Khiemnguyen

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (3)

III. GIAI ĐOẠN 1936 - 1939


1. Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương với sự phát triển báo chí

Trong suốt ba năm vận động dân chủ, Chính phủ Pháp và chính quyền thực dân có trên 40 văn bản quy định bổ sung về báo chí và quan hệ đến báo chí.

Ngày 12-8-1936, Chính phủ Pháp ra sắc lệnh nới về báo chí . Sau đây là điều l và điều 2.

''Điều 1: Trong các lãnh thổ Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Miên và Lào, việc công bố hay truyền bá bằng bất cứ biện pháp nào những tin tức sai lầm, những văn bản xuyên tạc và vu cáo đối với người khác vì cố tình mà làm giảm lòng tin, sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến một năm và phạt tiền từ 100 đến 3.000 phrăng, hoặc một trong hai hình thức đó, khi ấn phẩm hoặc việc truyền bá ấy dẫn tới làm rối loạn kỷ luật và đạo đức và các lực lượng lục quân, hải quân và không quân''.

“Điều 2: Những vi phạm điều trên sẽ bị đưa ra xử trước tòa án tiểu hình''.

Sắc lệnh này không thực hiện ở Nam Kỳ là đất thuộc Pháp. Một sự thật khách quan nào đưa lên báo có thể làm cho kẻ thù sợ hãi, ''cho đó là tin tức sai lầm'', ''văn bản xuyên tạc và vu cáo” bị chính quyền thực dân lấy cớ làm án một cách độc đoán và đàn áp báo chí.

Theo báo cáo của các nhà báo cách mạng ở Hà Nội với Ônen (Honel), đại biểu Đảng Cộng sản Pháp, nghị sĩ Quốc hội Pháp trong dịp sang Đông Dương, cuộc họp báo Hội đồng Chính phủ tháng 8-1937 xét 43 đơn xin ra báo, chỉ duyệt có hai đơn.

Khi tờ báo Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng xuất bản công khai ở Sài Gòn không xin phép, dựa vào phong trào dân chủ đang lên và luật tự do báo chí của Quốc hội Pháp mà Nam Kỳ được hưởng, bị bọn thực dân cầm quyền làm sai lạc đi trong mấy chục năm, buộc chúng phải thừa nhận tính nửa hợp pháp trong thời gian đầu.

Ngày 30-8-1938, hơn một tháng sau khi báo Dân chúng ra số l, Tổng thống Pháp Lơbroong ký sắc lệnh, tiếp ký là Bộ trưởng Thuộc địa Măngđen, được Toàn quyền Đông Dương Brêviê ra nghị định riêng cho Nam Kỳ ngày 7-10-1938, gồm hai điều, trong đó:

“Điều 1: Các điều 2 và 4 trong sắc lệnh ký ngày 30-12-1898 về chế độ báo chí ở Đông Dương từ nay bãi bỏ''.

Như vậy là các báo chí và ấn phẩm định kỳ xuất bản ở Nam Kỳ không cần xin phép trước. Nhưng chính quyền thực dân chỉ công nhận giá trị điều 5 của luật ngày 29-7-1881 riêng đối với Nam Kỳ. Các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng đều là nhượng địa cho Pháp, có quy chế cho Nam Kỳ. Ta đòi thực hiện sắc lệnh ngày 30-8-1938 ở cả ba thành phố này. Pháp lấy lý do là các nơi ấy mới nhượng cho Pháp từ ngày 3-10-1888, tức là sau luật ngày 29-7-1881 hơn 7 năm, do đó không đủ điều kiện hưởng quyền tự do báo chí như ở Nam Kỳ. Hành vi xảo trá đó chính là nhằm trốn tránh thi hành luật tự do báo chí.

Các văn bản pháp quy về báo chí không quy định thời hạn chung từ khi cho phép đến khi xuất bản là bao nhiêu lâu, nếu kéo dài quá thời hạn đó thì không được xuất bản nữa. Nhưng khi ký nghị định, Toàn quyền Đông Dương tùy tiện cho thời hạn khác nhau đối với từng tờ báo. Đời nay, 1936, Tiểu thuyết thứ năm, 1937, thời hạn là 6 tháng. Dân, 1938, thời hạn là 3 tháng. Trước kia, từ năm 1931, tờ báo nào đã có nghị định của Toàn quyền cho phép xuất bản rồi, bao nhiêu lâu sau đó, 3 tháng, 6 tháng hay hơn nữa mới ra số 1 là tùy người được phép24.

Theo các sắc lệnh và nghị định, một tờ báo vi phạm một điều luật nào đó sẽ bị đưa ra xét xử trước tòa án tiểu hình. Phan Tử Nghĩa, Giám đốc tờ báo chữ Pháp Rassemblement! (do Xứ uỷ Bắc Kỳ bí mật chỉ đạo, danh nghĩa là tuần báo chính trị, kinh tế và xã hội ra ngày thứ ba, cơ quan của tất cả các lực lượng dân chủ Đông Dương) bị gọi ra tòa đại hình ngày 4-12-1937, bị truy tố về tội xuất bản nối tiếp theo Le Travail.

Đây là lần đầu tiên và cũng là một lần duy nhất một tờ báo ở Đông Dương bị gọi ra tòa đại hình.

Hội Ái hữu báo giới người Nam Kỳ (viết tắt là AJAC) do nhà cầm quyền chủ trương lập ra từ ngày 22-6-1932 vẫn tồn tại, nhưng thay đổi nhân sự hội đồng quản trị để đề phòng những người dân chủ nắm lấy tổ chức đấu tranh với chúng.

Toàn quyền Robanh ban hành nghị định bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí ở Đông Dương từ ngày l-l-1935. Nay đứng trước tình hình bóng mây Chiến tranh thế giới thứ hai đang bao phủ trời Âu, việc bùng nổ chỉ còn tính ngày giờ, Toàn quyền Brêviê ra nghị định thu hồi nghị định bỏ kiểm duyệt, trở lại chế độ kiểm duyệt từ ngày 29-8-1939. Nhiều tờ báo in ra lại xuất hiện những đoạn, những cột, cho đến cả những trang bỏ trắng, ấn vào đó chữ ''kiểm duyệt''.

Đơn xin xuất bản báo mới lúc này đều bị xếp lại, không xét.

Sắc lệnh của Chính phủ Pháp ngày 26-9-1989, sau điều l và điều 2 cấm các đảng cộng sản và các đoàn thể do đảng cộng sản tổ chức và chỉ đạo hoạt động, điều 3 viết về báo chí: “Nghiêm cấm việc đăng báo, lưu hành, bày bán, cất giữ báo chí và ấn phẩm định kỳ hay không định kỳ, kể cả hình các hình vẽ, tuyên truyền những khẩu hiệu của phái Đệ tam quốc tế và những cơ quan có quan hệ với phái ấy''.

Đến khi đứng trước ngưỡng cửa của chiến tranh, bọn cầm quyền thẳng tay xóa bỏ những điều cải cách, tiến hành chính sách phát xít đối với báo chí, đàn áp báo chí tiến bộ, khủng bố các nhà báo dân chủ và cách mạng. Nhiều tờ báo phải đình bản. Các nhà báo cách mạng từ công khai chuyển nào hoạt động bí mật.

Theo thống kê của Phủ Toàn quyền, đến tháng 6-1936, cả nước có 230 tờ báo, tạp chí, tập san các loại. Đến 6 tháng cuối năm 1936 tăng lên 47 tờ, cộng cả năm 1936 là 277 tờ. Năm 1937 có 289 tờ, tăng hơn năm 1936 là 12 tờ (4,3%). Năm 1938 là 308 tờ, tăng hơn năm 1937 là 19 tờ (6,5%). Đến năm 1939 tiếp tục tăng lên, 6 tháng cuối năm 1939 dừng lại.

Tính bình quân hằng năm tăng gần 5%, trong đó tốc độ tăng của báo chí Bắc Kỳ và Nam Kỳ lên đều nhau. Trung Kỳ năm 1938 lai sụt hơn năm 1936, có 26/27 tờ.

Về thể loại, khuynh hướng chính trị tăng nhanh hơn so với kinh tế, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, xã hội, tôn giáo...

Báo cách mạng lần đầu tiên xuất hiện công khai trên mặt trận báo chí. Phần lớn báo cách mạng ra mắt công chúng dưới hình thức nửa hợp pháp và hợp pháp, chỉ có khoảng trên 10 tờ là xuất bản bí mật.

(Mời xem tiếp phần 4)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét