Khiemnguyen

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

Phan Khôi đáu tranh với cuộc xâm lăng văn hoá

(NGUYỄN BÙI KHIÊM) Phan Khôi là một nhà báo tài năng, một người tích cực vận dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán mạnh mẽ thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp. Phan Khôi cũng là một trong số ít nhà báo tiếp thu nhiều tư tưởng mới, đa văn hóa từ Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp... Phan Khôi còn nổi tiếng vì sự trực ngôn, trước 1945 được mang danh là Ngự sử văn đàn. Ông phê phán chính sách cai trị của người Pháp một cách sát sườn, đối thoại với học giới từ Bắc đến Nam không e dè kiêng nể. Những năm 1956-1958 cũng vì cung cách nói thẳng ấy ông đã chịu nhiều tai tiéng với bài báo nổi tiếng "Phê bình lãnh đạo văn nghệ”. Ông ra đi trong lặng lẽ vào năm 1959.          Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân, người đã có công sưu tập tác phẩm của Phan Khôi thành tài liệu Hồ sơ Phan Khôi đã nhận định: "Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí; nhưng, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung quốc học am hiểu những vấn đề của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch Kinh Thánh của đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lí thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học”. Vì vậy, trong bài viết "Đọc lại Phan Khôi” này, chúng tôi chỉ xin tập trung sự chú ý vào những bài báo của Phan Khôi có liên quan đến văn hóa, văn học- điều làm nên nhà Lý luận, phê bình văn học Phan Khôi- người đi tiên phong trong lãnh vực này trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20.     Những năm 20, 30 của thế kỷ 20 là giai đoạn giao thời mà Hoài Thanh gọi là "Cuộc biến thiên vĩ đại”: giai đoạn xảy ra cuộc giao lưu văn hóa Đông Tây, nói chính xác thì đó là giai đoạn "xâm lăng văn hóa” của phương Tây đối với phương Đông. Văn hóa phương Đông đứng trước thách thức: bị phương Tây "thôn tính” hay tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Tây để "làm mới mình” đặng hòa nhập vào dòng chảy của thời đại. Hoặc nói như Dương Quảng Hàm: "Dân tộc ta vốn là một dân tộc có sức sinh tồn rất mạnh, trải mấy thế kỷ nội thuộc nước Tàu mà không hề bị đồng hóa, lại biết nhờ cái văn hóa của người Tàu để tổ chức thành một xã hội có trật tự, gây dựng nên một nền Văn học tuy không được phong phú, rực rỡ nhưng cũng có chỗ khả quan, có phần đặc sắc, thì chắc rằng sau này dân tộc ta cũng sẽ biết tìm thấy trong nền văn học nước Pháp những điều sở trường để bổ sung những chỗ thiếu thốn của mình, thứ nhất là biết mượn các phương pháp khoa học của Tây phương mà nghiên cứu lại các vấn đề có liên lạc đến nền văn hóa của nước mình, đến cuộc sinh hoạt của dân tộc mình, thâu thái lấy cái tinh hoa của nền văn minh nước Pháp mà làm cho các tinh thần của dân tộc được mạnh lên để gây dựng lấy một nền văn học vừa hợp với hoàn cảnh hiện thời, vừa giữ được cốt cách cổ truyền. Đó là nhiệm vụ chung của các bạn độc giả và văn gia nước ta ngày nay vậy".         Phan Khôi là một trong những người đi tiên phong trong "Cuộc biến thiên vĩ đại” đó của lịch sử văn hóa nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Vấn đề cấp thiết đặt ra lúc đó đối với cả nền văn hóa nói chung và văn học nói riêng là muốn tồn tại thì phải "Duy tân”, mà bây giờ chúng ta gọi là "Đổi mới”. Và Phan Khôi đã nhận thức rất chính xác, ông nói: "Muốn duy tân cải cách thì phải bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước” và ông đã "thực hành” bằng hàng trăm bài nghị luận, bút chiến với một phong cách mạnh mẽ, đầy ấn tượng trong giai đoạn giao thời, đã tạo tiền đề tư tưởng cần thiết cho các cuộc cách tân hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Vì thế, có thể nói Phan Khôi là một trong những người khai sơn phá thạch ra loại hình phê bình văn học ở nước ta, một hoạt động không thể thiếu vắng trong một nền văn học mới, đầy biến động của thời kỳ hiện đại.     Đi đằng sau cuộc xâm lăng chính trị, lãnh thổ của Thực dân Pháp là cuộc xâm lăng về văn hóa, hay như người ta thường nói, đó là cuộc đụng độ về tư tưởng và văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Phan Khôi đã có ngay bài viết về vấn đề thời sự nóng bỏng này: Tư tưởng của Tây phương và Đông phương. Trong bài viết, Phan Khôi đã nêu ra ba điểm khác nhau cơ bản của phương Đông và phương Tây với sự phân tích rõ ràng, dễ hiểu đối với công chúng đông đảo: 1/ Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học; 2/Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc; 3/ Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận. Tuy nhiên, khi kêu gọi phải tiếp thu văn minh phương Tây thì Phan Khôi lại rất cực đoan: « Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông và Tây nó phản đối nhau như phương nam với phương bắc, như mặt trăng với mặt trời. Nay ta nếu muốn theo cách sanh hoạt mới của Tây phương, mà ta lại còn giữ cả tư tưởng cũ của Đông phương thì quyết không có thể được. âu là phải dứt bỏ tư tưởng cũ của ta mà theo tư tưởng của Tây phương, thì mới hiệp với cách sanh hoạt mới của ta". Quả là lúc đó Phan Khôi chưa thể lý giải một cách biện chứng mối quan hệ giữa "truyền thống và cách tân" như hiện nay. Chính vì thế mà Phan Khôi đã phản đối quyết liệt chủ trương "tân cựu điều hòa” của Phạm Quỳnh (3) bằng bài viết "Bác cái thuyết tân cựu điều hòa" mà ngay mở đầu đã phản bác rõ ràng: "Mấy năm gần đây, ở nước ta có một số ít người bàn luận đến cái vấn đề tư tưởng cũ và tư tưởng mới, thì hầu hết đều chủ trương cái thuyết điều hòa, nghĩa là đem tư tưởng cũ và tư tưởng mới mà trộn lẫn cùng nhau. Cái thuyết ấy mới nghe qua dường như có lẽ lắm, dễ nghe lắm, mà nghiền ngẫm cho kỹ, gạn hỏi cho cùng, thì gần gần thành ra vô nghĩa, không có thể đem mà thiệt hành ra được". Và kết thúc bài báo lại nhấn mạnh sự phản bác: "Cái thuyết điều hòa ở ta đây cũng có một phần bởi lời đồn huyễn "văn minh phá sản" đó mà ra. Những người chủ trương thuyết ấy sợ rằng nếu ta theo hệt như văn minh Âu châu thì cũng có ngày sẽ mang lấy đại hoạ như họ. Sợ như vậy thật là sợ hoảng, đúng như lời tục ngữ ta thường nói: "Chưa giàu đã lo ăn cướp"! Ta muốn ngóc đầu lên một chút đây mà còn e chưa nổi, lại còn có tài nào sức nào đủ gây ra cái đại họa ấy nữa kia?  Theo các lẽ đã giải minh ra trên đây thì cái thuyết điều hòa không thể thiệt hiện ra được. Mà không những thế, về mặt lý luận, nó cũng không thành lập được nữa".     Trong bài báo Thi văn với thời đại, khi bàn về mối quan hệ giữa văn chương với cuộc sống, Phan Khôi đã nhấn mạnh đến hai yếu tố cơ bản của nghệ thuật văn chương là phải có hai cái đặc sắc: cái đặc sắc thứ nhất là vẻ đẹp (tính thẩm mỹ) của tác phẩm đặng lôi cuốn, thu hút người đọc và cái đặc sắc thứ hai là phải có dấu ấn của xã hội đương thời với tác giả (tính hiện thực lịch sử),- đó cũng chính là yêu cầu không thể thiếu đối với một tác phẩm văn chương hiện đại trong cuộc sống hiện nay: ‘‘Một bài thi, một bài văn, hay là một tập thi, một tập văn mà làm cho người ta quý trọng và lưu truyền được là nhờ có đặc sắc về hai đường: một là về đường mỹ thuật, hai là về đường lịch sử. Đặc sắc về mỹ thuật, nghĩa là thơ văn ấy hoặc tả cảnh hay, hoặc tả tình hay, đủ làm cho kẻ đọc đến mà sanh cảm, cũng như trong khi xem một bức vẽ hoặc xem một tấn tuồng mà giục nỗi vui buồn. Đặc sắc về lịch sử nghĩa là trong thi văn có lưu lại những cái dấu vết của xã hội đồng thời với tác giả; đời sau đọc đến có thể nhờ đó mà nhận ra cuộc đời hồi ấy hoặc ít hoặc nhiều, có thể đem thi văn ấy mà đối chứng với những điều nghi ngờ trong lịch sử. Từ xưa đến nay, những tay văn hào bất tử, thường là gồm cả hai mặt đó. Song le, về đường mỹ thuật thì hầu hết mọi người cầm bút viết văn ai ai cũng biết; đến như cái đặc sắc về đường lịch sử thì người ta thường không chú ý đến mà bỏ qua đi... Sự thuộc về lịch sử ấy tức trong bài nầy muốn nói rõ hơn một chút, gọi là thi văn quan hệ với thời đại’’.     Có thể nói, Phan Khôi là người duy lý cực đoan, coi "Luận lý học cai trị mọi sự ở đời”. Phải có thái độ hoàn toàn khách quan khi biện luận - đó là nguyên tắc sắt đá và nhất quán của Phan Khôi khi nghị luận, bút chiến. Nguyên tắc này được ông nói tới nhiều lần: "Người mình lại hay thiên trọng về cảm tình, tôi thấy nhiều việc đáng lấy lý mà nói, nhưng người ta cũng cứ tình mà thôi”; "Người Việt Nam ta thuở nay theo cái học cũ, mọi việc ít hay xét xử bằng lý trí (raison) mà cứ bằng tình cảm (sentiment)”; "Cái lối văn thuộc về tình cảm nó nuốt người ta mạnh lắm, có khi nó cướp mất cả phần lý trí”,v.v… Trong tranh luận, người ta thường dễ lẫn lộn tình cảm riêng đối với con người của kẻ tham gia tranh luận, với lý lẽ anh ta phát biểu. Điều ấy dễ làm mất tỉnh táo, mất tinh thần khách quan trong nhận thức chân lý. Trong bài "Con người và lời nói”, Phan Khôi cho rằng, trong xã hội ta "ai nấy ít trọng về lời nói mà chỉ chú trọng về con người”. Như vậy rất trở ngại cho những cuộc tranh luận học thuật. Vì thế, Phan Khôi nhất quán quan điểm "lạnh lùng khách quan”: "Chỉ nên lấy lời nói làm cái đối tượng (objet) cho sự biện luận chứ không nên lấy con người làm đối tượng”. Vậy trong nghị luận, bút chiến phải kiên quyết dứt bỏ tình cảm và đề cao lý trí. Đề cao lý trí tất phải coi trọng luận lý học.     Ông đã viết những bài nghị luận, phê bình của mình bằng một văn phong giàu tính khoa học, tính duy lý cao, lập luận chặt chẽ, hành văn mạch lạc sáng sủa, chứng cứ rõ ràng. Trong bài Văn chương và văn chương của nhà báo, Phan Khôi xác định rõ ba chuẩn mực của văn chương là Tín, đạt, mỹ và ông cắt nghĩa rõ ràng: "Về văn chương, không cứ đặt để làm sao, không cứ theo lề lối nào, người làm văn cốt phải giữ ba điều, là: tín, đạt, mỹ. Tín, nghĩa là văn phải cho tin. Trong một bài văn, kể chuyện thì phải cho thật, nói lý thì phải cho đúng; ấy là tín đó. Đạt, nghĩa là văn cho thông. Cái ý mình nghĩ trong óc thế nào thì viết ra trên giấy cũng thế ấy, làm cho người xem văn mình hiểu đúng như ý mình, mà khỏi hiểu ra đường khác hay là không hiểu chi cả; ấy là thông đó. Mỹ, nghĩa là văn phải cho đẹp. Tín và thông cũng đã gọi là đủ dùng trong sự viết văn rồi; song nếu muốn cảm người cho sâu, truyền đi cho xa thì phải cần đến cái đẹp. Lời cho nhã, ý cho mới, ấy là đẹp đó. Bất kỳ văn nước nào thời nào, dầu cho ở bên Tây, bên Tàu, hay là đời xưa, đời nay, cũng phải có đủ ba điều ấy thì mới gọi là văn được, mới gọi là văn hữu dụng được. Coi đó thì cái đẹp trong văn chương không phải là cái đáng khinh. Đáng khinh là văn không tín không thông chỉ có cái đẹp mà thôi; còn như đã tín đã thông mà lại còn thêm đẹp nữa, thì cái văn ấy ta rất nên quý chuộng". Đối chiếu với những chuẩn của lý luận hiện đại (tín: tính chân thực; đạt: tính đại chúng, mỹ: tính thẩm mỹ) thì những điều mà Phan Khôi trình bày hồi đó đến giờ vẫn còn nguyên giá trị.     Nói về văn chương báo chí của nhà báo, Phan Khôi không chỉ chú ý đến những vấn đề lớn mà những vấn đề có vẻ tiểu tiết như cách dùng từ, đặt câu, dấu má... cũng không thể bỏ qua: "Về sự chúng ta viết báo bằng chữ quốc ngữ hiện thời đây, chúng tôi muốn cho hẵng "tín" và "thông" đi đã, chớ chưa vội nói đến cái "đẹp". Điều đó ý chúng tôi cũng hơi giống với quý báo, chỉ khác một chút là chúng tôi nói chưa vội, mà quý báo nói không cần ấy thôi. Chúng tôi nói chưa vội, là vì chữ quốc ngữ của chúng ta ngày nay còn phân vân, chưa nhứt định, chưa có sách mẹo cùng các sách khác thuộc về phép làm văn, thì bước thứ nhứt là phải do chúng ta lập cái nền quốc văn cho vững chãi đã, rồi mới nói đến cái hay cái đẹp được; nghĩa là trước hết chúng ta phải tập viết văn cho đúng mẹo, cho thông. Hễ đã đúng mẹo, đã thông, rồi mới nhơn đó mà lập thành sách mẹo tiếng Việt Nam và lại nhơn đó lần lần làm ra các sách dạy phép làm văn, luyện đến cái hay cái đẹp, mà thành ra một nền văn chương Việt Nam vậy".          Tự vị chữ ta đã có lâu rồi, bây giờ chúng ta cần nhứt phải viết đúng theo tự vị. Thế  mà quý báo coi ý không chăm về chỗ đó, cho nên quảng cáo thì viết ra quản cáo, phô bày thì viết ra phô bài, song quý chủ nhiệm đã có nói rằng: "Tôi vẫn biết ai ai cũng viết "khó khăn" mà tôi muốn viết "khó khăng"; đã tự ý muốn chi thì muốn, thì còn ai nói vào làm chi? Quý báo một nói ít chú trọng về văn chương, hai nói không chuộng ở lời văn mà chuộng ở tư tưởng; chúng tôi lại còn đem văn chương nói với quý báo, chi cho khỏi lấy làm rầy tai. Song chúng tôi tưởng, sự trung cáo  nầy cũng là một cái bổn phận chúng tôi’’.     Tuy nhiên, do Phan Khôi duy lý tới mức cực đoan và quá sùng bái lô-gích hình thức, ông đã tỏ ra lúng túng khi lý giải những hiện tượng phức tạp, nghĩa là vừa mâu thuẫn vừa thống nhất. Ông chỉ thấy mặt đối lập, tính dị biệt mà không thấy yếu tố có thể giao lưu, trao đổi giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống và cách tân, giữa văn chương bình dân và văn chương bác học, giữa trực giác và duy lý, v.v… Đặc biệt, khi đối diện với sự tinh vi, phức tạp tới mức huyền ảo của thế giới cảm xúc của con người, mà đỉnh cao là Tình yêu thì "nhà duy lý” tỏ ra thúc thủ và giải thích rất máy móc…     Là một nhà "Luận lý học”, nhưng Phan Khôi có một tâm hồn tươi trẻ, sống động:  "Thanh niên là vị thần của tôi thờ”- ông đã tuyên bố rõ ràng như vậy. Phan Khôi còn nói: "Tôi sẵn có cái tánh hay bông đùa, mà lâu nay lại khuynh hướng về cái lạc thiên chủ nghĩa (optimisme), thỉnh thoảng dù viết về điều trang nghiêm cũng " trộm phép” mà "hí hước chút chơi”. Chính vì thế, có nhiều bài viết của ông chỉ là kể chuyện vui. Có thể nói, tính hài hước kết hợp với một tư duy phê phán sắc sảo, đã tạo ra ở Phan Khôi một lối viết châm biếm giễu cợt như một nét đặc sắc của phong cách văn nghị luận, bút chiến Phan Khôi. Ông viết một loạt bài gọi là tiểu phẩm hay hài đàm với tiếng cười đả kích vừa hoạt bát hiện đại học được của phương Tây, vừa sâu sắc mang cái thâm thúy của một nhà nho. Với hàng trăm bài viết phê phán những thói xấu của con người, những nhược điểm của dân tộc, những bất công trong xã hội thực dân phong kiến, Phan Khôi đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của loại văn châm biếm, trào phúng trong nền văn học nước ta lúc đó. Trong bài viết Cái địa vị khôi hài trên diễn đàn văn học, ông cho rằng, khôi hài là thể hiện "cái tư tưởng tự do”, "cái khí phách độc lập”, "Ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được chuyện giễu có duyên hay là làm được bài văn bông lơn có duyên”, kẻ "nói chơi không biết, nói thiệt không hay” là "ngu đần”./. Contact: nguyenbuikhiem@gmail.com     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét