạch chủ yếu là lúa chiêm (khó nấu thành gạo), lúa nếp hương (có hoa vàng rất thơm, ăn rất ngon). Các loại lúa này khi thu hoạch đều cho năng suất cao: 1 hộc giống gieo vào ruộng thì thu được 300 hộc lúa; Pháp thì 1 hộc thu được 6 hộc lúa, Mỹ thì 1 hộc thu được 3 hộc lúa.
Nam Bộ đã trở thành vựa lúa lớn của thế giới hồi đó. Về canh tác, người ta căn cứ theo thời vụ và thời tiết để chọn giống thích hợp cho canh tác. Nhìn chung thì như sau: 
Gieo mạ (sạ)
Cấy
Gặt
Ruộng sớm
tháng 4
tháng 6
tháng 10
Ruộng muộn
tháng 5
tháng 7
tháng 11
 Các hình thức người Nam Bộ canh tác ruộng lúa:
+ Đào kênh mương: để thau chua, rửa mặn và tạo nước ngọt, đưa nó về ưới ruộng lúa
+ Bừa: cày đất bùn (có nước làm xốp, tạo thành bùn lỏng) thành những rãnh nhỏ để gieo mạ.
+ Cấy: cầm mạ (mạ: bó lúa nhỏ, xén phía đầu để cây dễ mọc lên) cắm vào những lỗ được người nông dân chọn sẵn (lỗ được đục bằng ngón tay), cắm thẳng hàng khi ruộng sấp nước (10 - 15 cm nước) và cắm mạ vào bằng hai ngón tay.
Ngoài lúa, người dân Nam Bộ còn canh tác nhiều loại cây trồng khác nhau, tiêu biểu là cau. Câu “nhất thóc nhì cau” đã chứng minh điều này. Cau là mặt hàng bán rất chạy ở những nơi có đông người Hoa cư trú; cau dùng làm nước uống.
Thủ công nghiệp: bắt đầu có sự phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất dẫn đến xuất hiện nhiều ngành nghề mới. Triều đình lập ra 62 ty, công tượng để sản xuất. Các làng Nam Bộ lúc này đã trải dọc theo các kênh, mương để phù hợp với sự biến đổi mới. Trong làng xã, phương pháp móc lõm được áp dụng ngay trên các giồng đất cao (đắp đất, chia ruộng thành nhiều khoảnh khác nhau), do đó đất đai ngày càng mở rộng ra nhiều hơn (dân cư dùng năng lực ít, công cụ thô sơ để cải tạo triệt để). Đất đai màu mỡ, kỹ thuật canh tác phong phú và linh hoạt nên tạo ra nhiều sản phẩm phong phú và đa dạng; nhiều loại hàng hóa đã được đưa ra để trao đổi và buôn bán. Tùy theo thời tiết và mùa vụ mà người ta bán được hay không bán được; sản phẩm họ làm ra không chỉ dùng để ăn - uống và sinh hoạt, mà còn dùng để buôn bán. Nắm bắt được sự phát triển này, Chúa Nguyễn tìm cách lôi kéo cư dân nơi khác về đây lập nghiệp. Kết quả, Gia Định trở thành vựa lúa lớn của triều đình Phú Xuân (đủ ăn cho hàng vạn lính). Thương lái từ Ngũ Quảng đưa nhiều sản phẩm, trong đó có vải Thanh Hà về Gia Định trao đổi buôn bán.
Nhiều thị tứ xuất hiện (chợ búa, cảng thị). Bãi Xàu là thương cảng lớn nhất. 1772 - 1778 sau khi Cù Lao phố bị sụp đổ thì Sài Gòn đã trở thành thương cảng lớn nhất của Đàng Trong và phát triển thịnh vượng. Trong lịch sử phát triển cuả thế giới đã từng có thành thị. Ở phương Tây, thành thị là nơi tập trung cư dân, nơi buôn bán; thành thị phương Đông là trung tâm chính tri, quân sự quan trọng; “Châu Thành” là ví dụ cụ thể (10 tỉnh có huyện Châu Thành). “Châu Thành” là vành đai nông nghiệp bao quanh thành phố, cung cấp nhân vật lực cho thành phố.
Đến cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh cho phép những người “có vật lực” được huy động tội phạm, binh lính Nguyễn đi thành lập các đồn điền. Mục đích của thành lâp đồn điền là khuyến khích khai hoang, an ninh, tạo nguồn cung cấp lương thực cho lính đồn trú, tội nhân được đưa vào Nam Bộ khai hoang. Ngoài ra, ông cũng lập 9 kho trữ lương thực để cung cấp lương thực cho vùng Thuận Hóa, cung cấp nguồn dự trữ quân sự. Việc thành lập đồn điền vào cuối thế kỷ XVIII đã củng cố chủ quyền của người Việt, xác lập sở hữu lớn về ruộng đất và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thời Nguyễn Phúc Ánh, ông cho xây dựng thành Bát Quái là trung tâm lớn của Nam Bộ và đô thị cảng Sài Gòn trở thành trung tâm buôn bán tấp nập trong thời gian này. Sài Gòn - Gia Định đã trở thành thương cảng lớn, là nơi tập trung đông cư dân, nhất là người Hoa – chuyên về hoạt động thương mại vì lý do:
+ Thương càng Sài Gòn là cảng tốt, đường vào cảng sâu gần 15 m (tàu bè ra vào được) nhưng dân cư không động nên nhường vị trí này lại cho cảng Cù Lao phố. Trong thời gian đó, Sài Gòn chưa có chợ có quy mô lớn mà chỉ có vài chợ nhỏ như chợ Nguyễn Thực, chợ Điều Khiển do người Việt lập ra. Khi người Hoa vào, họ mở rộng và nâng cấp chợ lớn dần lên: Chợ Bến Thành (1778)
Cảng Bãi Xàu ở Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) là nơi tập trung nhiều thương lái người Hoa buôn bán sang nước ngoài. Ngay tận Ba Thắc có nguyên đội tàu người Hoa kinh doanh; khi nước lên cao thi xuất cảng đi buôn bán ở bên ngoài. Cảng Mang Khảm (Hà Tiên) được người Hoa di cư vào và thành lập ra phố chợ (phố lớn) để xuất khẩu nông sản (thốt nốt, tiêu…) vào Chân lạp. Ở Mang Khảm, người Hoa lập nhiều kho hàng; lúa gạo từ sông Tiền, sông Hậu đổ vào cảng thông qua hệ thống kênh rạch chằng chịt.
- Đô thị cảng về mặt địa lý thì nó sát và gần với hệ thống kênh rạch (hậu phương của cảng) là nguồn nguyên liệu cung cấp cho mọi hoạt động của thương mại có yếu tố của kinh tế hàng hóa. Cảng phát triển được do ảnh hưởng của văn minh sông nước (yếu tố biển – Phù Nam). Thời Nguyễn Ánh, ở đầu rạch Thị Nghè người ra lập một xưởng đóng tàu lớn xuất đi khắp nơi (cảng Ba Son, lập tháng 4/1863 tại nơi đó). Ông ta thuê kỹ sư hải quân Pháp, Bồ Đào Nha đóng tàu và nhờ đó đã đánh bại được Tây Sơn. Tây Sơn chiếm Gia Định, nhưng không giải quyết được vấn đề Gia Định nên bị sụp đổ. Nguyễn Ánh có chính sách rộng mở, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hóa; nhưng khi lên ngôi thì ông ta dè dặt, “Bế quan tỏa cảng”.
Phương thức khai thác: từ thế kỷ XVII - 1790 thì có 2 phương thức canh tác
+ Quy mô nhỏ: dùng quảng canh và thâm canh. Do quy mô không lớn, đất không sâu nên ít đầu tư về vốn và kỹ thuật - chưa biết nhiều về nông nghiệp. Dân Bắc - Trung là bậc thầy về thâm canh nên đầu tư vào có năng suất cao. Theo Lê Quý Đôn, những người khai thác đất đai theo quy mô nhỏ thường bắt dân tộc thiểu số làm nô lệ.
+ Quy mô lớn: thuộc về “người có vật lực” (có 50 - 60 điền nô, 300 - 400 trâu bò), gắn bó với nghề nông và dùng quảng canh thay cho thâm canh, phương thức này kéo dài đến thời Pháp thuộc. Ở Gia Định, kinh tế phát triển sớm do sở hữu lớn về ruộng đất cao, có toàn quyền thuê nhân công về làm việc và buôn bán sản phẩm. Khi xuất hiện các cảng thị thì hoạt động kinh tế được đẩy mạnh; hình thành đội thủy binh mạnh để chống lại Tây Sơn. Ở Gia Định, buôn bán hai chiều tăng mạnh - nhất là lúa gạo (1 quan = 10 tiền (tương đương 4 đấu gạo). Nhà nước thu thuế thương phẩm. 
Về thương mại, xuất hiện nhiều cảng thị lớn mà nổi bật là cảng Sài Gòn. Sài Gòn là thương cảng tự nhiên với các sông lớn điều hòa thuyền bè, là nơi tập trung lúa gạo ngày một đông để xuất đi, tạo mối liên kết và giao lưu sông rạch. Thông qua hệ thống giang cảng Sài Gòn - Chợ Lớn, Sài Gòn có ưu thế gắn với hệ thống các chợ, có kho cất giữ và thu gom lúa gạo đi khắp Nam Bộ. 
3. Khái quát lịch sử vùng đất Nam Bộ thời Nguyễn
Thời kỳ này, Gia Long đã xác lập vững chắc chính quyền và tiếp tục khai phá Nam Bộ trên cơ sở các Chúa Nguyễn đạt được trong thế kỷ XVII - XVIII. Các vua Nguyễn củng cố quân điền, cho dân tự do khai phá Nam Bộ và trợ cấp cho họ dễ khai phá (25 sắc lệnh trừng phạt quan lại, tạo điều kiện cho dân mở đất). Tùy theo diện tích khai hoang, quan mộ nhiều dân khai phá thì được thưởng, quan tham nhũng và hối lộ thì bị trừng phạt nặng. Để khai khẩn, vua cho đào kênh Thoại Hà (1818, từ Long Xuyên đến Rạch Giá), kênh Vĩnh Tế (1819 - 1821, từ Châu Đốc đến Rạch Giang - Hà Tiên). Với mục đích:
- Mở mang đất đai để khai thác, phát triển về sản xuất lương thực và thu tô thuế.
- Đảm bảo an ninh quốc phòng; nhất là biên giới phía Tây. Đào kênh và lập đồn điền giúp triều đình kiểm soát, khống chế và đề phòng sự xâm nhập từ bên ngoài và sự chống đối của dân địa phương.
- Phát triển địa chủ, tạo chỗ dựa cho vua Nguyễn ở Nam Bộ.Quản lý hành chính: theo mô hình Thuận Hóa. Mang Khảm đổi thành trấn Hà Tiên; Phiên Trấn - Trấn Biên là địa điểm quan trọng vì gắn với người Hoa Minh Hương dựng nghiệp ở miền Nam đã lâu. 3 người Hoa Minh Hương nổi tiếng là Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức và Phan Thanh Giản. Năm 1836, vua Nguyễn cho thành lập các đạo (tương đương cấp quận - mang tính quân sự), gắn với đồn điền và lương thảo. Các đạo lớn lúc đó là Châu Đốc, Tân Châu, Trường Đồn.
Năm 1831 - 1832, Minh Mạng lập “dinh điền” để tập trung sở hữu lớn về ruộng đất (không công điền). Dinh điền là vùng đất có dân cư hòa nhập sau, mục đích chính là khai hoang mở đất. Thời các vua Gia Long và Minh Mạng, triều đình quan tâm hệ thống thủy lợi (đào kênh ở những ví trí quan trọng), giúp tàu bè xuôi ngược nhộn nhịp. Đóng góp của nhà Nguyễn chính là sự nỗ lực của nhân dân, cùng với tài “kinh bang tế thế” của Nguyễn Văn Thoại, Lê Văn Duyệt. Khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, chúng thấy địa bạ của vua năm 1836 là chính xác, nhất là những vùng có vị trí đặc biệt như An Giang, Châu Đốc; đơn vị hành chính lớn nhất là tỉnh An - Hà. Nhà nước chia thành nhiều tỉnh, đây là cách tập trung cao độ quyền lực. Dân số sau năm 1883 là 1.020.000 người; trong đó Việt: hơn 1 triệu; Hoa: 62.000 người; Khmer: 162.000 người; Pháp: 600 người; phương thức canh tác của người Việt chủ yếu ảnh hưởng của Khmer.
Cơ sở pháp lý: Hiệp ước 1845 - 1849 thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Đại Nam; Hiệp ước 1862 nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Việc bày Chân lạp không phản đối gì.
4. Khái quát lịch sử vùng đất Nam Bộ thời Pháp thuộc
Mục tiêu chính sách và biện pháp khai thác của Pháp có điểm khác biệt so với thời Nguyễn. Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp từ tuyên bố của De Lagrandière năm 1867, Hiệp ước Sài Gòn 1874 khẳng định lại tuyên bố năm 1867. Cùng với việc xác lập bộ máy chính quyền thực dân (từ 1862 là thời quân sự; 1879 là dân sự), Pháp thiết lập ở Nam Kỳ chế độ trực trị vì nơi đây là thuộc địa giàu có, điều kiện tự nhiên phong phú. Người Pháp khai thác tối đa những điều kiện tự nhiên để phục vụ cho chiến tranh; sau kế hoạch Doumer 1897 thì Nam Kỳ trở thành nơi phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa của chúng (1897 - 1914); (1917 - 1929).
Thời gian đầu ở Nam Kỳ, người Pháp thực hiện Kế hoạch Leroy - Beaulieu, tổ chức bán đấu giá đất cho người khai phá; tổ chức khai thác thuộc địa với tư cách Nam Kỳ là thuộc địa nông nghiệp có sự phát triển thuận lợi của ruộng đất, kênh rạch và sông ngòi. Mục đích: khai thác tối đa kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long, mở cửa thị trường tư bản chủ nghĩa để xuất khẩu lúa gạo như là điều kiện để tồn tại, bù đắp chiến phí và tiếp tục chinh phục nốt các vùng đất còn lại ở miền Nam.
Cùng với việc ký kết hiệp ước Harmand, Pathenotre và thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887, việc mở rộng xuất khẩu gạo, nông sản và hàng hóa ở Nam Kỳ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động khẩn hoang, khai phá vùng đất Nam Bộ của Pháp. Việc tư bản Pháp tổ chức các đồn điền lớn đã kéo theo sự thành lập, tồn tại song song hai loại đồn điền: đồn điền trồng lúa và đồn điền cao su - nét mới trong khai phá Nam Bộ của Pháp. Để thực hiện, Pháp có các biện pháp sau:
+ Phát triển giao thông thủy ở bờ Nam Sông Hậu. Pháp cho đào 5 kênh lớn: kênh Hà Tiên (Hà Tiên - Châu Đốc); kênh Rạch Giá (Rạch Giá - Long Xuyên); kênh Xà No (Cần Thơ - sông Cái Lớn), kênh Bạc Liêu - Cà Mau nối với rạch An Xuyên; kênh Bãi Xàu - sông Hậu. Những việc đó làm hình thành hệ thống kênh nối với các sông lớn. Vào năm 1890 thì chính quyền Pháp ở Nam Kỳ tiếp tục mở rộng các kênh như kênh Rạch Giá, kênh Hà Tiên, khai thông kênh Cần Thơ - Sóc Trăng, kênh Sa Đéc - Trà Vinh.
+ Tổ chức nạo vét, mở rộng các kênh rạch tại khu vực giữa sông Tiền - sông Hậu như: rạch Vàm Nao, rạch Cái Tài Thượng, rạch Lấp Vò (sông Tiền - Sa Đéc), rạch Măng Thít (Rạch Giá - Cà Mau). Phía trên sông Tiền, Pháp mở rộng kênh Bảo Định nối Mỹ Tho với Vàm Cỏ Tây, nối với Vàm Cỏ Đông qua rạch Bo Bo, nối với Sài Gòn - Chợ Lớn qua rạch Bến Lức; kênh Duperré nối Mỹ Tho ngang qua Chợ Gạo tới Vàm Cỏ Đông, thông với Sài Gòn qua kênh Rạch Cát. 
Thông qua hệ thống kênh nối với các sông lớn, lúa gạo được vận chuyển vào giang cảng Chợ Lớn, qua các kho bãi Bến Nghé, kênh Tàu Hủ để vào cảng Sài Gòn, làm hình thành hệ thống giao thông liên hoàn. Ở Sài Gòn, Pháp cho xây dựng nhà máy xay gạo đầu tiên; khơi thông ngoại thương; lợi dụng sự thuận lợi của dòng chảy như mắc cửi của hệ thống kênh đào Nam Kỳ để phát triển vùng đất này. Ngoài hệ thống kênh đào, Pháp cho phát triển đường sắt, đường bộ. Người Pháp mở 3.000 km đường bộ với các tuyến chính: Sài Gòn - Mỹ Tho; Sài Gòn - Biên Hòa, Thủ Dầu Một; Sài Gòn - Tây Ninh, Tân An - Gò Công; Gò Công - Mỹ Tho; Mỹ Tho - Vĩnh Long; Trà Vinh - Tiểu Cần; Bạc Liêu - Sóc Trăng - Cần Thơ - Long Xuyên. 
- Tăng cường nhân lực trong khai thác thuộc địa, người Pháp thất bại. Ở Sài Gòn vào năm 1937 thì chỉ có 12.245  thương gia, 705 viên chức Pháp cư trú ở thành phố này, cho nên không thu hút được người Pháp vào khai phá thuộc địa Nam Kỳ. Kế hoạch đưa 1 triệu dân vào khai phá cũng tỏ ra không hiệu quả. Ở Cần Thơ chỉ có 350 người đến (phần lớn do Pháp dụ dỗ mà đến), không thạo nghề nông và không biết làm ruộng. 23.000 người Việt mà Pháp đưa đến cũng không thạo nghề nông (quen sống ở đô thị) đây cũng là thất bại. Về thành phần người được Pháp chiêu mộ, chỉ có người Việt là Pháp làm được, người Hoa thì không. Sở dĩ Pháp không dụ được người Hoa là vì sợ khi dùng họ, họ sẽ lấn quyền, lấn át quyền lợi của người Pháp Đông Dương. Người Pháp vốn không thích người Hoa vì sợ họ lập bang hội, có võ nghệ và hay dính dáng đến chính trị. Người Hoa rất gian trong trốn thuế, hàng giả và ăn ở mất vệ sinh, hay giấu nghề. Người Hoa không thích nông nghiệp (nông nghiệp sản xuất đủ dùng) mà chỉ chú trọng đến buôn bán, lừa đảo (dùng “chành” gạt một ít sản phẩm ra thì đủ). Do vậy, trở ngại lớn nhất của Pháp là không tìm được nhân công. Mặc dù chính quyền Pháp hết sức ưu ái nhưng không ai tới khai phá, đành phải dùng người Việt tại chỗ để khai thác.
Phương thức khai thác Nam Kỳ của Pháp:
- Dùng tư bản người Pháp như một lực lượng đóng vai trò chủ yếu trong khai thác Nam Bộ. Trong thời kỳ đầu (1897 - 1914) - khai thác thuộc địa lần thứ nhất, do bản thân nhà nước Pháp là “đế quốc cho vay lãi” nên rất keo kiệt; đưa vốn ra thì ít mà lại muốn thu lợi nhuận thật nhiều. Vào nửa cuối thế kỷ XIX khi mà Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, chính quyền xuất 60 tỉ franc đầu tư ra nước ngoài mà trong đó: 30 tỷ cho Nga; 26 - 27 tỷ là cho các nước châu Á (nhất là Trung Đông), 2 - 3 tỷ còn lại là cho các thuộc địa. Theo kế hoạch Doumer năm 1897, Pháp chỉ đầu tư vào Việt Nam là 300 triệu franc, một số rất ít ỏi so với đầu tư ở các nước khác. Riêng vùng Nam Bộ là vùng chúng đang khai thác, Pháp có thể đã đầu tư vào đó gần 200 triệu franc để khai thác. Tuy nhiên, do có thể không biết chi tiêu hay do sợ mất số tiền khá lớn này (sợ lỗ nhiều hơn lời), người Pháp rất ngại không muốn đầu tư nhiều vào Nam Bộ - vùng đất giàu tiềm năng nhất. Ngoài ra, việc thuê nhân công vào cũng làm Pháp tốn rất nhiều tiền; cho nên Pháp đã không dám tổ chức khai hoang, không muốn mộ dân đi khai hoang Nam Bộ. Mục đích cuối cùng là Pháp chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà thôi - đầu tư ít nhưng muốn có lợi nhiều. Trong thời gian này, do nhà nước đầu tư còn hạn chế nên việc khai phá Nam Bộ diễn ra chậm chạp. Các kế hoạch bán đất không giới hạn mặc dù đã được đưa ra để tạo điều kiện cho tư nhân Pháp đầu tư vào để tăng ngân sách, nhưng thực hiện khá chậm chạp, cho nên kết quả quan trọng là hình thành tầng lớp đại điền chủ người Việt, có sở hữu lớn về ruộng đất nhưng không biết làm nông, không giúp hiệu quả gì trong khai thác. Do cơ chế khai thác tự do nên Nam Bộ là vùng đất Pháp trực tiếp khai khẩn. Các nghị định 1913, 1926 của các Toàn quyền Sarraut và Robin cho phép bán đấu giá đất đai bị hoang hóa. Đất khi bán đấu giá là trên 10 ha và không hạn định số lượng bán. Đất đai được phép buôn bán, kinh doanh với điều kiện phải khai khẩn, nộp thuế.
- Đầu tư hạ tầng: đường bộ, đường sắt và kênh rạch. Pháp giao đất cho dân ta khai thác, tạo sở hữu lớn về ruộng đất, tạo năng suất để xuất khẩu lúa gạo.
Từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, Pháp đưa 4 tỷ franc vào và đầu tư có chiều sâu. Pháp đầu tư kỹ thuật nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế như đầu tư phân bón, cây trồng, cho kỹ sư giới thiệu giống mới... nhằm mục đích vực dậy kinh tế, tạo điều kiện để Pháp tiến hành các phương án khai thác hiệu quả Nam Bộ hơn. Trên các vùng chính ở đồng bằng sông Cửu Long, Pháp tiến hành cơ khí hóa nông nghiệp: dùng xán cạp, máy đào kênh (có từ 1890) để phát triển hệ thống kênh rạch ở Nam Bộ. Kết quả, Pháp tạo ra hai hệ thống kênh chính (1.360 km), kênh phụ (2.500 km) nhằm mục đích điều tiết, thau chua rửa mặn. Ngoài ra, Pháp cũng cử các cơ quan đi nghiên cứu nông nghiệp Nam Bộ để chọn giống cây trồng, vật nuôi, cơ khí, phân bón để áp dụng vào thổ nhưỡng Nam Bộ. Mặc dù chính quyền hết sức ưu đãi, nhưng tư bản Pháp vẫn không đến đầu tư nhiều vì không quen canh tác nông nghiệp - đất hoang hóa nhiều. Hơn nữa ở Pháp, đất hoang của nó cũng còn quá nhiều nên nó chú trọng đầu tư nước mình trước (tham nhũng, khủng hoảng chính trị ảnh hưởng đến cơ may của Pháp ở thuộc địa). Đầu tư không đồng bộ ảnh hưởng đến các quy luật, tính chất và từng loại thích hợp.
Vào năm 1897 ở Đông Nam Bộ, Pháp đưa cao su (gốc từ Brazil) vào Việt Nam, trồng tốt như người Anh ở Malaya; nhiều công ty, đồn điền cao su mọc nhiều. 
Sở hữu lớn về ruộng đất chính là nguyên nhân cản trở việc khai thác Nam Bộ trên quy mô lớn của Pháp; vì phương thức canh tác bất hợp lý, mang tính cướp đoạt; chế độ cấp đất đai cho nhân dân khai hoang theo kế hoạch Leroy - Beaulieu (cho phép khai phá trong 5 năm - quá thời gian đó thì đất sẽ bị sung công) làm tình trạng mất đất càng nhiều hơn. Hơn nữa, bản thân các địa chủ có sở hữu lớn về ruộng đất thì lại không biết khai hoang, không biết gì về nghề nông nên không đầu tư theo chiều sâu; cho nên phương pháp khai thác chủ yếu vẫn là dùng tá điền, nộp tô thuế. Quảng canh là phương thức canh tác chính (không kỹ thuật, phân bón), thực lực đầu tư của tá điền không có, kỹ thuật canh tác giống mới quá đắt đỏ, phân bón chưa phù hợp, do người Pháp không thể đầu tư toàn diện.
Kết quả:
+ Nhà nước thực dân khai phá thành công ở Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá. Ruộng đất ở các nơi này khai hoang nhanh, ruộng hoang không nhiều (ít ngập mặn hơn); đào nhiều kênh như kênh Rạch Giá - Long Xuyên, kênh Frerès - Bocquillon, kênh Saintenoy, kinh Maspéro, kinh Ô Môn, kinh Ba Lang... để điều tiết lượng nước, thoát nước ra biển. Theo thống kê, diện tích khai hoang tăng nhanh: 10.664 ha (1881), 20 vạn ha (1921), 38,2 vạn ha (1942), 66 vạn ha (1946). Rạch Giá là vùng đất mới, thổ nhưỡng và kênh rạch tốt nên khai phá nhanh, tư bản Pháp - bản xứ bỏ vốn thực hiện. 
Năm 1893, các công trình kênh đào và nạo vét sông tháo nước đều được Pháp lập thành kế hoạch giao cho các công ty tư nhân khai thác, lãnh thầu dưới sự kiểm soát của Nha công chính Đông Dương. Kết quả thì Pháp vét 824.000 m3 (1890 - 1900) => 7.233 m(1920 - 1930) để đào kênh. Họ đào được 1.300 km kênh chính, 2.500 km kênh phụ, phí tổn là 48 triệu franc
Riêng Đồng Tháp Mười, việc khai phá bị thất bại do nhiều nguyên nhân: tình trạng đất bỏ hoang nhiều, phèn nặng và đất “không chân” nhiều nên khó thoát nước khi nước lên (Pháp cố gắng đào kênh An Hạ, Bãi Vồn để thoát phèn; trồng lúa vào), coi như thất bại, 1 - 2 vụ không lời lãi gì. Một nguyên nhân khác đó là Pháp không có sự nghiên cứu toàn diện, không hiểu thổ nhưỡng Đồng Tháp Mười (phèn nặng, dùng kênh tháo phèn nhưng không ăn thua) dẫn đến thất bại. 
Dù thất bại, nhưng Pháp cũng một phần nào khai khẩn được vùng Đồng Tháp Mười với việc cho đào nhiều kênh, mở rộng kênh mới, như sau:
Việc mở rộng, khai thông các kênh để phục vụ vận chuyển lương thực vào Sài Gòn. Theo ghi chép của Sơn Nam, Pháp vào năm 1866 đã cho mở rộng kênh Bảo Định, kênh Bến Lức, kênh Chợ Gạo và kênh Trà Ôn (1875). Tổng đốc Trần Bá Lộc thời kỳ này cũng ra tay đào kênh - đào kênh Tổng đốc Lộc (thời kháng Pháp đổi thành kênh Nguyễn Văn Tiếp). Cuối thế kỷ XIX, tham biện Tân An là Helgouach và Lagrange (1897 - 1902) đã cho đào các kênh nhánh (kênh 25, 26, 27, 28) để mở rộng kênh Tổng đốc Lộc; kênh Lagrange (về sau đổi thành kênh Dương Văn Dương - chiến sĩ Bình Xuyên thời kháng Pháp). Đầu thế kỷ XX, Pháp cho đào và mở rộng các kênh mới: kênh Lấp Vò (1904 - 1906), kênh Măng Thít. Năm 1907, Tổng thanh tra Công chính Pouyaune cho mở rộng các kênh Lagrange, Tổng đốc Lộc, Đá Biên (huyện Thạnh Hóa, Long An), Lacombe (1918). Từ 1923 - 1925, đào kênh nối rạch Thương Mại với sông Mỹ Tho. Từ 1921 - 1924, cải tạo mở rộng kênh Tổng Đốc Lộc và kênh số 4. Tính đến năm 1930, khối lượng đào kênh bằng tàu cuốc ở đồng bằng sông Cửu Long là 155 triệu m3, khối lượng này gia tăng đều đặn hàng năm. Sang đến năm 1936, Pháp đã cho đào 1.360 km kênh chính, 2.500 kênh phụ và hàng ngàn km kênh nhỏ với kinh phí lên đến 58 triệu đồng. 
Pháp xúc tiến các dự án đào kênh ở Đồng Tháp Mười: 
- Dự án nghiên cứu các con sông ở Tân An của Gaudary năm 1907.
- Dự án nghiên cứu Đồng Tháp Mười của Bolliet và Saraudy  năm 1907.
- Dự án nghiên cứu Đồng Tháp Mười của Gripeix và Baillie năm 1910.
- Dự án mở rộng và hoàn thiện các con kênh phía hạ lưu Hồng Ngự của Bénaberg năm 1916.
Khối lượng đào kênh tăng lên rõ rệt, chỉ trong 9 năm (1905-1913), khối lượng đào kênh bằng tàu cuốc đã lên đến 37,5 triệu m3. Nhưng do ảnh hưởng của chiến tranh Thế giới thứ nhất, hợp đồng phải thay đổi rất nhiều lần và gia hạn lại trong các năm 1927, 1928, 1929. Tình hình đó, càng làm cho công cuộc đào kênh ở Đồng Tháp Mười càng ảm đạm hơn.
Nhận xét:
- Chỉ huy đào kênh: lúc đầu là đô đốc; sau là các công ty thủy nông như Công ty đào sông và các việc công chính Đông Dương (1901), Công ty kĩ nghệ tại Đông Dương, Công ty Montvenoux (1893)... Song, Đồng Tháp Mười là vùng đất còn hoang vắng, đầy phèn, khó canh tác, đầu tư tốn kém nên chỉ một vài cá nhân có địa vị trong chính quyền Pháp vì lợi ích riêng đứng ra chỉ huy đào. Kênh Tổng Đốc Lộc là do chính Trần Bá Lộc bỏ chi phí ra đào từ khâu lên kế hoạch, thiết kế đo đạc, thuê mướn nhân công… thực dân Pháp chỉ đồng ý cho Lộc huy động dân phu. Sau Trần Bá Lộc là những viên Tham biện người Pháp như Helgouach và Lagrange, nhận thấy được lợi nhuận từ việc đào kênh đã tổ chức đào nhiều kênh mới trong vùng này (các kênh 25 – 26 – 27 – 28, kênh 12, kênh Lagrange…). Cùng đó là một số điền chủ tư nhân đầu tư đào những kênh nhỏ nối vào các kênh chính để phục vụ cho sản xuất nông nghiêp.
- Lực lượng đào kênh: lúc đầu là người Pháp với phương tiện đào kênh hiện đại (xáng múc, tàu cuốc), Nhưng có lẽ vì mục đích chính trị (kiểm soát người bản địa đang căm hờn bởi sự xâm lược của thực dân Pháp trên quê hương họ), sự nghi ngờ trong đầu tư mà không đem lại lợi nhuận như mong muốn (đang trong giai đoạn thử nghiệm) nên chính quyền thực dân sử dụng dân phu người Việt (rẻ hơn) khá nhiều cho việc đào kênh. Dân phu làm việc mệt nhọc “phải phát cỏ, đào tay, dùng xe trâu để tiếp nước và lương thực cho hàng trăm phu tại giữa đồng, nhiều người chết vì sốt rét và dịch tả”; trong điều kiện khắc nghiệt (thiếu nước ngọt, rắn độc, muỗi, đỉa, nước nhiễm phèn…) nhưng công cụ thì thô sơ như cuốc, xẻng, phảng, sọt… thế mà “chẳng được trợ cấp thức ăn, thuốc men gì cả”. Làm việc cực như thế nhưng Pháp trả lương ít ỏi: dân phu nghèo khổ tiền công có 10 - 15 xu; có nơi trả 2 - 3 hào song rất ít. Trong khi đó, bọn kỹ sư và nhà thầu Pháp lại lĩnh lương cao: 5.000 đồng Đông Dương/năm, gấp 30 lần một viên chức trung bình và gấp 100 lần một viên chức nhỏ người Việt. Ngay cả Tổng đốc người Việt chỉ lĩnh lương và phụ cấp là 300 đồng = 750 franc - 1 đồng Đông Dương = 2,5 franc. 
Mục đích đào kênh ở Đồng Tháp Mười:
- Do đặc thù về địa hình, địa mạo; nơi hoang vắng và luôn bất ổn, nên đào kênh với kỹ thuật thô sơ.
- Kiểm soát an ninh, phát triển kinh tế - xã hội.
- Phục vụ cho tham vọng mang nền văn minh phương Tây sang nước ta để về lâu dài không ngoài gì khác là “khai hoá và khai thác”.    
Người Pháp thành công ở Nam Bộ với việc đào 2 hệ thống kênh:
- Trục Tây sông Hậu: có 5 kênh, lớn nhất là kênh Thốt Nốt.
- Trục Long Xuyên - Cần Thơ, giao nhau ở ngã Bảy.
Các kênh đào lớn như Rạch Giá, Xà No, Long Mỹ; hình thành hệ thống đồn điền với 37 đồn điền ở miền Đông (lớn nhất là 1.000 ha). Miền Đông là nơi có đất bazan, đất xám là đất cao và không màu mỡ, mà trong bazan co ocid sắt - đá ong hóa (laterit) là đất xám.
Đặc trưng khai phá Nam Bộ:
- Nhịp độ khai thác nhanh: Pháp khai thác 80 năm bằng triều đình 200 năm mới khai phá xong Nam Bộ, đầu tư hàng hóa và kỹ thuật là yếu tố chính đẩy nhanh việc khai phá. Tư bản đầu tư mạnh trong lần khai thác thuộc địa thứ 2 đã làm diện tích khai phá tăng 10 lần.
- Khai phá tối đa, gần hết và đất chuyển nhượng không nhiều. Từ 1919 - 1929, toàn bộ vùng Gia Định, Gò Công, Cần Thơ, Mỹ Tho, Tân An, Sa Đéc, Trà Vinh, Rạch Giá đã khai phá xong.
- Có tác động của tư nhân Pháp vào nhiều.
- Người Việt có cống hiến lớn trong khai phá Nam Bộ. Họ hiểu thổ nhưỡng, thời vụ và đất đai nên dễ canh tác, sản xuất (Hoa, Khmer không quen); kênh đào chưa dày, thiếu hệ thống kênh phụ thoát nước, nên không tác dụng; đất hoang nhiều, chưa đủ kinh phí để khai phá.
- Hình thành điền sản lớn, sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất. Ruộng hoang nhiều nên Pháp cho dân tự do khai phá, không hạn định. Do là sở hữu lớn có phương thức canh tác điền sản khá mạnh, tá điền bị bóc lột nhiều hơn. Đại diền sản lớn làm tăng thêm quyền chiếm hữu ruộng đất của địa chủ. Mỗi đại điền sản có diện tích không lớn (3 - 5 ha), nhưng đủ cho nông dân nộp tiền, thuế đất (không đầu tư), miền Tây là lạc hậu. Sở hữu lớn thực chất là sản xuất nhỏ, không thoát khỏi kinh tế tiểu nông; ruộng nhiều nhưng người ít, khó đầu tư. 
Tính chất:
- Là thuộc địa khai thác hoàn toàn phụ thuộc vào lĩnh vực tư nhân và đặt dưới sự tự do kinh doanh.
- Không phải thuộc địa di dân, nhà nước đầu tư trực tiếp.
- Phát công cho tư nhân 1.500 ha nhượng địa, sau Thế chiến I thì Pháp kiều bỏ nhượng địa; tuy nhiên nó khai phá được 2,2 triệu ha, trong đó đồn điền trồng lúa 10 vạn ha, đồn điền cao su 98 vạn ha (1930). Ở đồn điền cao su thì Pháp chỉ khai thác sinh lợi là 32.500 ha, sản xuất 10.000 tấn mủ cao su.
Sở hữu:
- Địa chủ: sở hữu nhiều ruộng đất. Có 63.000 địa chủ lớn sở hữu ruộng đất trên 10 ha (chiếm 2% số dân, nhưng hưởng 45% diện tích canh tác); địa chủ vừa và nhỏ sở hữu 5 ha ruộng đất, chiếm 15% diện tích canh tác. Ngoài ra còn 183.000 tiểu chủ, chiếm 72% dân số. Việc sở hữu càng lớn của địa chủ tạo cơ hội có lợi cho Pháp lập điền sản lớn.
- Nông dân: 354.000 gia đình nông dân không có ruộng đất, chiếm 57% dân số. Vùng Rạch Giá, Hà Tiên thì dành cho dân Bắc Kỳ định cư nhưng chỉ lôi kéo được vài nghìn người vào khai khẩn.
- Hoa kiều: chính quyền thực dân Nam Kỳ tạo điều kiện cho người Hoa hoạt động lớn ở Nam Bộ. Ở Nam Kỳ có 85.000 Hoa kiều sinh sống, tập trung nhiều ở các thành phố lớn: Sài Gòn (100.000/250.000 dân), Hải Phòng (19.000/124.000 dân), Hà Nội (5.000/128.000 dân), Nam Định (1.500/23.000 dân).
Tác động:

- Các địa chủ không trực tiếp canh tác ruộng đất mà giao cho nông dân canh tác. Ở Nam Kỳ, 85% ruộng đất (1.800.000 ha) chia thành các lô ruộng đất cho tá điền cày thuê (khoảng 5 - 10 ha). Năm 1939, Việt Nam có 6.800 đại địa chủ, riêng Nam Kỳ là 6.300 người - còn lại là 500 người; quyền sở hữu lớn về ruộng đất thuộc về tay địa chủ Nam Kỳ (Trương Văn Bền 1.800 ha, Trương Đại Danh 8.000 ha). Địa chủ giao ruộng đất cho tá điền, cho vay cắt cổ. Những loại ruộng đất này khi thu hoạch sản phẩm - chủ yếu là gạo thóc - thì đem bán cho Hoa kiều hay tư bản Pháp để thu lợi, nhưng lợi tức thu được không đóng góp gì vào sự phát triển kinh tế thuộc địa. /.