|
Ngô thị Thu Thủy
|
Suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc ta đã tiếp
thu những tác động không nhỏ từ nền văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là về mặt học
thuật. Tuy nhiên, dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, người Việt Nam vẫn luôn thể hiện bản lĩnh sáng
tạo và bản sắc văn hoá của mình, chỉ giữ lại những gì đúng đắn, phù hợp và hữu
ích.
Do những đặc điểm lịch sử và văn hoá quy định, trong
lĩnh vực văn học, dân tộc ta đã tiếp thu với một thái độ tích cực đối với thi
pháp - mỹ học cổ điển Trung Quốc. Nhà nho Việt Nam khi miêu tả hiện thực một triều
đại phong kiến đã không tránh khỏi quan niệm về tính trau chuốt, trang trọng
của lời văn câu thơ. Do vậy, những thi liệu cổ điển, ngôn từ bác học, những
điển tích điển cố và những hình tượng nghệ thuật có tính chất ước lệ tượng
trưng đều đã đi vào văn học trung đại Việt Nam một cách tự nhiên, uyển chuyển.
Bên cạnh nguồn từ vựng Nôm bình dị, ngọt ngào, gần gũi tâm hồn người Việt thì
ngôn ngữ, thi liệu văn học bác học, cổ điển từ văn học bác học, cổ điển từ văn
học Hán có vai trò không nhỏ góp phần tạo nên hiệu quả, sức mạnh cho lời văn
lời thơ và biểu đạt những tư tưởng có tầm vóc, chiều kích lớn lao.
Tác giả của “Bạch Vân quốc ngữ thi” được tôn vinh là
danh nhân văn hoá, một phần vì ông đã tiếp nối truyền thống làm giàu kho tàng
thơ ca dân tộc bằng chính tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc mình, truyền thống đã
được ý thức từ “Hồng Đức quôc âm thi tập” và “Quốc âm thi tập”. Nhưng nói như
thế không có nghĩa là Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ nhận vai trò và tác dụng của chữ
Hán. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong “Bạch Vân quốc ngữ thi” thể hiện rõ
hơn cả qua một hệ thống ngôn ngữ, thi liệu, hình ảnh ít nhiều uyên bác tuy đã
được chắt lọc, gạn bớt đi những thành phần huyền bí, cao siêu.
I. Ngôn ngữ
thơ “Bạch Vân quốc ngữ thi” .
Dấu ấn Lão Trang để lại trong hệ thống ngôn ngữ biểu
đạt của “Bạch Vân quốc ngữ thi” một cách sắc nét. Ở phương diện này, có thể nói
Bạch Vân cư sĩ đã thực sự thành công trong việc lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt tư
tưởng. Nổi bật ở những bài thơ vịnh cảnh, ngôn chí, hệ thống ngữ liệu trong thơ
Bạch Vân đều nhất quán hướng đến thể hiện một quan điểm, lẽ sống tích cực, đó
là lánh xa danh lợi để ung dung tự tại sống tiêu dao, nhàn tản cùng cỏ cây, non
nước. Với hệ thống từ ngữ này có thể tạm thời phân biệt: hệ thống từ ngữ được
sử dụng theo hướng “Lão Trang hoá” và hệ thống từ ngữ miêu tả thiên nhiên.
1. Hệ thống từ
ngữ được sử dụng theo hướng “Lão Trang hoá”
Đối với các học thuyết, tư tưởng lớn khởi nguồn từ
Trung Quốc, người Việt Nam
thường ít có khuynh hướng nghiên cứu với tư cách là học giả uyên bác. Tiếp cận
các thánh điển của nhiều trường phái triết học, tôn giáo khác nhau nhưng các
nho sĩ Việt Nam
không đem những thuật ngữ của kinh sách vào thơ văn của mình để biểu đạt tư
tưởng. Trái lại, nhà nho Việt Nam
luôn tìm cách diễn đạt uyển chuyển, mềm mại và gần gũi hơn với tâm hồn dân tộc.
Đặc biệt với một trường phái triết học thâm viễn, huyền bí như Đạo gia, thi
nhân xưa đã khéo léo lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt gần gũi, cụ thể nhất. Trên tinh
thần đó, tác giả của “Bạch Vân quốc ngữ thi” đã đưa vào thơ Nôm một hệ thống từ
ngữ được “Lão Trang hoá”, tức là hệ thống từ ngữ cùng liên kết nhằm hướng tới
thể hiện tư tưởng Lão Trang trong thơ ông.
Khởi nguyên từ vũ trụ luận, những thuật ngữ của Đạo
gia ít nhiều có tính huyền bí và tối nghĩa, đó là lý do tại sao có rất nhiều
nguồn chú giải khác nhau về thánh điển của Lão Trang. Những thuật ngữ ấy không
phải là không có phần nặng nề lý thuyết đối với người làm thơ đời sau. Nhưng
trong “Bạch Vân quốc ngữ thi”, tác giả hầu như không hhề nhắc đến một thuật ngữ
nào của Đạo gia. Tư tưởng Lão Trang đi vào thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải
dưới dạng những hình thức triết thuyết khô khan thuộc phạm trù triết học, chính
trị, xã hội hay những phát ngôn khó hiểu mà thông qua những phương thức nghệ
thuật, thẩm mỹ riêng không tách rời lý tưởng thẩm mỹ đặc trưng cho thi pháp văn
học trung đại. Do vậy, biểu đạt một nhân sinh quan, một tinh thần sống đậm màu
sắc Lão Trang mà không một lần nhắc đến”vô vi” “hằng thường”, “vô danh”, “vô kỷ”….
là cả một quá trình tiếp biến văn hoá tích cực của tâm thức dân tộc trong thẳm
sâu tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm .
Tuy nhiên trong tập thơ lại xuất hiện một số từ ngữ
được sử dụng theo xu hướng “Lão Trang hoá”. Những từ ngữ ấy vốn không phải là
những thuật ngữ riêng của Đạo gia. Chúng được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng có hệ
thống nhằm hướng đến thể hiện nhân cách sống, phong cách sống của Lão Trang.
Tiêu biểu trong hệ thống từ ngữ này phải kể đến những từ : “tự tại”, “nhàn”, “tiêu
sái”, “vô sự”, “ẩn dật”, “tiên”… và một số từ có ý nghĩa đối lập : “công danh”,
“cửa mận”, “phú quý”…
Những từ ngữ này xuất hiện với tần số cao, mật độ
dày đặc trong “Bạch Vân quốc ngữ thi”, rải khắp các bài thơ vịnh cảnh, ngôn chí
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có khi trong cùng một bài thơ, các từ này cùng xuất
hiện, tạo thành một liên kết có tính hệ thống và nhất quán:
“Buồn làm biếng thấy cái đao
binh
An phận thời lành ở một mình
Nghĩa cả luống quên tôi chưa
cũ
Thề xưa nỡ phụ nước non xanh
Rồi nhàn thời nhẫn tiên vô sự
Ngâm ngợi cho nên cảnh hữu
tình
Hai chữ mãn doanh này khá gẫm
Mấy người chọn được chữ thân danh”
(Bài 15)
Suốt cuộc đời hơn bốn mươi năm ẩn dật của mình,
Nguyễn Bỉnh Khiêm có được hơn nghìn bài thơ, không bài nào không tỏ cái chí
hiếu trung, ưu thời mẫn thế hoặc cái tâm hướng tới cuộc sống nhàn tản thanh
bạch chốn quê. Ta không lấy làm lạ khi thấy trải khắp “Bạch Vân quốc ngữ thi”,
những từ ngữ “Lão Trang hoá” nói trên trở đi trở lại như một tín hiệu thẩm mỹ.
Và ở mỗi bài thơ, những tín hiệu thẩm mỹ nói trên đều góp phần nói lên nhân
cách sống cao đẹp của nhà thơ. Chúng chứng tỏ rằng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư
tưởng phủ nhận danh lợi không phải là những suy nghĩ thỏang qua; phong cách
sống ung dung tự tại gần gũi thiên nhiên không phải là lối sống nhất thời.
Chúng là những quan điểm sống đã được quán triệt, có cơ sở nhân sinh bền chặt,
có tính chất thường trực trong tâm thức Bạch Vân cư sĩ. Có thể khẳng định rằng,
sự trở đi trở lại của lớp từ này tự chúng đã nói lên tính bền chặt, vĩnh viễn
của quan điểm sống, phong cách sống Nguyễn Bỉnh Khiêm như là một phạm trù thẩm
mỹ. Đó là cái đẹp cuả nhân cách sống trong thơ ông, là cái đẹp của đạo đức, là “phạm
trù đạo đức được mỹ hoá”[8;317].
Qua từng bài thơ, có thể thấy, sự phối hợp, liên kết
giữa các từ ngữ “Lão Trang hoá” này đã góp phần biểu hiện một khuynh hướng tư
tưởng, một cốt cách cao quý của bậc ẩn sĩ Tuyết Giang phu tử:
“Già đã khỏi áng công danh
Tự tại nào âu luỵ đến mình
Nhàn
được thú vui hay nấn ná
Nghĩ xem sự thế biếng đua
tranh”
(Baì 17)
“Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự
Tuy chửa là tiên ấy ắt tiên”
(Bài 22)
Đặc biệt, lớp từ này xuất hiện trong “Bạch Vân quốc
ngữ thi” dưới hình thức các cặp phạm trù đối lập, càng làm nổi bật quan niệm
sống tích cực của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là các cặp phạm trù : “Danh lợi - Thanh
nhàn”, “giàu - khó”, “khôn ngoan- dại dột”, “đua tranh- an phận”, “áng công
danh- nơi ẩn dật”, “xuất- xử”, “cửa mận- am hoa”, “đường thông nhà trúc- cửa
mận tường đào”….
- “Thuở áng công danh nhiều phải luỵ
Trong nơi ẩn dật mấy nên mầu”
(Bài 9)
“Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”
(Bài 13)
“Cửa mận người yêu nhiều khách trọng
Am hoa
ai ở đến ông nhàn”
(Bài 25)
“Nhà thông đường trúc lòng hằng mến
Cửa mận tường đào biếng ngại chen”
(Bài 51)
Tính đối lập giữa các cặp phạm trù này bản thân
chúng đã tự nói lên một luận đề đạo đức trong thơ Bạch Vân: đó là sự đề cao lối
sống thanh bần, trong sạch, phê phán tư tưởng chạy theo danh lợi phú quý giữa
thời đại đầy rẫy sự đua tranh giành giật. Sự đối lập đó cũng thể hiện mối xung
đột gay gắt giữa các luận đề đạo đức, giữa tư tưởng sống nhàn với thói đời
nhiều tục luỵ. Phong cách sống Lão Trang đã trở thành một phạm trù đạo đức, một
nét nhân cách đẹp của Bạch Vân cư sĩ.
Ngôn ngữ “Lão Trang hóa” như một biểu hiện nghệ thuật
trong “Bạch Vân quốc ngữ thi” đã góp phần phản ánh tư duy mỹ hoá các phạm trù
đạo đức trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông quan niệm cách
sống đẹp trong thời đại đảo điên ấy không gì khác chính là lối sống nhàn, vô
sự, thái độ tự tại ung dung. Đó phải chăng là cách duy nhất khả dĩ vãn hồi được
trật tự phong kiến chính thống đang dần đi vào mục ruỗng?
Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không có những phát
ngôn đầy tính lý thuyết cho tư tưởng Lão Trang nhưng thừa sắc sảo, sâu lắng để
bày tỏ một tư tưởng triết học, một đạo lý sống cao quý ở đời. Vừa đủ rung cảm,
tinh tế, lại rất uyển chuyển, gần gũi, ngôn từ trong thơ ông đã bày tỏ những
tâm tư, ý chí của người ẩn sĩ biết rời xa vòng lợi danh để vui thú với cuộc
sống an nhàn tự tại. Từ lớp ngôn từ “Lão Trang hoá” này đã góp phần tạo nên chủ
đề, đề tài thơ xuất thế, thơ ẩn dật đạm vị đời, nhạt màu thế sự trong “Bạch Vân
quốc ngữ thi”. Có thể nói, màu sắc “ẩn dật”mà “Bạch Vân quốc ngữ thi” có được
một phần rất lớn là nhờ hệ thống ngôn từ được sử dụng theo hướng “Lão Trang hoá”
này.
2. Ngôn ngữ
miêu tả thiên nhiên.
Là một thi nhân, ẩn sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm làm thơ
rất nhiều về thiên nhiên, qua đó bày tỏ một cuộc sống gần gũi, tôn trọng và hoà
hợp với tự nhiên. Tình yêu đối với thiên nhiên đã giúp Bạch Vân vẽ nên những
bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc: có phong cảnh tươi tắn sống động, có phong
cảnh mỹ lệ, tao nhã vẻ Đường thi, lại có những bức tranh với những gam màu
nhạt, đường nét thanh đạm và rất giản dị. Nhưng dẫu có những màu vẻ khác nhau,
chúng đều tập trung thể hiện một mối tình giao hoà nồng thắm giữa thi nhân và
tạo vật quanh mình.
Có thể dễ dàng nhận thấy trong “Bạch Vân quốc ngữ
thi”, bên cạnh một bộ phận thơ giáo lý có phần nặng nề khô khan, mảng thơ tươi
tắn về thiên nhiên đã tạo ra một bầu không khí u nhã, một không gian thanh
thoát, tĩnh lặng đến vô vi. Có được điều đó là nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng
một cách linh hoạt tinh tế vốn ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên. Trong số vốn từ ấy
có thể tạm thời phân loại: những thi liệu, hình ảnh thơ có tính chất ước lệ
tượng trưng và ngôn ngữ miêu tả cảnh thôn quê mộc mạc giản dị.
2. 1. Những thi liệu, hình ảnh thơ cổ điển,
ước lệ tượng trưng.
Là một nhà nho chính thống được đào tạo theo nền
khoa cử Hán học, Nguyễn Bỉnh Khiêm không khỏi chịu ảnh hưởng của những quy ước
văn học trung đại. Ông đã tiếp thu một cách tự nhiên những hình tượng nghệ
thuật mang tính ước lệ và mẫu mực của thơ văn cổ điển. Những khuôn vàng thước
ngọc của thi pháp, mỹ học cổ điển phương Đông đã đem lại cho thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm nhiều vẻ thiên nhiên trang nhã cổ kính :
“Thu êm cửa trúc hồng vân phủ
Xuân tĩnh đường hoa tử cẩm phong”
(Bài 60)
“Thu
nguyệt sáng soi thông tư phủ
Xuân hoa đua nở lửa phong quang”
(Bài 97)
Những hình ảnh “trúc mai”, “phong nguyệt”, “yên hà”,
“hồng vân”, “tử cẩm”. . từng góp mặt trong Đường thi xưa nay lại xuất hiện
trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên sự tao nhã của thi liệu. “Phong, hoa,
tuyết, nguyệt” trong thơ Bạch Vân do đó hiện lên cũng đầy vẻ trang nhã.
Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có nét gần gũi thơ Nôm
Nguyễn Trãi về mặt phong cách. Nhưng trong khi miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã không lựa chọn những hình thức biểu đạt kỳ vĩ để nói lên vẻ hùng tráng
của thiên nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm có xu hướng thiên về những hình ảnh gần gũi quen
thuộc. Nhưng ngay trong cả vẻ thân thuộc của thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn
có thể phát hiện ra những nét đẹp riêng lộng lẫy, thanh nhã không kém gì thơ ca
cổ điển:
-”Thi nên ngồi đòi vầng đan quế
Rượu chác hoa lầm ngõ hạnh hoa
Lục ỷ
tiếng thanh đêm tựa ngọc
Lan châu chèo vỡ nước bằng là”
(Bài 129 )
-”Chim kêu hoa động ngày xuân muộn
Nguỵêt
bạc đêm thanh hứng khách dài”
(Bài21 )
Góp phần tạo nên những vẻ gấm vóc ấy của bức tranh
thiên nhiên, phải kể đến khả năng biểu đạt tinh tế của những hình ảnh, thi liệu
cổ điển. Đi vào thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, những “vân, phong, hoa, nguyệt. . “
đã bộc lộ tất cả vẻ hữu tình sống động của nó. Phảng phất trong tập thơ là
những bức tranh thuỷ mặc đường nét thanh thoát, hài hoà mà tinh tế:
-”Phất phơ gió lay phiến trúc
Thánh thót mưa lọt cửa lan”
(Bài 50)
Ngôn ngữ thơ ở đây không những đượm vẻ cổ kính tao
nhã của Đường thi mà còn góp phần thể hiện nhân cách thi nhân, biểu trưng cho
phẩm chất nhà nho ẩn dật. Hình ảnh “trăng, mai, trúc”. . . xuất hiện và trở đi
trở lại nhiều lần trong tập thơ như là biểu tượng cho phẩm chất cao thượng, khí
tiết thanh quý của người quân tử, bậc cao nhân Tuyết Giang phu tử.
Sử dụng ngôn từ thi liệu bác học là một phương thức
xây dựng hình tượng phổ biến trong thơ văn trung đại. Cái hay cái tài của Bạch
Vân là ở chỗ đã lựa chọn sử dụng chúng ở mức độ vừa phải, chắt lọc để vừa bày
tỏ mối giao hoà, tương hợp giữa tình người và thiên nhiên như là một lẽ sống
cao đẹp, vừa tỏ được cái phẩm chất thanh cao, tịnh khiết của mình. Bởi trong
một bầu không khí thiên nhiên tĩnh lặng, trong ngần đến vậy, chỉ có một nhân
cách cao đẹp, đáng quý mới có thể thưởng ngoạn, tận hưởng được hết những lạc
thú tinh thần mà thiên nhiên mang lại.
2. 2. Ngôn ngữ miêu tả cảnh trí thôn quê bình
dị mộc mạc.
Trong “Đạo đức kinh”, Lão Tử thường xưng tán những
thứ đá quý không đục đẽo. Tư tưởng của ông là không nên tô điểm thiên nhiên bởi
vì nghệ thuật hoàn mỹ nhất thì không để lộ một chút gắng sức nào của nghệ sĩ.
Các nhà lý luận mỹ học cổ điển Trung Quốc cũng thường quan niệm nghệ thuật phải
tự nhiên như nước chảy, mây trôi, không có vết đục đẽo. Sự dụng công đẽo gọt
nhào nặn là can thiệp tự nhiên, phá hỏng sự hồn thuần của tạo vật. Có lẽ Nguyễn
Bỉnh Khiêm thấm nhuần lý thuyết về thuộc tính “phác” của Đạo do vậy mà phần
nhiều thiên nhiên trong thơ ông nhẹ nhàng thanh đạm. Tác giả dường như không
bao giờ có dụng ý trau chuốt ngôn từ để tô điểm thêm vẻ mỹ lệ cho thiên nhiên.
Vì vậy ở mảng thơ này, ngôn ngữ miêu tả được Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn sử dụng
đi vào thơ rất tự nhiên, mộc mạc và gần gũi.
Ta không lấy làm lạ khi bắt gặp vô vàn những hình
ảnh thơ giản dị mộc mạc miêu tả cảnh trí thôn quê trong “Bạch Vân quốc ngữ thi”.
Gần trọn cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó với mảnh đất quê hương, tháng ngày
tiêu dao cùng sông nước, tự tại chốn điền viên. Những cảnh vật của thôn quê đã
ăn sâu vào tâm thức thi nhân và đi vào trong những bức tranh quê này, góp phần
nói lên nét đẹp trong nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm : đã là quê hương thì cảnh
trí nơi đâu chẳng đẹp, chẳng là “chốn xuân phong” :
“Song nhật hãy còn hai rặng quýt
Thất gia chẳng hết một căn lều”
“Gió cuốn rèm thay chổi quét
Trăng
kề cửa kẻo đèn treo”
(Bài 73 )
“Vô tâm nước
có gương soi bạc
Đắc thú kho đầy gió mái thanh”
(Bài 91)
Ngôn từ miêu tả được tác giả sử dụng rất mộc mạc,
gần gũi, mang phong vị của đời sống hàng ngày. Vì lẽ đó mà cảnh trí thôn quê
trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên rất tươi tắn, cụ thể. Ngay cả bóng
trúc, ánh trăng xuất hiện trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rất đỗi gần gũi,
giản dị:
“Hoa nở luống hay tin gió
Đầm
thanh còn thấy triều trăng”
(Bài 18)
“Bàn cờ cuộc rượu vầy hoa trúc
Bó củi cần câu chốn nước non”
(Bài 32)
Gắn bó cuộc đời mình nơi thôn dã, Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã miêu tả cảnh sống thanh bần ở làng quê bằng những ngôn từ mang đậm phong vị
của đời sống sinh hoạt:
-”Thèm nỡ phụ canh cua rốc
Lạnh đà quen nệm ổ rơm”
(Bài 34)
-”Cá tôm hôm chác bên kia bến
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo”
(Bài 38)
Nhìn chung, về phương diện ngôn ngữ thơ, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã có những đóng góp đáng kể cho nguồn thi liệu thuần Việt. Việc đem vào
thơ những “rèm, chổi, kho, canh cua, ổ rơm, tôm cá, củi đuốc. . “ và bình dị
hoá những hình ảnh thơ vốn biểu trưng cho tính trang nhã trong thơ cổ điển như “trăng,
trúc” đã phá vỡ những quy phạm mẫu mực của văn học nghệ thuật phong kiến, tạo
nên những môtíp nghệ thuật mới hoàn toàn thuần Việt, đậm đà tính dân tộc. Điều
đó thể hiện nhu cầu được biểu hiện chân thực của hình tượng nghệ thuật và cái
nhìn tự nhiên chân thực của thi nhân khi đứng trước thiên nhiên .
Có thể nói, cái đẹp giản dị trong ngôn ngữ thơ của
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một quan điểm nghệ thuật. Đó là tinh thần hướng tới
cái đẹp tự nhiên, tôn trọng tính “phác” của sự vật, là lòng yêu mến đối với
nghệ thuật không đục đẽo mà Lão Tử từng ca ngợi.
Thiên nhiên trong thơ “Bạch Vân quốc ngữ thi” dẫu cổ
kính đường thi hay thanh đạm mộc mạc vẻ quê mùa, đều là chốn tĩnh lặng, thanh
u, là nơi di dưỡng tinh thần của “ông nhàn”. Vẻ thanh thoát u nhã ấy của thiên
nhiên có được là nhờ Bạch Vân đã thổi vào hồn thiên nhiên ấy một ý vị đầy màu
sắc”Đạo”. “Đạo vị” ấy chính là suối nguồn thi ca của Bạch Vân thi sĩ giữa bối
cảnh xã hội xô bồ bên ngoài làng Trung Am lúc bấy giờ.
Nguồn: http://marjoriethuy.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét