Khiemnguyen

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Thuật ngữ về tản văn báo chí



THUẬT NGỮ BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG

Thành Hưng
1. THỂ LOẠI
Tiếng Anh: genre
Là tập hợp những đặc điểm rút ra từ hàng loạt các tác phẩm ngôn từ, nghệ thuật, được khái quát và biểu hiện bằng một thuật ngữ có tính ổn định tương đối trong một hệ thống các phương tiện phản ánh đời sống và sáng tạo tác phẩm.
Lý thuyết thể loại là lý thuyết phát triển trên cơ sở quan sát và phát hiện những yếu tố chung tiềm ẩn trong nhiều tác phẩm, để tiến tới loại hình hoá chúng thành những nhóm tác phẩm có sự gần gũi, thống nhất về đề tài, kết cấu, thủ pháp mô tả, phản ánh, lịch trình phát sinh cùng sự vận động biến đổi của chúng trong lịch sử. Sự phần chia thể loại vì vậy không phải là sự phân chia cơ giới, mà chỉ mang ý nghĩa tương đối về phương diện lý thuyết.
Trong thực tiễn báo chí, các thể loại báo chí luôn có sự ảnh hưởng, giao thoa, tiếp nhận và loại bỏ những ưu thế, đặc điểm của nhau. Các thể loại báo chí xuất bản bằng giấy in đã tạo tiền đề cơ bản cho các thể loại truyền thanh và truyền hình xuất hiện. Ngược lại, sau khi truyền thanh và truyn hình ra đời và phát triển, các thể báo in cũng tiếp nhận những ảnh hưởng của tư duy truyn thanh, đặc biệt là kiểu “tư duy truyn hình”, như: thủ pháp cắt ghép, thủ pháp miêu tả có tính đổng hiện, tiếng vọng - độc thoại nội tâm của nhân vật v.v. Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, hơn hẳn mọi thể loại của văn học nghệ thuật, các thể loại báo chí không chấp nhận những quan niệm khuôn thước cố định, nhất thành bất biến trong lý luận. Các quan niệm về thể loại chỉ có chức năng của người trợ thủ, gọi ý cho nhà báo tiếp cận hiện thực, khai thác, xử lý và diễn đạt thông tin nhanh hơn. Nhiều nhà báo nghiệp dư đến với hoạt dộng báo chí một cách hổn nhiên, hoàn toàn không có ý thức gì về thể loại nhưng vẫn rất thành công. Thực ra, bằng việc đọc sách báo hàng ngày, họ đã tiếp nhận kinh nghiệm thể loại một cách vô tư, bất tự giác, đồng thời bằng trí thông minh năng khiếu bẩm sinh, họ nhanh chóng đặt bút mình tuân thủ tư duy thể loại. Bởi vì xét cho cùng, thể loại chính là trí nhớ, là ký ức chung cùa loài người vể văn hoá.
2. TẢN VĂN
Theo quan niệm ca người Trung Quốc cận đại, tản văn là văn xuôi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tuỳ bút, tiu phẩm, tiểu luận. Các tiểu thể loại vói những cách định danh khá ngẫu hứng, tự do như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, phiếm luận, tạp trở, đoản văn... cũng được xếp vào phạm trù tản văn. Như vậy, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đắc dụng khi bản thân tác gi không ý thức được hoc không cn quan tâm tới việc tác phẩm cùa mình được viết theo thể loại nào: tạp văn hay tiểu phẩm, tiểu luận hay phiếm luận, phiếm đàm. Loại trừ các thể văn vẩn, thơ ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, khái niệm tản văn đứng ra như một khái niệm dung hoà các đường biên thể loại.
Đặc điểm phổ quát của tản văn là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên của quan điểm, cách cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi tiết. Vị thế của chủ thể tản văn nhìn chung là vị thế cao đàm, ung dung tự tại, vượt lên thói thường, đưa đường chỉ lối cho độc giả khám phá thời cuộc, trải nghiệm cuộc sống, hoặc cảm nhận những khía cạnh mới mẻ, ý vị của đời sống nhân sinh.
Tản văn là thể văn trữ tình nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí. Nếu nói về các cây bút tản văn, phải nghĩ ngay tới các nhà văn nổi tiếng như Lỗ Tấn (tạp văn) Tản Đà (tuỳ bút), Ngô Tất Tố (tiểu phẩm), Nguyn Tuân (tuỳ bút), Vũ Bằng (tuỳ bút, thời đàm), Hoàng Phủ Ngọc Tường (bút ký), Băng Sơn (đoản văn) v.v. Các chuyên mục tản văn hiện nay xuất hiện khá đều trên nhiu tờ báo Việt Nam. Cách đặt tên chuyên mục có thể dựa thẳng vào thể loại, cũng có thể dựa theo đề tài, gắn liền với các hình ảnh ẩn dụ hoặc lối nói chào mời đối thoại, như Hà Nội tạp văn, Phiếm đàm, Sau luỹ tre làng, Nghĩ mà coi, Mỗi ngày một chuyện, Nói hay đừng v.v.
3. TẠP VĂN
Là một thể tản văn giàu tính luận chiến về một đề tài chính trị, xã hội nào đó có ý nghĩa thời sự. Tạp văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ thuật sinh động. Trong số các thể tản văn, tạp văn là thể giàu tính báo chí hơn cả. Nếu như “tâm thế tản văn” là tâm thế nhàn tản, ngâm ngợi, thích ứng với lối cảm nhận điềm tĩnh, suy tư thì thể tạp văn vượt lên như một thể loại xung kích, phản ứng nhanh nhậy, kịp thời trước những vấn đề bức xức của đòi sống xã hội...
Tạp văn hoàn toàn xa lạ với không gian điền viên và các nhu cầu thư dãn, giải trí. Ở Trung Quốc, tạp văn ra đời trong không khí nỏng bỏng của phong trào cách mạng Ngũ Tứ (1917- 1924). Không khí cách mạng đó phần nào ấn định tính chiến đấu của tạp văn. Lỗ Tấn ngay trong những năm cách mạng đó đã mài sắc ngòi bút tạp văn, đưa thể văn này đạt tới tầm cao nghộ thuật, ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, các nhà văn kiêm nhà báo như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng v.v. đều tận dụng hiệu năng công luận cửa tạp văn, tạo dựng được môi trường độc giả riêng cho thể loại này được nuôi dưỡng và phát triển.
4. TIỂU PHẨM
Tiếng Anh: feuilleton, newspaper satire;
từ nguyên gốc tiếng Pháp:: feuillton = tờ giấy, chiếc lá.
Do sử dụng thuật ngữ bằng từ Hán Việt, “tiểu phẩm” được hiểu một cách thông dụng như một tác phẩm ngắn gọn, nhỏ lẻ, có dung lượng khiêm tốn, chỉ lưu ý tới “lượng” chứ không tới “chất” của tác phẩm.
Trong lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là báo in, tiểu phẩm là thể loại có vị thế tương đối cổ điển. Thời kỳ đầu xuất hiện, tiểu phẩm còn nằm lẫn trong các trang phụ trương quảng cáo gắn kèm với các trang chính của tờ báo. Nổi tiếng nhất trong số các trang phụ trương tiểu phẩm và quảng cáo này là phụ trương của nhà văn Lessing cho tờ báo Đức Vossische Zeitung, xuất bản từ năm 1751 đến năm 1755.
Vì có nội dung châm biếm, hài hước về những chuyện sinh hoạt đời sống, có chức năng giải trí là chủ yếu, tiểu phẩm được phép phát triển nằm ngoài sự quan tâm của bộ máy kiểm duyệt chính thống. Sự nhận biết và “khai trương” thể loại chính thức diễn ra vào năm 1800, khi chủ bút tờ báo Pháp Journal des DébatsJ. Geoffroy quyết định di chuyển tiểu phẩm cùng mục quảng cáo từ các trang phụ trương vào nửa dưới trang nhất của mỗi số báo. Những số báo đầu tiên, ông in các bài phê bình sân khấu của mình. Nửa dưới trang báo được ngăn với nửa trên bằng một vạch kẻ ngang, mực đậm, với mục đích lưu ý độc giả rằng đây là phần được miễn kiểm duyệt. Về mặt đồ hoạ kỹ thuật, bài tiểu phẩm thường được in bằng kiểu chữ nghiêng và được đóng khung. Được sáp nhập vào trang báo chính thức, thể tiểu phẩm bắt đầu một lịch sử phát triển cùa nó. Nhiều ký giả và nhà văn nổi tiếng như Th.Gautier, Ch.A. Sainte-Beuve (Pháp), I.S. Puskin (Nga), H. Heine (Đức), K. Oapek (Séc), đều tham gia viết tiểu phẩm. Một số nước còn gọi tiểu phẩm bằng cái tên nôm na là “bài dưới vạch” (podcara - Séc), tức là dưới vạch cấm, hay khu vực “phi kiểm duyệt”. Các bài tiểu phẩm càng ngày càng hấp dẫn độc giả và ảnh hưởng sâu rộng tới đông đảo công chúng. Đề tài của tiểu phẩm mở rộng đần trên các mặt của đời sống văn hoá - xã hội và nghệ thuật. Vì bị giới hạn về dung lượng chữ, tiểu phẩm phát triển theo xu hướng dồn nén thẩm mỹ và bắt đầu một lịch trình giao thoa loại hình. Bằng lối viết nhẹ nhàng, hóm hỉnh, phân tích, bình luận một cách hài hước, các cây bút tiểu phẩm đã đưa thể loại này xích lại gần văn học, tới mức có nhà nghiên cứu (J. Táborská) cho rằng đây chỉ là một thể loại văn học xuất hiện và phát triển nương nhờ trên “đất báo”.
Tuy vậy, thực tiễn và sự khái quát lý thuyết về tiểu phẩm không phải có sự thống nhất ở tất cả mọi nước. Hiện tại, Đức, khái niệm “feuilleton” được dùng để chỉ tất cả các bài báo ngắn in trên các trang phụ trương, viết về văn hóa, xã hội, giới thiệu và phê bình văn học nghệ thuật, kể cả những bài bình luận chính trị và không tính tới chất hài hước, châm biếm đó có hay không.
Ở Việt Nam, tiêp nhận những ảnh hưởng tinh hoa của hai nền văn hoá lớn là Pháp và Trung Quốc, các nhà báo Nguyên Ái Quốc, Ngô Tất Tố thực sự là những cây bút tiểu phẩm tiên phong của báo chí Việt Nam hiện đại. Di sản tiểu phẩm của hai tác giả ngay từ đầu đã hội đủ không chỉ những thuộc tính phổ quát của thể loại feuilleton phương Tây mà còn có sự bổ sung các đặc điểm mới: tính chiến đấu và sự can dự sâu rộng vào địa hạt chính trị. Tiểu phẩm của báo chí đầu thế kỷ này ở Việt Nam thường xuất hiện trong các chuyên mục như ‘‘Nói mà chơi”, “Thời đàm”, “Mua vui cũng được một vài trống canh”, “Nói hay đừng” v.v.
5. BÀI BÁO
Tiếng Anh: article;  từ nguyên gốc Latinh:  articulus  =  phần đoạn
Trong một quan niệm rộng rãi, không có tính chuyên ngành, bài báo là bất kỳ văn bản nào có tác giả công bố trên mặt báo trừ các mẩu tin. Trong quan niệm mang tính chuyên ngành, bài báo là một tác phẩm báo chí có nội dung và hình thức hoàn chỉnh, xuất hiện như một bức thông điệp chứa đựng một thông tin cốt lõi có mô tả, lý giải rõ ràng, cụ thể, lôgic và dễ hiểu một sự kiện, hiện tượng hoặc một vấh đề, quan niệm nào đó đang có ý nghĩa thời sự và ý nghĩa xã hội quan trọng. Tác giả bài báo phải tìm kiếm các mối liên hệ, xác định nguyên nhân, h quả, phân tích, xếp loại sự kiện, bổ sung các bằng chứng và đưa ra được những nhận định khái quát. Nội dung bài báo được tạo bởi những tư tưởng, quan niệm cơ bản, mang tính chính thống hoặc là quan niệm cùa một tập thể, cộng đồng kết hợp vói các luận chứng, chứng cứ cụ thể. Bên cạnh đó, bài báo bao giờ cũng chứa đựng thái độ chủ quan cùa tác giả qua sự đánh giá, phân tích, qua cả kết cấu, ngôn ngữ, bút pháp, vì vậy những bài viết thành công thường được xếp vào khu vực những tài liệu truyền thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu và quản lý xã hội. Có thể tính ra nhiều dạng bài báo thuộc nhiều thể loại khác nhau, như: bài bình luận, bài xã luận, bài phân tích, bài phản ánh, bài tiểu luận, bài phóng sự, bài điều tra, bài ghi nhanh, bài tường thuật, bài phê bình tác phẩm văn nghệ. Các bài tiểu phẩm, bài phỏng vấn và những bài viết không có tính nghị luận, không tính chủ thể rõ rệt thường không được coi là bài báo, tức là không được xếp vào nhóm thể loại thông dụng nêu trên.
“Bài báo” là một thuật ngữ không có sự thống nhất về nội dung giữa thực tiễn sử dụng và nghiên cứu lý thuyết. Ngay cả các nhà báo chuyên nghiệp hàng ngày vẫn có thể sử dụng từ “bài báo” chỉ để phân biệt với các sản phẩm không phải là “bài”, như Tin và Ảnh, giống như các gọi thông thường của độc giả. Trong nghiên cứu lý thuyết, xuất phát từ các tài liệu báo chí học Nga và Đông Âu, Việt Nam, khái nim “bài báo” chỉ được giới hạn trong phạm vi những bài đưa tin dài, đôi chỗ còn được gọi là thể loại “bài thông tấn”./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét