Văn
nghị luận phải viết thế nào?
Lóng nầy trong báo giới Hà Nội đương có
cuộc tranh biện về lối văn. Báo Đông phương ra sức công kích lối văn
Hoàng Tích Chu; còn Đông tây, báo của ông Chu,
cũng ra sức biện hộ cho mình. Cuộc tranh biện chưa xong, chưa biết bên nào được
thắng lợi. Tôi viết bài nầy, cốt mượn việc ấy làm đề mục để phát biểu ý kiến,
chớ không có ý “đập huội” theo bên nào.
Trong văn Quốc ngữ ta, cái lối viết của
ông Hoàng Tích Chu thật nó biệt hẳn ra một lối, đủ mà kêu được là “lối văn
Hoàng Tích Chu”, sự ấy trong làng văn ta hình như đã công nhận một cách vô tâm
rồi. Chẳng luận lối văn ấy ông Chu sáng tạo ra
hay bắt chước của ai; nội một cái biệt lập ra một nhà được như thế, cũng khá
gọi là tay hào kiệt trong làng văn vậy.
Đối với lối văn ấy, tôi nửa phần thì
tán đồng, nửa phần thì bất mãn. Tôi tán đồng ở cái chỗ bố cuộc khá mới, đặt câu
khá gọn, nhứt là có nhiều khi hiểu được cái ý của tác giả ở bên ngoài lời văn.
Nhưng lối văn Hoàng Tích Chu không phải toàn được như vậy hết đâu; lắm khi lại
thấy như là tạp nhạp, lắm khi lại thấy như là vô duyên; còn một điều dễ tức
mình nhứt là lắm khi không rõ, đọc xong một bài mà chẳng biết nói chuyện chi:
ấy đó là những chỗ tôi lấy làm bất mãn.
Bất kỳ văn của ai đồng thời với tôi
đây, tôi đều lấy tinh tâm mà đọc, không dám bỏ qua một người nào hết. Huống chi
văn Hoàng Tích Chu đã là biệt riêng ra một lối, nên tôi càng chú ý hơn. Nhiều
khi tôi thấy như ông giãi bày cái lý gì cao sâu lắm, đọc qua không hiểu liền
nổi, phải định tâm mà suy nghĩ cho thiệt lung. Suy nghĩ lâu rồi tôi cũng hoàn
không hiểu! Như thế, tôi phải hạ một câu kết luận lưỡng cước rằng: Một là ông
Hoàng Tích Chu đã lãnh hội được những lẽ cao thâm huyền diệu quá sức óc của tôi
đến nỗi khó đem lời nói mà giải ra; một là trong tay của ông chẳng có cái bánh
cây kẹo gì hết, mà ông làm bộ nắm chặt lại để phỉnh tôi, cho tôi nhễu nước
miếng và chạy theo ông mỏi cẳng.
Nhơn đó tôi lại hạ một câu kết luận thứ
hai nữa. Tôi nói: Lối văn Hoàng Tích Chu ấy mà muốn vĩnh viễn thành lập trên
văn đàn, bề nào cũng phải cải lương. Mà sự cải lương nầy không cốt ở sửa đổi
đẽo gọt bề ngoài, phải nhờ ở công học vấn bên trong mới được. Bởi vì theo câu
kết luận thứ nhứt của tôi, một là trong óc có lý mà nói không ra, hay một là
trong óc không có lý, hai cái khuyết điểm ấy cũng chỉ có gia công học vấn thì
mới bổ cứu được mà thôi.
Tôi tin rằng lối văn Hoàng Tích Chu có
thể đứng vững thành một phái nếu người chủ trương nó có công học vấn cho thành
thục, trong óc chứa lý được dồi dào và thấy lý được sáng suốt. Bằng chẳng vậy,
chỉ lo bố cuộc cho mới, đặt câu cho gọn, là sự trang sức ở bề ngoài, thì, bây
giờ đây chưa đến nỗi chớ sau riết rồi nó thành ra “lối văn bịp” như người ta đã
bình phẩm đó, chẳng khó gì đâu.
*
Khi tôi bắt đầu viết bài nầy có ý dự
vào cuộc tranh biện ấy để phát biểu ý kiến mình đôi chút; nhưng sau rồi ngó
thấy cái phạm vi rộng quá, tôi bèn khép bớt lại mà chuyên nói một lối văn nghị
luận mà thôi.
Từ đây nhẫn xuống tôi muốn chỉ ra những
sự đắc thất trong lối văn nghị luận, là thứ văn dùng trên báo chí hằng ngày, và
cũng tỏ ra cái khuynh hướng của phần riêng tôi, để góp một cái ý kiến vào văn
giới. Đến như lối văn Hoàng Tích Chu, theo tôi, nói như trên đó là đủ.
*
Người ta trước khi làm việc gì cũng
phải nói. Nói để bàn bạc sự lợi hại nên hư rồi sau mới làm. Cái nói ấy, tức là
văn nghị luận đó. Vậy thì văn nghị luận không lấy văn làm mục đích mà lấy việc
làm làm mục đích, là lẽ đành rành.
Trong sách nho có câu giống như là
“ngôn khả đễ vu hành” thì phải, nghĩa là lời nói có thể đem mà làm ra được; câu
ấy thật đáng làm nguyên tắc cho văn nghị luận. Bốn chữ “khả đễ vu hành” đó nó
bao hàm không biết bao nhiêu sự lý mà kể. Khi mình nghị luận một việc gì phải
nhắm trước nhắm sau, tính lui tính tới, quý làm sao cho khỏi thành ra lời nói
suông, thật không phải dễ.
Một bài văn nghị luận, lời xuôi lẽ
thuận rồi, điều lý rõ ràng rồi, lại còn phải đối chiếu với hoàn cảnh khắp cả
các phương diện, nếu không có gì trở ngại cho sự thiệt hành thì mới là một bài
văn hay.
Có nhiều bài xã thuyết thấy trên các
báo, luôn luôn bàn về những giáo dục, kinh tế v.v., mà đều là những chuyện đâu
đâu, không thiết thiệt gì với việc của mình đây hết. Những văn suông ấy thật là
trái với cái nguyên tắc nói trên kia, chẳng qua viết để đầy trương giấy mà
chơi, cố nhiên là không có mục đích về việc làm. Ta nên bỏ qua nó đi mà nói về
thứ văn nghị luận có mục đích.
Đại để những bài văn bàn về tiền đồ
chánh trị nước ta nên xu hướng thế nào, về văn hóa nước ta nên bồi bổ làm sao,
hay là rút nhỏ lại, như bàn về việc cải lương hương chính, cải lương nghề hát
xướng: ấy đều là văn nghị luận có mục đích, cái mục đích ở nơi muốn người ta
làm theo lời của mình. Nhưng trong những bài văn ấy hiện ngày nay cũng còn thấy
ra lắm điều khuyết hám.
Ấy chẳng có gì lạ hơn là trong óc ai
nấy đã nhiễm cái độc của văn khoa cử nhiều quá đi. Đại để văn khoa cử hồi xưa
quý viết cho có lời và lời cho chải chuốt, chớ không cần đem mà gióng với việc
làm, bởi vậy mới gọi là “hư văn”. Xin độc giả chớ tưởng khoa cử đã bỏ lâu rồi
thì cái lối văn ấy cũng tiêu diệt hết mà lầm. Giữa loài người xưa nay vẫn có
cái luật di truyền, về sanh lý(*) cũng như về tư tưởng. Thế thì cái lối văn
khoa cử nó cũng theo luật di truyền mà ở từ óc ông cha chúng ta sang qua óc
chúng ta, là sự chẳng khó gì hết vậy.
Chúng ta thử đọc một đôi bài văn nghị
luận – nghị luận việc quan hệ lợi hại lắm chớ – mà trong đó thấy dẫn vào không
biết bao câu thí dụ, thì đã biết là có giá trị gì không rồi. Phàm trong văn mà
dùng lời thí dụ là phần nhiều bởi khi nói về triết lý, cái lý khó hiểu phải
dùng thí dụ mà giải ra cho dễ hiểu vậy thôi. Chớ khi nghị luận thì cứ băm vào
việc mà nói, việc nên làm thế nào, nói hẳn ra thế ấy, nào có cần chi thí dụ?
Tóm lại, văn nghị luận phải viết cho
thật rõ, lại phải cho ý tứ dồi dào mà đừng có lời dư. Nó như là vẽ một cái địa
đồ. Ông chưa biết đường sá trong thành phố Sài Gòn đây ra sao, ông nhờ tôi vẽ
một bức địa đồ Sài Gòn cho ông, nếu ông nắm bức địa đồ ấy mà đi không lộn, tức
là tôi vẽ được đó. Viết văn nghị luận cũng vậy, nếu đem ra thiệt hành được, ấy
là văn hay.
Nếu vậy, có một điều đáng lo cho lối
văn Hoàng Tích Chu nữa. Vì lâu nay đã thấy rồi, hình như nó dùng vào nghị luận
không lợi lắm là tôi nói kém sự rõ.
|
Phan Khôi
Trung lập, Sài Gòn, Số 6491
(Phụ trương văn chương số 12, thứ Bảy ngày 18.7.1931) |
Nguồn:
http://vi.wikisource.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét