III. Trong hai lối văn
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh
Đông Dương tạp chí rồi
trút lốt sang Trung Bắc tân văn. Hồi ấy khoa cử dẫu đã gần tàn mà
thế lực chữ Tàu còn mạnh lắm. Nhà nho ta ít người đọc viết được chữ Quốc ngữ. Cái lối văn Nguyễn Văn Vĩnh bởi vậy dù đã có nhiều vẻ mới,
nhưng thực chẳng mấy người theo. Người ta cho nó là nôm! Cái “nôm” ấy, tôi
tưởng là chỗ khó bắt chước cho những khối óc còn chứa đầy khuôn sáo cũ.
“Phi Hán tự bất thành văn”,
cái quan niệm đó, từ mấy ông nhà nho xướng lên rồi thành ra như một điều luật
đối với mấy nhà tân học khi sắp cầm bút viết văn mẹ đẻ. Đến sau này mà đến cả
ngày nay nữa, người ta còn tưởng lầm thế. Văn Nguyễn Văn Vĩnh nôm na quá, vì
văn Nguyễn Văn Vĩnh ít mượn đến chữ Tàu.
Ra đời gặp lúc chữ Tàu đã
nhường ngôi cho chữ Tây, tạp chí Nam phong buổi mới, được độc
giả hoanh nghênh lắm, cũng như đối với Đông Dương tạp chí hồi xưa.
Mà hoan nghênh vì cớ gì? Một cớ lớn vì ông Phạm Quỳnh đã
khéo theo thời thượng dùng thật lắm danh từ mới của chữ Tàu, cũng như hồi đó,
bọn nhà nho ta làm luận, làm văn sách (kim văn) ưa dùng nhiều chữ mới
như phong trào, chủ nghĩa, phương châm, mục đích, vũ đài, v.v… Trong
khi nhà nho đang sính chữ mới, lại được nghe thứ văn Quốc ngữ có lắm chữ mới
hơn, Nam
phong tự nhiên thu được cái giá trị độc nhất trong làng văn tự bấy
giờ.
Đánh trúng chỗ yếu của người
đọc, ông Quỳnh khuân ngay chữ Tàu mới vào quốc văn mỗi ngày một nhiều, đến nỗi
ăn phải bả có thiếu chi người, người viết văn cũng mỗi ngày đua nhau viết
lối Nam
phong. Văn Nam
phong, người ta hiểu ngầm là lối văn Quốc ngữ có dùng nhiều chữ Hán. Đã có
người trong Nam Kỳ phản đối lối văn khó hiểu ấy, nhưng cũng không lại được với
món quà đang thích dụng ở Bắc Kỳ. Lại gặp lúc khoa cử tàn rồi, hạng nhà nho -
trừ mấy ông vốn có duyên nợ với quốc văn như Dương Bá Trạc, Phan Khôi, Nguyễn
Bá Học – còn hoặc không nhanh chân chạy vào trường sĩ hoạn, hay hết cái nghề
đặt trường dạy trò, mà xoay ra cái đời viết báo dịch sách thì mấy ông ấy càng
thịnh dùng chữ Tàu lắm. Thường trong một câu, chữ Tàu chiếm đến 7/10, có thế,
văn chương mới trịnh trọng! Lối viết văn theo
Tàu bởi vậy đắc dụng hơn hết, mà lối văn Tản Đà cũng bởi vậy đã lên tiếng khua
đời một dạo.
Cái địa vị viết báo, ai
chịu để riêng cho mấy ông nhà nho có học. Bọn thanh niên hồi ấy cũng dần dần
đua nhau ra múa bút. Này Dương Phượng Dực, này Nguyễn Mạnh Bổng với tôi đây
chính là người trong bọn đó. Một điều đáng mừng nhưng cũng là điều đáng lo cho
quốc văn. Đến nỗi trong tòa soạn Nam phong khi còn lẩn lút
trên căn gác nhỏ phố Hàng Bông, ông chủ nhiệm đã lên tiếng phàn nàn với tôi:
trong bọn thanh niên nhảy vào trường viết văn, trừ kẻ vô học, chỉ quanh quẩn
mấy câu sáo vặt, còn một số người có Tây học đang mắc cái tật dùng lầm chữ Hán.
Đã không có Hán học lại muốn viết theo lối văn Tàu, văn mấy ông thanh niên ấy
không thành ra một lối nào. Nhưng cũng nên tìm cho một tên, thì gọi nó là lối “ba
lăng nhăng”. Ấy cũng là cái quả báo trong văn giới đang lúc giao thời.
Các ngài độc giả đừng thấy tôi
nói từ nãy đến giờ mà vội tưởng lối văn Phạm Quỳnh là dở. Chỉ là cái hay của
người, ta không biết đó thôi.
Muốn
biết lối văn Phạm Quỳnh, ta phải so sánh với lối văn Nguyễn Văn Vĩnh,
mà muốn biết được cả hai lối văn ấy, ta cần phải xem qua cái lối phiên dịch của
hai người ấy trước. Hai nhà Tây học này bắt đầu viết văn từ dịch
văn.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh dịch văn
Tây chỉ cốt tóm hết ý từng đoạn, rồi xoay xỏa viết ra tiếng ta cho thông để dễ
hiểu. Nhưng chớ tưởng thế là dễ. Đã tóm hết ý của nguyên văn, lại giữ làm sao
cho không mất mầu mẽ và tinh thần của câu văn. Đọc những bài thơ dịch ở Ngụ
ngôn Lã Phụng Tiên [4], ta không thể không
nhận là hay được.
Cái lối văn dịch này bởi có
cái hay là cho người dễ hiểu, cho nên có thể gọi là lối văn thông dụng. Nhưng
nó có cái dở, dở ở chỗ ông Vĩnh hoặc vì lười hay vì quá chiều độc giả, chỉ lấy
nghĩa văn Tây rồi viết theo “óc người mình”. Đã đành ông có đặt ra nhiều tiếng
nôm mới, mà thực quả ông không đem vào nền quốc văn được nhiều điệu mới của văn
Tây.
Chính đó là chỗ kém lối văn
Phạm Quỳnh vậy.
Muốn
viết quốc văn cho khá, tôi thiết tưởng chúng ta phải chịu tập dịch trước,
– lời ông Quỳnh trước đây thường nói với tôi khi bàn đến cách viết văn Quốc
ngữ.
Thực vậy, ông Quỳnh tập dịch
đã lâu, ông có thể vừa trông nguyên văn, vừa cầm bút dịch ngay. Nhưng nên biết
cái lối dịch của ông có chỗ này khác ông Vĩnh là chỗ ông ít khi chịu làm tội
nguyên văn bằng cách xoay lên lộn xuống để câu văn dịch viết ra hợp với óc
người mình. Nghĩa là ông rất chịu khó theo đúng điệu văn Pháp mà viết ra quốc
văn. Có lẽ ông nghĩ rằng cú pháp của mình ít quá, cho nên khi viết một bài đại
luận, ta thường chỉ dùng có một lối thôi. Văn không sinh sắc
là bởi người viết văn không biết cái cơ biến hóa. Nếu ta có thể khiến chữ như
khiến ngựa, thì ta cũng có thể khiến văn như khiến chiếc thuyền theo lái, – cái
lái tức là ý nghĩ của mình muốn đạt ra lời vậy.
Còn nhớ một hôm, đưa cho tôi
xem một câu ông viết, viết dài tới mười lăm dòng, ông có nói:
“Đó, văn
Quốc ngữ viết theo cú pháp văn Tây, dùng nhiều điệu khác nhau mà không lạc ý. Sao
ta chẳng chịu tập lấy để mở rộng nền quốc văn!”
Sao ta không tập? Là bởi nhà
văn ta thường có chứng lười, lại thêm cái chứng khinh thường văn Quốc ngữ, cho
nên đặt bút xuống là ngoay ngoáy viết. Mà muốn tập cú pháp Tây, hẳn phải là
người có xem hiểu văn Tây. Hiểu văn Tây chẳng thiếu chi người, sao đến khi viết
văn ta, lại chẳng thấy chút gì là Tây cả? Là bởi cái quan niệm như tôi đã nói
trên: “phi Hán tự bất thành văn”, các ông không bạo viết, vì sợ văn viết lối
Tây có người chê là ngây ngô, ngộ nghĩnh. Nào biết đâu nhà
văn tự cũng như nhà chánh trị, có người theo đời để được đời ưa, mà cũng có
người đi trước đời cho nên đời ghét. Đi trước đời, xưa nay bao khách đã mang
lấy cái vạ vào mình!
Tóm lại, văn Nguyễn Văn Vĩnh
được ở cái chỗ dùng nhiều tiếng nôm mới, viết ra lối văn thông dụng; mà văn
Phạm Quỳnh hơn ở cái chỗ dùng nhiều điệu văn Pháp, nhưng tiếc nó quá nệ, nên có
vẻ nặng nề, ít người hiểu được.
Hai người đều có công với nền
văn Quốc ngữ. Nhưng ai biết công cho?
Người ta không biết công cho
hai ông, có lẽ vì người ta không trông thấy cái chỗ khổ tâm của hai ông trước
khi cầm bút đặt trên mảnh giấy.
Nhưng người ta không biết
mình, mình không nên giận. Văn như còn tiến, hai ông chỉ nên phàn nàn: chửa làm
điều gì hơn nữa cho nền quốc văn.
IV. Văn Hoàng Tích Chu có
từ hai quyển sách viết được tại Pháp
Nghe tôi nói đến hai lối văn
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, những cái óc hẹp vội cho tôi vì ưa hai người mà
tâng bốc hai người. Khốn lắm! Ưa người ta với chẳng ưa người ta, cái đó không
can thiệp gì đến việc tôi bình phẩm văn người ta.
Tôi chưa dám chắc đã hay bằng
ai, nhưng tôi có thể chắc được nói to: tôi không có thói ấy, – cái thói yêu nên
tốt ghét nên xấu, cái thói đê hèn chằng câu chuyện nọ vào câu chuyện kia, cái
thói túng lý nói càn, dùng những lời vu cáo nhỏ nhen như để bịt miệng người
muốn phân phải trái.
Tôi không có thói ấy…
Theo ý tôi, văn Nguyễn Văn
Vĩnh hay ở chỗ dùng nhiều tiếng nôm, nhưng không có nhiều điệu thì lời văn bê
tha và không chững chạc. Đến văn Phạm Quỳnh, tuy điệu văn có biến hóa, mà khổ
về nỗi chứa nhiều chữ Hán, nó bệ vệ quá hóa ra nặng nề.
Hai thứ văn ấy, ta đều chẳng
nên dùng để viết báo. Lối làm báo mỗi
ngày phải đổi mới, văn viết báo cũng không thể cứ giữ mãi lối xưa. Hai việc đó,
tôi đã nghiệm thấy khi còn ở Pháp.
Đến đây, tôi có cần phải nói
rằng tôi cũng không có cả cái thói đi xa về tha hồ nói khoác không? Hạng nói khoác là hạng không có đức tự tín, phải già mồm lấn
liếp, nỏ miệng khoe khoang, cố dìm cái hay của người, để tỏ mình có giá trị.
Tôi sang Pháp, học nghề kế
toán để đi làm kiếm bánh. Đó, cái đoạn lịch sử ấy của tôi, nó thật chẳng được
xán lạn như của mấy ông có tiền sang học mong đậu Cử nhân, Tiến sĩ.
Trong khi kiếm được thừa miếng
bánh, tôi vẫn không quên là tôi phải tập học lấy nghề nhà. Cái nghề
làm báo. Nghề làm báo của tôi không học ở trường dạy làm báo mà học được ngay ở
các tờ báo tôi đọc hàng ngày.
Mười tháng sau khi tôi tới Paris, có tờ báo mới ra
đời. Một Hội Liên hiệp Báo giới xướng lên cuộc tẩy chay, tẩy chay cái chánh
kiến của tờ báo mới bằng những bài công kích trên các báo, với bằng lối cấm các
cửa hàng bán thứ báo mới kia. Nhưng có một điều mà tôi để ý nhất, là: trong
cuộc xung đột này, tờ báo mới có thứ văn riêng, thứ văn của ông chủ bút chỉ để
viết vào mục “Chánh kiến của chúng tôi” (Notre politique). Ông
Pierre Bertrand, ngày nay đã là người thiên cổ, có một lối viết câu rất ngắn.
Nó hùng hồn làm sao! Nó gọn ghẽ làm sao! Ta đọc xem, có thể tưởng tượng như búa
rìu của nhà văn vậy.
Tôi ưa lối văn của ông, vì tôi
cho đấy mới là lối để viết nhật trình, đấy mới là ngòi bút vạch cỏ trừ hoang,
để chỉ đường cho dư luận. Ngày qua tháng lại, văn ông Bertrand đã thành ra lối
thông dụng ở trên một vài tờ báo, mà hiện cũng còn thấy trên tờ báo Le Quotidien,
chính là tờ báo mới đó.
Thế ra văn chương cũng có
quyền đổi mới, tôi nghĩ. Phải, lúc đọc được văn Paul Bourget, ta không còn ưa
văn bộ tiểu thuyết Télémaque; mà đến lúc ta thích văn của cụ A.
France, ta hết muốn lần đến thứ văn dài mà nặng của quyển Le Disciple.
Văn chương cũng như chánh trị, như luân lý, cũng như “mốt”, đã đều là của người
nghĩ ra, thì đều là thứ ta có thể thay đổi được. Có gì là lạ!
Văn Pierre Bertrand cùng với
văn Clément Vautel, văn De la Fouchardière đều là ba thứ văn mới trong làng báo
nước Pháp ngày nay.
Văn chương nước người đã theo “mốt”
mới, văn chương của mình cũng nên đổi mới cho hợp thời. Trên nền thực hành, tôi
bắt đầu bằng viết một cuốn sách Quân chủ với châu Âu sau trận chiến
tranh năm 1914. Viết được 350 tờ, tôi đưa cho một người bạn xem.
“Anh muốn viết theo giọng mới,
nhưng còn như thấy vành khuôn cũ vẫn dính chặt trên đầu anh”.
Mấy lời bạn phê trên trang
sách khiến tôi phải hậm hụi ngồi sửa lại, sửa một lần, viết ra một lần, mà
người bạn quá nghiêm vẫn chê rằng rườm:
“Nghe văn anh vẫn ‘kêu’ lắm!”
Văn kêu, bạn cho là lối văn cũ
rích, ý ít mà lời nhiều, hay lời nhiều mà chưa đạt được gọn ý.
Năm tháng sau, tôi khởi công
viết lại. Bạn xem vẫn chưa bằng lòng lắm. Chữa đi sửa lại, tốn giấy mực đã
nhiều, tính ra cả thảy sáu lần, quyển sách 350 rút lại chỉ còn trăm rưởi. Tạm
cho được, người bạn như muốn cổ lệ tôi về cuốn sách sau.
Tự do ngôn luận trong hồi
cách mệnh nước Pháp là quyển sách tôi cũng viết khi còn làm thân lữ
khách bên đất trời Tây. Viết đến quyển này, tôi thấy đã đỡ tốn công, cán bút
không đến nỗi thấy nặng nề như trước nữa.
Tôi nghiệm ra văn Quốc ngữ từ trước viết ra, dùng nhiều lời quá, để che
cái chỗ thiếu ý. Chính bởi vậy mà lời văn rườm rà, nó mềm, nó
yếu, nó không có “gân” hoạt động. Nghe tiếng đàn bầu, ta chỉ thấy như trong
người uể oải, muốn ngồi xuống, muốn nằm ra, rồi thiêm thiếp trong cõi du dương.
Cũng vậy, một bài đại luận viết lên trên báo, đọc ra, ta mong được như nghe
cành dương rung trước gió. Người đọc văn ưa thế, là bởi người viết văn cũng chỉ
ưa thế. Văn chương như vậy, quả là thứ chết đặt trên trang giấy trắng phẳng
lì!
Hai quyển sách của tôi trên
kia ấn hành ở Sài Gòn. Ông Diệp Văn Kỳ đã bình phẩm trên tờ Đông Pháp
thời báo. Ông Kỳ không ưa nó, vì nó “cộc”, cộc vì có khi một câu chỉ có
một, hai, ba chữ. Ông Kỳ cũng lại không ưa nó vì nó “vụn”, vụn vì mỗi câu một
ý, đọc ra nó không có thể đưa ông vào giấc ngủ trưa dưới gốc cây me Tàu.
Ông Kỳ không ưa thứ văn quá
gọn, tôi không ưa thứ văn quá dài. Ông Kỳ ưa thứ văn ngâm nga, tôi chỉ ưa thứ
văn rắn rỏi. Hai khối óc khác nhau, hai khuynh hướng tự nhiên chẳng giống nhau.
Nhưng tôi tin ở lối viết của
tôi.
V. Văn Hoàng Tích Chu từ hai quyển sách lên trên mặt báo
Hiện
nay, làng văn nước Pháp, từ nhà viết sử đến nhà làm truyện, đều xu hướng về lối
ký sự là một lối của nhà làm báo. Bởi vậy ông Gustave Terry, chủ
báo L’oeuvre, hồi còn sống, đã xướng lên cuộc đòi mấy chiếc ghế cho
báo giới trong Viện Hàn lâm.
Ký sự là
một lối tả chân, trông sự vật, rồi xét đoán theo khoa tâm lý để diễn ra lời văn
thiết thực, hoạt động. Ấy báo giới nước Pháp trọng nhất cái ông viết giỏi mục
việc vặt. Viết được việc vặt, tức là viết được thời sự, viết được các bài đại
luận. Cái đó thật khác hẳn với báo giới bên ta chỉ chuyên trọng
các ngài ngồi nặn hàng ngày mới xong một bài xã thuyết viển vông. Lý tưởng các
ngài cũ rích, lời văn các ngài dài thượt, cả bài thường chỉ chứa có một ý, mà
xoắn vào kéo ra, quanh đi quẩn lại, các ngài tài nặn nên những lời bóng bẩy,
đọc nghe kêu gớm!
Không còn là thời buổi ấy,
thời buổi cho các ngài ngồi gẩy móng tay trong tòa soạn, ngồi nghĩ vẩn vơ hàng
trăm cái thuyết khó tiêu để kéo dài ra hàng ba bốn cột. Cột báo ngày nay quí
lắm, cũng như thời giờ, độc giả không chịu ăn mãi cái bả văn kêu, nó lắm khi vô
nghĩa.
Vậy muốn
viết theo lối ký sự, hạng văn cổ kia, ta phải bãi đi! Khuôn sáo cũ, ta phải phá
đi!
Tôi xin hiến các ngài một thứ
văn khác, vì tôi tin rằng chỉ có thứ văn ấy là có thể dùng để viết theo lối ký
sự được thôi.
Ba số báo đầu, hồi tôi bắt đầu
chủ trương tờ Ngọ báo, đã làm nao dư luận.
“Ô kìa! Văn cộc!”
“Lạ! Cái anh này ngô nghê tệ!
Văn gì mà đọc thấy không thông. Văn chó mửa!”
Thư độc giả gửi đến hàng ngày
không thiếu gì lời thống mạ, ông chủ nhiệm đã toan chịu tiền phí tổn tiễn tôi
xuống bến Sáu Kho:
“Văn Khai hóa năm
xưa đâu? Xin ông cứ cho nghe lại, còn hơn…”
“Nó chết rồi. Trong vòng ba
tháng, nếu báo ông còn sụt mãi, tôi xin trả lại chỗ ngồi này.”
Chao ôi! Từ ngày tôi làm
báo Khai hóa đến ngày tôi làm tờ Ngọ báo, tính ra
thấm thoắt đã bảy năm. Bảy năm rồi mà sao văn Khai hóa của
tôi, độc giả còn như muốn cho nó có ngày phục sinh?
Không lạ, nghề làm báo của anh
em đồng nghiệp, tôi xét ra vẫn không thấy nhúc nhích lên một bước nào trong
khoảng bảy năm trời ấy. Xã thuyết viển vông cũ rích vẫn bệ vệ chiếm hai ba cột
đầu, mục thời sự vẫn coi rẻ bằng bài bá cáo việc riêng. Cách xếp đặt không thay
đổi, lối phô trương chẳng khác xưa.
Trong khi người ta đương quên
thói cũ, ngâm những câu văn kêu: “Gió thét năm châu, mưa gầm bốn
bể”, mà tôi, một buổi sớm mai, tải vào những thứ, người ta trông
chướng mắt, đọc chướng tai, tôi biết thân phận xin nhận mọi lời phỉ báng.
Văn cộc!
Văn chó mửa! Chưa quen, các ngài riễu thế. Tôi xin nhận, nhưng tôi không chịu
cái tiếng “bịp” đời. Theo bổn phận nhà nghề, tôi chân thành cống hiến quốc dân
thứ quà mới ấy, vì tôi tin rằng văn tôi không có hại, cũng như lối làm báo của
tôi đã thay đổi được nhiều phần, mà anh em làng báo từ Bắc vào Nam đã lắm người
theo, hay đã chịu ít nhiều ảnh hưởng.
Phải chăng? Ở Bắc Kỳ, mấy tờ
báo thủ cựu đã thấy canh tân lối xếp đặt, mấy ông nhà văn thủ cựu cũng thấy mạnh
bạo đổi lại lối viết giọng văn. Cái chưa quen rồi là cái sẽ quen. Chớ
ngại.
Nói thế, chẳng phải tôi dám
khoe công, thời thế với hoàn cảnh có một phần ảnh hưởng lớn với anh em đồng
nghiệp. Nói thể chỉ là tôi muốn kể rõ cái lý đương nhiên: nghề làm văn với nghề
làm báo phải đi đôi trên đường cải cách.
Văn
Hoàng Tích Chu thấy có người theo, vô số người theo, không phải vì tôi chiều
lòng đăng những bài gởi đến cũng viết giọng văn tôi, như ý nhỏ nhen tưởng vậy;
chỉ là độc giả đã công nhận cái thứ văn đó nó thiết thực, nó gọn ghẽ hơn thứ
văn rườm rà viển vông đó thôi. Mà ngẫm xem, chính những kẻ lên tiếng công kích
văn tôi, không những cũng chịu ảnh hưởng của văn tôi, mà cũng phải công nhận
văn tôi đã thịnh hành. Bởi nó có thịnh hành, mấy kẻ đó mới tìm đường công kích
nó.
Áo mượn mặc không vừa đã đành
là anh lố bịch; như vừa chăng nữa, mà nó cứ nỏ miệng nhận của mình thì nên gọi
là gì… cho đúng. Ôi! Cái tính tự phụ của nhà văn.
Nói đến đây, tôi không thể cầm
được tiếng cười từ trong cổ họng.
Họ chê văn tôi “cộc”. Cái “cộc”
đó có dễ đâu! Một hay hai ba chữ, ta dùng làm sao cho đúng chỗ để câu ngắn ấy
có sức mạnh nẩy được cái ngữ khí, bao quát được cả ý đáng lẽ diễn ra phải tốn
hàng dòng.
Họ chê văn tôi “chó mửa”, vì
nó không kêu. Thứ văn kêu là thứ văn cân nhắc từng chữ bằng trắc, từng nhịp vắn
dài, chỉ nên dùng làm văn tế, văn tiêu khiển, không thể dùng để bàn bạc theo
lối khoa học cần rõ ràng, chắc chắn…
Họ lại
chê văn tôi “chẳng ra Tàu cũng chẳng ra Tây”.
Nó là
thứ văn lai thật. Vì mỗi khi đọc văn Hán hay văn Pháp, thấy được cái hay, tôi
liền tìm cách đem nó vào văn Quốc ngữ. Đại khái nói người Âu
tranh nhau sang Mỹ kiếm tiền, trong một câu, tôi có thể dùng được cả hai ngữ từ
của văn Hán và văn Pháp: “Bỏ nước mẹ cha để theo đuổi con ‘bò vàng’ xứ khác.” [“bỏ
nước mẹ cha” = khứ phụ mẫu chi bang; theo đuổi con bò vàng xứ khác = la
poursuite du Veau d’Or]
Cái lối lai ấy, tôi tưởng có
lợi cho văn Quốc ngữ để mỗi ngày một giàu thêm. Đến giọng văn cũng lắm lúc nên
cho nó lai, như văn Tàu hiện nay đã thấy lai nhiều rồi đấy.
Đại khái nói: Đứng cả
lên! Người thiên cổ. Tôi nghe nó hùng hơn: Hỡi người thiên cổ, đứng
cả lên!
Không phải để bịp các ngài
đâu, lối đặt ngược ấy chỉ là giúp cho lời văn cứng cáp, lắm khi lại để lời văn
không đến nỗi buồn teo.
Muốn cho nhà văn được có “mùi
lai” ấy, nhà viết văn phải có học, phải bạo viết, phải khéo dùng.
Trái thế, ta chỉ là hạng vẽ hổ
chẳng nên đấy thôi. Cái hại này, tôi đã thấy sinh xuất hàng ngày trên báo trên
sách ít lâu nay bởi mấy ông không thuộc lai mà giả lai. /.
Nguồn: Đông tây, Hà Nội, số 84
(27 Juin 1931); số 86 (4 Juillet 1931); số 87 (8 Juillet 1931); số 89 (18
Juillet 1931); số 90 (22 Juillet 1931)
[1]Kỳ đầu của bài này không có tiểu đề; người sưu
tầm tạm ghi là “Vào đề” và đặt trong ngoặc vuông (chú thích của người sưu tầm).
[2]Các chỗ này báo rách,
mỗi chỗ mất 1-3 từ (chú thích của người sưu tầm).
[3]Như chú thích 2 (chú
thích của người sưu tầm)
[4]Ngụ ngôn La Fontaine
(chú thích của người sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét