Bài viết tôi giới thiệu lại dưới đây thuộc về ngòi bút một nhà báo từng góp công sức đáng kể vào bước trưởng thành
của báo chí văn chương tiếng Việt, nhất là báo chí văn chương ở miền Bắc Việt Nam những năm 1920-30: Hoàng Tích Chu (1897-1933). Đây là bài viết mà tác giả buộc phải nói
về mình, đáp lại một cuộc tranh luận. Tuy vậy, điều có ích hơn đối với đám hậu
sinh chúng ta lại là những quan sát của một người trong cuộc về sự tiến triển
của văn chương báo chí tiếng Việt ở những bước đầu tiên.
Chắc hẳn từ rất xa xưa người
Việt đã nói tiếng Việt! Song, viết tiếng Việt thì xa xưa chỉ có thể viết bằng
chữ Nôm. Ngay ở thời đại văn chương Hán-Nôm của Việt Nam, thơ Nôm (văn vần) đã đạt đến
trình độ bậc thầy, trong khi văn (xuôi) Nôm thì quá ít phát triển và chỉ đạt
mức các bài tập. Cho nên, từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ và từ đầu thế kỷ XX ở Bắc
Kỳ, tức là mới chỉ cách nay trên một trăm năm, với công cụ mới là
chữ Quốc ngữ (viết bằng các mẫu tự Latin abc…), và với phương
tiện truyền thông mới là báo chí, người Việt mới thực sự bắt tay vào
việc tạo ra các khuôn mẫu viết văn xuôi bằng thứ tiếng đã nói hàng ngàn năm của
dân mình. Nói không quá, con - người – nói - tiếng - Việt, chỉ từ đây
mới bắt đầu tập nói năng trên giấy, tập suy nghĩ trên giấy! Có hiểu tình thế
nêu trên mới hình dung được tầm mức khó khăn của công việc mà các bậc tiên khu của
chúng ta đã làm; hiểu tình thế nêu trên còn giúp chúng ta không thấy lạ về sự
đồng hành của văn chương và báo chí tiếng Việt suốt những thời gian dài, nhất
là từ giữa thế kỷ XX trở về trước.
Những nhận xét của nhà báo
Hoàng Tích Chu về các lối văn thành hình trong thực tế báo chí ở Bắc Kỳ đầu thế
kỷ XX, xem ra, lại chính là những điều mà các giới nghiên cứu sử học, văn học,
ngữ học trong nước lâu nay rất ít đề cập. Vậy mà những nhận xét này lại chạm
đến được những dữ kiện có thật của lịch sử báo chí tiếng Việt. Tôi chú ý giới
thiệu lại bài báo này là vì thế.
Sau cùng xin nói vắn tắt về
khung cảnh xuất hiện bài báo này.
Những năm 1930-31, báo Đông
phương dấy lên luồng dư luận công kích lối văn báo chí của Hoàng Tích
Chu; người đeo đuổi việc công kích ấy là Thục Điểu (Ngô Tất Tố)[1].
Một điểm cũng nên lưu ý là trong khi Ngô Tất Tố chê văn Hoàng Tích Chu thì trên
báo Trung lập ở Sài Gòn, Phan Khôi lại khẳng định: “Trong văn
Quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật nó biệt hẳn ra một lối,
đủ mà kêu được là “lối văn Hoàng Tích Chu”, sự ấy trong làng văn ta
hình như đã công nhận một cách vô tâm rồi”, đồng thời cho rằng “Lối văn Hoàng
Tích Chu ấy mà muốn vĩnh viễn thành lập trên văn đàn, bề nào cũng phải cải
lương […] không cốt ở sửa đổi đẽo gọt bề ngoài, phải nhờ ở công học vấn bên
trong mới được”[2].
Hoàng Tích Chu không trả lời
những bắt bẻ câu chữ của Thục Điểu, nhưng lại phác hoạ các lối văn viết báo đã
hình thành ở làng báo xứ Bắc và kể lại con đường của mình, sự lựa chọn văn
phong của mình.
Đối với hậu thế chúng ta,
chính sự phác họa ấy lại là đáng nghe để biết hơn cả.
Ghi chú thêm về tiểu sử nhà
báo Hoàng Tích Chu
Theo tác giả Chương Đài (“Hoàng
Tích Chu, ông tổ văn mới”, Tràng An, Huế, 30/10/1936) thì từ
1921 Hoàng Tích Chu đã làm trong toà soạn Nam phong; năm sau làm
cho tờ Khai hoá của Bạch Thái Bưởi, viết bài ký bút hiệu Kế
Thương. 1923 vào Nam Kỳ, xuống tàu làm phụ bếp qua Hồng Kông, Thượng Hải, sang
Pháp. 1926 cùng Đỗ Văn về nước. 1927 lại đáp tàu thuỷ sang Pháp, chú ý đi dự
nghe các buổi diễn thuyết của báo giới và các buổi giảng khoáng đại của một vài
đại học. 1929 về nước, giúp việc biên tập Hà thành ngọ báo của
Bùi Xuân Học, thời gian này mục “Câu chuyện hàng ngày” của Hoàng Tích Chu được
dư luận chú ý. Cuối năm 1929, bộ ba Hoàng Tích Chu, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình
Bính bỏ Ngọ báo, sáng lập Đông tây tuần báo. Tờ này do
Hoàng Tích Chu chủ trì, có lúc được coi như là “tờ báo của thanh niên Hà Thành”;
đến giữa 1932, khi Đông tây đổi thành báo hằng ngày được gần 2
tháng thì bị rút giấy phép. Hoàng Tích Chu sang làm tờ Thời báo (của
Phùng Văn Long) làm sống lại tinh thần của tờ Đông tây, được gần
hai chục số thì Thời báo lại bị cấm. Hoàng Tích Chu lâm bệnh
và mất vào 30 Tết Quý Dậu 1933. Cuốn hồi ký Mấy chàng trai… thế hệ của
Dương Thiệu Thanh (xuất bản 1969 ở Sài Gòn) cũng có một số tài liệu về Hoàng
Tích Chu và về điều mà tác giả này gọi là “tập đoàn Hoàng Tích Chu” trong hoạt
động báo chí ở Bắc Kỳ những năm 1920-40.
|
Lại Nguyên Ân
|
Một dịp
cho tôi nói về lối văn Hoàng Tích Chu
I.
[Vào đề] [1]
Gần đây, một bạn đồng nghiệp
xướng lên cuộc “tẩy chay” về văn chương. Trên báo ấy, trong khuôn nho nhỏ để
mấy dòng chữ đen, đại khái: Những bài của độc giả gửi đến, nếu viết theo lối
văn ông Hoàng Tích Chu (cho phép tôi xoá chữ “ông”) thì bị bỏ vào sọt
giấy.
Cách vận động ấy, tôi cho là
không nhã trong tình văn cũng như nhiều điều vu cáo sỗ sàng của lắm kẻ nói mò,
đều không thể bắt tôi phải trả lời.
Nhưng không phải là hạng làm
cao, giả cái bộ con người không tẹp nhẹp, tôi vốn mong được dịp phô bày ý kiến
với các bạn đồng nghiệp chất vấn nhau một cách chánh đáng. Vì tôi nghĩ: nghề
làm báo An Nam đã chẳng được nói nhiều, thì tội gì phí giấy mà vẽ voi, rỗi mồm
mà gây chuyện bẩn. Như mới rồi một tờ báo Tây bản xứ cũng phạm cái lỗi nói mò,
tôi vừa bắt đầu lên tiếng thì một bạn đồng nghiệp lại hiểu lầm cho tôi đổi thay
thái độ. Khá tiếc! Lại vì tôi nghĩ: trong làng báo ta quanh quẩn được mấy lăm
người, tình đồng nghiệp đã không gắn bó để kiến trọng với người, lại cứ đăm đăm
rình nhau miếng một.
Còn nữa, vì tôi nghĩ: tờ báo ở
xứ ta có thể sớm còn chiều mất. Nó đã không thuộc quyền ta tự chủ thì anh em
ơi! với mọi điều gì có ích cho quốc dân, chúng ta nên có kẻ tung
người hứng, mở đường sáng tỏ cho dư luận. Cớ sao lại vào hùa với
tiếng thị phi vô căn cứ mà tìm cách gièm nhau, để đến nỗi trái cái lẽ tự nhiên:
báo quán dẫn đường cho dư luận, Đông
tây, ngoài mấy phen to tiếng, bởi vậy vẫn giữ lại cái thái độ hòa bình. Hòa
bình không phải là nhút nhát.
Việc đối phó với báo Bạn
dân, tôi chưa kịp hết lời, ông chủ báo ấy đã đánh dây nói tỏ ý hiểu nhau,
thì đến nay, đọc hai bài ông Thục Điểu phê bình lối văn của tôi. Giọng nói tuy
vẫn có tính chất pha trò, […] viết văn khôi hài phải [… ư] ra, ngọn bút
[…] [2] nghiêm nghị. Đó,
cái dịp cho tôi được cùng một bạn đồng nghiệp bàn đến lối viết văn Quốc ngữ
ngày nay. Việc trả lời nhà phê bình sẽ nói rõ ở đoạn sau.
Lối văn Hoàng Tích Chu! Độc
giả với các nhà văn tự cho phép tôi cùng ông bạn đồng nghiệp gọi vậy. Mà làm
sao được! “Văn Hoàng Tích Chu” đã may thành ra một danh từ, lắm người quen gọi
rồi. Ngày nay tôi không thể không nhận có nó, nhưng tôi chẳng khi nào dám nhân
tiện khoe môi vì nó.
Vì sao? Vì thực ra, nó chẳng
phải để trong trí sáng kiến của tôi. Vì phiền lắm, nó đã gây nên nhiều cái dở
cho nền văn Quốc ngữ.
Thế thì nó nguyên là của những
ai? Thế thì nó sinh ra những chứng dở gì? Tôi sẽ xin lần lượt nói tới ở vài bài
sau.
Ông Thục Điểu cũng hẳn bằng
lòng cho tôi nhân câu chuyện “Nói chơi” mà có lẽ viết ra được những bài có ích.
Ông hẳn cũng thư cho tôi ít bữa, vì một nách đôi ba con mọn, nhiều việc khác
trong Đông tây, tôi chẳng thể để nhờ ai.
II. Lúc mới xây nền quốc
văn
Lúc chữ Quốc ngữ dùng viết văn
xuôi tức là lúc chữ Quốc ngữ đã thịnh hành. Mà chữ Quốc
ngữ bắt đầu được thông dụng thật là nhờ từ hồi trong nước có báo chí.
Nói đến đây, ta không thể
không nhớ công những bậc tiền bối. Dù là người có Tây học hay là người có Hán
học, bọn lính tiên phong ấy một sớm cầm bút sắt nhảy vào trường văn tự mới, hẳn
rằng gặp lắm nỗi khó khăn.
Trong thành Hà Nội năm 1905
tung ra hai tờ báo. Của dẫu lạ tai mắt người ta, nhưng là thứ thông dụng hơn
những quí vật năm xưa của chúa tàu Tây khi đậu cửa Đà Nẵng đem cống hiến nhà
vua. Tờ Đại Việt tân báo, phần chữ Hán có cụ Đào Nguyên Phổ, mà cụ Hàn
Thái Dương thì coi phần quốc văn. Còn tờ Đại Nam đồng văn có cụ bảng Đa
Ngưu coi phần chữ Hán, mà phần Quốc ngữ thì do ông Nguyễn Văn Vĩnh chủ
trương.
Cái buổi sơ khai, phần Quốc
ngữ trong hai tờ báo ấy phần nhiều là bài dịch các công văn. Dịch công văn tuy
không phải là việc khó như ngày nay ta so với việc dịch một bản diễn văn, nhưng
hồi bấy giờ ai nào đã quen, cách dùng chữ lối đặt câu thật chưa thuận tiện trên
cán bút thì nhà phiên dịch không phải chẳng dụng công. Muôn việc khó ở lúc bắt
đầu. Cái chỗ dụng công của người trước há chẳng là cái chỗ chúng ta được hưởng
ở ngày nay sao?
Đến lúc Đăng cổ tùng
báo ra đời. Một kỷ nguyên mới trong làng báo. Trên trận bút đã thấy
lối văn công kích, trong trường văn mới nẩy ra khách tài hoa. Nguyễn Văn Vĩnh,
Phan Kế Bính với Phạm Duy Tốn, ba tay róng trống, một tiếng hò nhau. Đối với
nền quốc văn, quốc dân như đã có cảm tình từ đấy. Nhưng người viết được hay
người ưa viết nó vẫn thấy được về số ít. Mãi đến hồi Đông Dương tạp chí xuất
bản (1913) […] thịnh của quốc văn […] đội quân kia dắt […] [3] làm việc, mà người
phụ họa, lúc này sao đông thế! Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục,
Nguyễn Văn Tố, Phạm Quỳnh, nhà
quan, nhà giáo với bọn sinh viên trường Sĩ hoạn cùng xô ra góp sức xây nền. Cái
nền ấy, như muốn được tốt đẹp vững bền, tất phải cần có nhiều tài liệu.
Thì tài liệu lấy ở đâu
ra? Ở văn Tàu với ở văn Pháp. Trong tập Đông Dương giấy nát
chỉ long bởi vậy phần nhiều bài thuộc về phiên dịch. Dịch các thứ tiểu thuyết
đoản thiên trường thiên, dịch những đoạn thi văn tuyệt tác. Không kể dịch văn
Tàu, Phan Kế Bính là một nhà dịch rất lọn nghĩa mà không hủ. Nói đến việc dịch
văn Tây, ai nhận kỹ hẳn cũng thấy từ xưa có hai lối khác nhau, lối Nguyễn Văn
Vĩnh với lối Phạm Quỳnh. Trong hai lối ấy, lối văn Hoàng Tích Chu chịu một phần
ảnh hưởng như thế nào, sau tôi sẽ nói.
Ngoài văn dịch, trong tạp
chí Đông Dương không phải là không có các văn bài khác. Gõ đầu
trẻ, lời đàn bà, luận về luân lý, về lý tài, về thời cục, có mục để mua vui
giải trí, có mục để bàn bạc sâu xa. Làng báo hồi bấy giờ thật đã biết khéo xoay
đủ ngón. ”Báo để dạy dân. Nhưng dạy khó thì ít người hiểu, mà dạy sơ
thì ai chịu xem. Chúng tôi muốn sự học ấy thành ra một sự chơi không khó nhọc” -
Lời tuyên bố đại khái của Đông Dương tạp chí, kể đã là
mới lắm rồi vậy.
Nhưng lối văn Quốc ngữ hồi ấy
thế nào?
Tôi nghiệm ra rằng các nhà
viết văn bấy giờ thật dụng công hơn sau này nhiều, chịu gọt rũa, chịu suy xét,
không có cái thứ văn vu vơ, non nớt. Có lẽ bởi cái quan niệm: Người nào viết báo phải là người có học, thì
những nhà mà tôi vừa kể trên kia quả chẳng phải bọn học dốt chỉ nói càn, óc ngu
hay cãi bướng. Cái quan niệm ấy, than ôi, không còn giữ đến ngày nay, mà cái
giá trị làng báo cũng vì vậy kém sút đi chăng?
Có điều này ta nên chú ý là:
trong buổi mới, mấy nhà viết văn như đã có khuynh hướng muốn thoát ly hẳn chữ
Tàu. Xem ngay cái tên đặt cho vài mục trong báo, như: Gõ đầu trẻ, Lời
đàn bà, người đặt ra thật bạo đưa cán bút, không sợ nó là “nôm” như sau này
có lắm người phải khuân hàng đống chữ Tàu thay vào mới cho là có bề trịnh
trọng.
Công của ai nên trả cho người
ấy. Dùng được tiếng nôm khéo, ta nên biết công ấy cho ông Nguyễn
Văn Vĩnh. Đọc những bài thơ ngụ ngôn và mấy bộ tiểu thuyết ông
dịch ở chữ Tây, ta thấy rằng lối văn Nguyễn Văn
Vĩnh đã nhân văn Pháp mà tìm được ra những tiếng mới.
Nhưng sao hồi đó, người ta
không kêu văn Nguyễn Văn Vĩnh là mới? Có lẽ vì người ta cho ông chỉ là một nhà
Tây học, tuy lời văn trôi chảy, độc giả đã hoan nghênh lắm, mà như có ý coi nó “nôm”
quá, hay “chướng” quá.
Người ta đọc lối văn này như
ông Phạm Quang Sán đã viết, cho là thuận tai hơn:
“Trong một hội phải có điều
lệ thì mới thành ra tư cách một hội, trong một làng phải có khoán ước thì mới
thành ra tư cách một làng, huống chi nước là một đoàn thể rất nhớn của loài
người mà lại không có luật lệ ư?”
Đó thật là lối viết theo thể
luận của văn Hán. Nhưng trái lại, lối viết theo văn Pháp, có phần sốc nổi, cứng
cáp, nhiều ý mà không rườm lời, như:
“Làm người phải sống, sống
để mà sống, sống để mà đem cái viên gạch phần mình vào cái nền công quả xa xôi,
huyền diệu. Mà ở thế gian này, có yên vui được trong lòng, họa chăng chỉ ở việc
gắng sức mà sống ấy thôi.”
Lối văn
Nguyễn Văn Vĩnh kể ra thật mới, đem so với lối văn trên, cái chỗ khác nhau là ở
cách dùng chữ, cách đặt câu và nhất là cách lập luận.
Kể một thí dụ này, ta thấy
rằng hồi bấy giờ, văn Quốc ngữ viết ra đã chia ra ba lối: lối
viết theo văn Pháp, lối viết theo văn Tàu, và lối “tham bán” là lối viết theo
cả hai thể văn Trung-Pháp, tức là lối viết của Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc vậy.
Trong ba lối, lối tham bán và
lối viết theo văn Tàu được nhiều người dùng hơn. Còn lối Nguyễn Văn Vĩnh, không
thấy mấy người theo, mà nó đến nỗi không ai biết đến, nhất là từ hồi có
báo Nam phong ra đời, ông Phạm Quỳnh tải vào lòng văn lắm chữ
Tàu quá ư kỳ quặc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét