BÁO CHÍ VIỆT NAM
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM1
Con người, từ thưở mới xuất hiện trên quả đất, do
nhu cầu giao tế và những nhu cầu khác trong cuộc sống xã hội của mình, đã có
hoạt động thông tin bằng ngôn ngữ, bằng cử chỉ, bằng những công cụ, những
phương tiện tạo ra trong thực tiễn sản xuất và đấu tranh. Dĩ nhiên là những
buổi đầu, suốt thời kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thuỷ, các công
cụ tạo ra cũng như các hình thức và phương pháp sử dụng đêu còn đơn giản, thô
sơ. Những cái mốc của sự đổi mới và phát triển có vẻ không có gì đáng kể đối với
cảm giác con người thời đại ngày nay. Thật ra thuở ấy thường cách nhau đến hàng
vạn năm, chục vạn năm.
Trải qua hàng triệu năm tiến hoá, loài người đi đến
chỗ có chữ viết, rồi chữ in..., cắm một cái mốc rất lớn, rất quan trọng trên
con đường phát triển của hoạt động thông tin. Từ cái mốc ấy và đến một bưóc
tiến triển nhất định của đấu tranh giai cấp, trong xã hội phân hoá thành những
giai cấp khác nhau, có giai cấp đối kháng và đối kháng giai cấp đã hàng nghìn
năm, một công cụ thông tin có tính ưu việt nổi bật hẳn so với các công cụ đã có
trước kia ra đời và nhanh chóng trở thành một sản phẩm đắt hàng: Công cụ ấy là
bản tin, là tờ báo, cuối cùng là báo chí. Ngày nay báo chí không chỉ là có chữ
mà còn có cả tiếng, cả hình và cả hình lẫn tiếng.
Nước ta, từ đời Văn Lang đến giữa thế kỷ trước, là
chưa có báo chí. Lịch sử báo chí Việt Nam cho đến nay bắt đầu và kéo dài trong
khuôn khổ lịch sử nước Việt Nam bị đê quốc xâm lược và chống đế quốíc xâm lược
thắng lợi rồi chuyển tiếp sang lịch sử nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng đang
phấn đấu trên những bước đi ban đầu của kỷ nguyên mới.
Hơn một trăm năm qua, lịch sử đất nước Việt Nam và lịch sử báo chí Việt Nam bao gồm
những giai đoạn và những thời kỳ về cơ bản là khớp với nhau khá rõ. Bỏi vậy, về
lịch sử báo chí, sự phân định các giai đoạn và các thời kỳ cũng tương đối thuận
tiện. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là sự phân định các chương mục của một
công trình về lịch sử báo chí nói chung và lịch sử một tờ báo cụ thể nào đó nói
riêng không cần chú ý thật nhiều đến những đặc trưng cơ bản và hoàn cảnh cụ thể
riêng biệt của báo chí nói chung và tờ báo cụ thể ấy nói riêng.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Việt Nam là
một nước thuộc địa, nửa phong kiến rất nghèo nàn và lạc hậu, tư liệu còn lại
cho chúng ta đã quá ít ỏi, lại rất tản mạn, không dễ sưu tầm và xác minh. Sau
Cách mạng Tháng Tám, tám, chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp chủ yếu bằng
chiến tranh du kích - không sao tránh khỏi làm nảy ra rất nhiều khó khăn về mặt
này. Sau đó, đất nước bị chia cắt thành hai miền có hai chế độ khác nhau và
trong hoàn cảnh tất cả các lực lượng cứu nước đều lao mình vào những cuộc chiến
đấu kéo dài và vô cùng quyết liệt cũng để lại nhiều hậu quả phức tạp về mặt này
cho công việc viết sử.
Bởi vậy, một cuốn sử với nội dung như trên cần phải
là một công trình tập thể của nhiều người và phải trải qua nhiều bước kiểm tra,
hiệu đính và bổ sung, phát triển mới có thể hoàn thành và hoàn chỉnh.
Công trình này chỉ mong được coi là một phác thảo
bước đầu.
Chương I
CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM
Sau hàng thế kỷ vào nước ta bằng thám hiểm, bằng
thương mại, bằng tôn giáo, bằng ngoại giao rồi bằng chiến tranh, từ giữa thế kỷ
XIX, chủ nghĩa thực dân Pháp trắng trợn xâm lược nước ta, và từng bước nô dịch
dân tộc ta, đặt ách thống trị toàn diện (chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội)
của chúng lên khắp Tổ quốc chúng ta.
Đầu những năm 60 của thế kỷ XIX, Pháp chiếm Nam Kỳ.
Do kinh nghiệm sử dụng báo chí để chống thế lực phong kiến trên con đường đi
tới cuộc Cách mạng 1789 và để đối phó với cách mạng vô sản và nhũng phong trào
công nhân sau khi đã thay thế nhà nước phong kiến bằng nhà nước tư bản chủ
nghĩa của mình, giai cấp tư sản Pháp rất coi trọng công cụ và vũ khí báo chí.
Đến đâu nó cũng mang theo báo chí đến đó và đẻ ra báo chí phục vụ lợi ích của
nó ở đó. Dĩ nhiên là có
báo chí bảo vệ nó thì sớm muộn cũng phải có báo chí chống lại nó. Đó là một sự
thật có tính quy luật.
Bọn thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ trước hết, thì cũng ở
Nam Kỳ trước hết báo chí xuất hiện trên đất nước ta. Sau đó, tuỳ theo từng bước
thực dân Pháp mở rộng địa bàn xâm lược của chúng, địa bàn hoạt động của báo chí
cũng mở rộng từng bước dần dần. về đại thể, nhìn lại lịch sử cả giai đoạn từ
khi có những tờ báo đầu tiên do bọn thực dân cướp nước đẻ ra cho đến khi có
những tờ báo đầu tiên của những chiến sĩ tiên phong cứu nước, chúng ta có thể
thấy diễn ra mấy thời kỳ như sau:
1. Thời kỳ đầu mới có báo chí ở Nam Kỳ
Năm 1962 là năm tên Đô đốc Bonnard dẫn quân lên bộ
chiếm lĩnh Sài Gòn, cũng là năm tên đô đốc được Chính phủ Pháp bổ nhiệm làm
thống đốc, và cũng là năm ở Sài Gòn có những bản tin đầu tiên là Le
Bulletin officiel de Vexpédition de la Cochinchine (Bản tin Công báo
của phái bộ viễn chinh Nam Kỳ) và Le Bulletin des Communes (Bản tin hàng
xã). Cả hai bản tin đều không in bằng tiếng Việt (chỉ có chữ Pháp hoặc chữ Pháp
và chữ Hán), và không đáng gọi là báo chí Việt Nam. Tờ Le Courrier de Sài Gòn (Thư
tín Sài Gòn) ra đầu năm 1864 cũng vậy. Thực ra chữ Việt lúc đó chưa có nhiều
người đọc. Vả lại, người Pháp đi ra ngoài nước cũng cần có cơ quan thông tin
ngôn luận đáp ứng những yêu cầu trong quan hệ nội bộ của họ. Họ cũng đứng trên
một lập trường chung của các thế lực thực dân - đế quốc xâm lược nước ta, song
về mặt quan hệ nội bộ, trong bọn họ vẫn thường có những phe phái có lợi ích
riêng và quan điểm riêng khác nhau.
Tháng 4-1865, tờ báo đầu tiên có một tên gọi Hán -
Việt và cũng ra bằng hai thứ chữ Hán, Việt được xuất bản, đó là tờ Gia Định
báo. Nhưng đây cũng là một tờ báo ra theo chủ trương của tên Thông đốc
Bonnard và do một tên thực dân Pháp quản lý suốt 5 năm đầu. Hai người Việt Nam
chịu trách nhiệm chính về việc biên tập và xuất bản là Pe’trus Trương Vĩnh Ký
và Huỳnh Tịnh Của cùng một số người khác làm việc trong cơ quan báo đó đều được
chính quyền thực dân Pháp bổ dụng và trả lương theo ngạch bậc công chức báo
chí. Rất dễ hiểu rằng nội dung tờ báo là những tin tức và ngôn luận - ca tụng chính quyền của lũ thực dân Pháp cướp
nước. Tiếp theo Gia Định báo, từ 1886 đến những năm 80 có thêm mấy tờ
báo nữa ra đời là Phan Yên báo (cũng ở Gia Định), tờ Nhật trình Nam
Kỳ ra bằng tiếng Pháp và tiếng Việt, và tờ Nam Kỳ địa phận bằng
tiếng Việt là tờ báo đầu tiên do nhà thờ đạo Thiên chúa xuất bản ở nước ta.
Như vậy, những tờ báo trên đây là những tờ báo đầu
tiên ra đời ở Sài Gòn - Gia Định, cũng đồng thời là những tờ báo đầu tiên xuất
bản ở nước ta. Trong đó tờ Gia Định báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên.
Dù sao, không riêng gì các tờ in bằng chữ Pháp mà cả Gia Định báo cũng
là do bọn thực dân Pháp lập ra và nắm rất chặt qua những phần tử trí thức Việt Nam
làm việc đắc lực cho chúng. Về chính trị, các tờ báo tiếng Việt kể trên nói
chung đều là công cụ của chính quyền và thế lực thực dân. Song, về văn học thì những tin và bài đăng trên các báo ấy không
những hình thành thể loại văn học báo chí đầu tiên ở nưóc ta mà đồng thời cũng
có thể nói là hình thành thể loại văn xuôi tiếng Việt đầu tiên trên giấy trắng
mực đen in ra rõ ràng và đều đặn.
2. Thời kỳ địa
bàn kinh doanh và hoạt động báo chí bắt đầu
lan ra Bắc Kỳ (1884 -1898)
Sang những năm 80 của thế kỷ XIX, bọn thực dân Pháp
ráo riết xúc tiến việc thiết lập bộ máy cai trị thuộc địa của chúng ở Bắc Kỳ,
trước hết là ở Hà Nội và Hải Phòng. Địa bàn kinh doanh và hoạt động báo chí
cũng bắt đầu lan ra Bắc Kỳ. Năm 1883, ở Hà Nội bắt đầu có nhà in chữ Pháp và
chữ Việt. Ngay từ đó, có những báo chữ Pháp ra đời, như: Le Bulletin du
Commité d'Etudes Agrécoles, 'Industrielles et Commercmles de VAnnam et du
Tonkin (Bản tin Uỷ ban nghiên cứu Nông nghiệp, Công nghiệp và Thương nghiệp
của Trung Kỳ và Bắc Kỳ) do Chính phủ bảo hộ phát hành. UAvenir du Tonkin
(Tương lai Bắc Kỳ) của Jules Cousin; Le Courrier de Hải Phòng (Thư tín
Hải Phòng)... nhằm riêng vào các tầng lớp cựu học đương thời không biết chữ
quốc ngữ, có hai tờ báo xuất bản bằng chữ Hán là tờ Bảo hộ Nam dân
(1888) và tờ Đại Nam Đồng văn Nhật báo (1892). Cả hai tờ này cũng đều là
sản phẩm của bọn thực dân Pháp. Tờ thứ nhất do Cuers de Cogolin cho ra đòi với
mục tiêu nêu rõ là: “dạy cho người An Nam biết kính phục Chính phủ của nước
Cộng hoà Pháp và những người đại diện của họ”. Tờ thứ hai thì do F.H.Schneider
mà Phạm Quỳnh suy tôn là “ông tổ của báo chí Việt Nam” cho ra đời.
Cho đến thời điểm này trong cả nước, chỉ mới có
những tờ Gia Định báo, Phan Yên báo, Nhật trình Nam Kỳ và Nam Kỳ địa
phận xuất bản ở Nam Kỳ là có những tin và bài bằng tiếng Việt, ở Bắc Kỳ,
sau khi có tờ báo đầu tiên gần 15 năm, vẫn chỉ có những tin và bài bằng chữ
Pháp hoặc chữ Hán... Tất nhiên tình hình không thể dừng lại ở đây. Số người
biết chữ quốc ngữ càng ngày càng tăng.
Thế lực thực dân, cả bọn cầm quyền thống trị, cả bọn
kinh doanh đều cần thông tin và tuyên truyền trực tiếp với những tầng lớp người
Việt bằng tiếng Việt. Và có những tầng lớp người Việt đang vươn lên theo thời
thế cũng muôn kinh doanh và hoạt động bằng báo chí tiếng Việt. Trước xu thế đó,
chính quyền thực dân không thể không đề ra biện pháp nắm báo chí chặt hơn. Do
đó mà có sắc luật ngày 30/12/1898 của Chính phủ Pháp để ra những hạn chế cụ thể
và chặt chẽ đối với báo chí.
Thực ra những hạn chế nêu trong sắc luật 1898 không
phải là nghiệt ngã lắm đôí với những lực lượng đang dựa vào sự có mặt của chính
quyền Pháp mà xây dựng cơ đồ. Một số báo chí mới ra đời. Xu thế phát triển ở
Nam Kỳ vẫn có phần mạnh hơn. Năm 1901, một tờ báo tiếng Việt nữa ra đời là tờ Nông
cổ mín đàm do một tên thực dân Pháp trong Hội đồng quản hạt là Canavagie
lập ra. Sau đó tờ Nhật báo Tỉnh cũng là của một tên thực dân Pháp khác
và là bản dịch của một tờ báo chữ Pháp mà thôi (1905). Tiếp đó có tờ Lục
Tỉnh tân văn của F.H.Schneider (1907). Ở Bắc Kỳ, đến năm
1905 mới có những tin và bài báo tiếng Việt đầu tiên trên tờ Đại Việt tân báo xuất bản bằng cả chữ
Việt và chữ Hán song lại do một người Pháp là Ernest cầm đầu. Hai năm sau, tức
là vào năm 1907, tờ Đại Nam đồng văn
nhật báo đổi thành Đăng cổ tùng
báo cũng in bằng hai chữ Hán và Việt. Ngoài ra có tờ Trung Bắc tăn văn và tập tạp chí đầu
tiên là tập Đông Dương tạp chí
cũng bắt đầu xuất bản vào năm 1913. Tên trùm báo chí thực dân
F.H. Schneider cũng là kẻ kinh doanh cả ba tờ báo chí này. Hắn tập hợp những
trí thức theo Pháp như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, v.v. làm
chủ bút hay biên tập viên cho báo chí của hắn. Riêng Nguyễn Văn Vĩnh thì còn
xuất bản hai tờ bằng tiếng Pháp nữa, tức là tờ Notre journal (Tờ báo
chúng tôi) và tập Notre revue (Tạp chí chúng tôi) năm 1910. Ở Nam Kỳ, báo chữ Pháp cũng ra nhiều hơn. Trong đó, nổi hơn
cả và sống lâu hơn cả là tờ L' Opinion
(Dư luận) của Lucien Héloury, về sau là Chủ tịch Nghiệp đoàn Báo chí thuộc địa,
thành lập năm 1917.
Trong những năm diễn ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ
nhất, tên thực dân giảo quyệt Albert Sarraut, lúc bấy giờ làm Toàn quyền Đông
Dương, ráo riết thúc đẩy hoạt động báo chí nhằm huy động nhân lực, vật lực của
Đông Dương vào cuộc chiến tranh của Pháp, và nhằm đấu tranh với chủ nghĩa đế
quốc Đức trên mặt trận ngôn luận ở Viễn Đông. Đọc diễn văn khai mạc một cuộc
họp của Nghiệp đoàn Báo chí, hắn đã ca ngợi: “Một tờ
báo, một cây bút, quả là một sức mạnh phi thường!”. Do sức thúc
đẩy của Albert Sarraut, từ năm 1914 đến cuối năm 1918, trong cả nước, báo chí
xuất bản nhiều hơn. Nhất là ở Nam Kỳ có tờ báo tiếng Pháp La Tribune
indigène (Diễn đàn người bản xứ) ra năm 1917 và một loạt tờ báo tiếng Việt,
như: Tân đợi Thời báo, Công luận báo, Nam Trung nhật báo, Đại Việt Tạp chí,
Quốc dãn diễn đàn, Thời báo Đèn nhà Nam, và tờ Nữ giới chung là tờ báo phụ nữ đầu
tiên ở nước ta. Báo này xuất bản năm 1918 do một người Pháp tên
là Henri Blaquière quản lý và do nữ thi sĩ Sương
Nguyệt Anh, con của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu phụ trách việc biên tập.
Ở Bắc Kỳ, số báo mới xuất bản đáng chú ý có tờ Nam Phong và tờ Học
báo. Tờ sau này là một chuyên san về giáo dục do Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản
bằng hai thứ chữ Việt và Pháp. Còn tờ Nam Phong là một tờ tạp chí xuất bản
bằng hai thứ chữ Việt và Hán chủ yếu do Phạm Quỳnh (phần chữ Việt) và Nguyễn Bá
Trác (phần chữ Hán) trông coi công việc biên tập dưới sự điều
khiển và giám sát của bọn giữ địa vị chóp bu trong bộ máy cai trị thuộc địa,
như Toàn quyển Albert Sarraut, tên Chánh mật thám Louis Marty, v.v.. Cạnh tranh
kịch liệt với nhau, tờ Nam
Phong của Phạm Quỳnh và tờ Đông
Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh chiếm địa vị đàn anh trong hàng ngũ
báo chí đương thời ở Bắc Kỳ và cũng có nhiều ảnh hưởng đối với các tầng lớp bên
trên trong nước. Sống lâu hơn Đông Dương
tạp chí (1913-1918), tập Nam Phong (1917-1934) gần như lũng đoạn
được thị trường báo chí Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong mấy năm sau cuộc Chiến tranh
thê giới thứ nhất.
Cho đến đây, nghĩa là cho đến cuối
thời kỳ nói trên (1900-1918), báo chí xuất bản ở nước ta lúc đó đã có những
bước phát triển nhất định về thể loại, về hình thức, về tính đại biểu cho giới
này giới khác, ngành này ngành khác, v.v.. Dù sao, về tư tưởng
và chính trị báo chí nói chung đều là đề cao thanh danh, công đức và quyền lợi
của “đại Pháp” đối với triều đình phong kiến, thỉnh thoảng ở nơi này nơi khác,
trên một vài tờ báo Nam Kỳ chẳng hạn, đã có những lời phê phán, châm biếm, đả
kích ít nhiều. Nhưng lấy hệ tư tưởng và biểu hiện chung mà nói thì báo chí đều
là ca ngợi “đại Pháp”, hướng theo “đại Pháp” cả. Nghĩa là không có băn khoăn gì
về tình cảnh nước nhà bị xâm lược, dân tộc bị giày xéo, đoạ đày dưới ách bọn đế
quốc thực dân.
Một điều đáng chú ý nữa là, trên toàn bộ đất nước
chia làm ba kỳ, trong khi Nam Kỳ và Bắc Kỳ đã có mấy mươi tờ báo và tạp chí ra
đời đưa tin và bàn tán nhiều chuyện, thì Trung Kỳ, cả giữa kinh đô Huế, vẫn im
lìm, vẫn là một nơi hoang vắng.
Năm 1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga
bùng nổ và thắng lợi huy hoàng, mở ra thời đại mới hiện nay, mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử loài người. Quãng một năm sau, Chiến tranh thế giới
thứ nhất kết thúc. Một thế giới mới, thế giới xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình
thành và biểu hiện ngày càng rõ tư thế đối lập với thế giới cũ, tư bản chủ
nghĩa. Trên hướng tiến của lịch sử, xuất hiện từng bước những dòng thác của
cách mạng vô sản đi tới những mục tiêu độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
dưới ánh sáng rạng rỡ của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người chiến sĩ yêu nước Nguyễn Ái Quốc của dân tộc
Việt Nam, nhân dân Việt Nam năm 1911 ra đi tìm đường cứu nước, tới lúc này đã
đến với chủ nghĩa Lênin và vô cùng cảm động, vô cùng sung sướng nhìn ra chân lý
của thời đại, thấy rõ con đường thắng lợi của công cuộc giải phóng Tổ quốc,
giải phóng đồng bào.
Cũng từ nước Pháp, nhưng là nước Pháp của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, của Marcel Cachin, Vaillant -Couturier, Gaston
Mon Mousseau..., người cộng sản Việt Nam đầu tiên tìm đủ mọi cách đưa ánh sáng
ấy và con đường thắng lợi ấy về cho đất nước mình, nhân dân mình. Một trong
những cách tốt nhất, nhanh nhạy nhất là báo chí. Le Paria (Tiếng Ấn Độ dùng để chỉ đẳng cấp cùng khổ
nhất trong xã hội cũ, từ lâu, sách báo ta thường dịch là “người cùng khổ” và
gọi báo Le Paria là báo “Người
cùng khổ” nhưng trên báo Le Paria
thì có tên chữ Hán là “Lao động”), chưa phải là tờ báo Việt Nam của cách mạng
Việt Nam, nhưng đó là tiếng nói chung của sự nghiệp đấu tranh chung vì độc lập,
tự do của các dân tộc cùng khổ bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột, trong đó có
dân tộc Việt Nam. Cùng với một số báo chí vô sản và những tài
liệu bí mật khác, Le Paria vượt qua bao nhiêu rào luỹ đến với những
chiến sĩ tiên phong của nhân dân Việt Nam.
Trong khi đó, đất nước Việt Nam, xã hội Việt Nam
cũng đã có những sự thay đổi và những nhân tố mới để đón lấy ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, chân lý của thời đại, và con đường thắng lợi của cách mạng
vô sản. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), hoạt động tăng cường
kinh doanh tư bản chủ nghĩa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam đã đưa nó đến chỗ chính tự nó đẻ ra người
đào huyệt chôn nó ở Việt Nam:
giai cấp công nhân Việt Nam.
Cùng chung đau khổ, căm hờn với các giai cấp cần lao vì nước bị cướp mất, dân
tộc bị đoạ đày, những người thanh niên trí thức tiên tiến, dưới sự tác động của
Cách mạng Tháng Mười Nga, của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, và của
người lãnh tụ đưa đường chỉ lối từ phương trời xa, càng ngày càng tỏ ra thiết
tha và nhạy bén với trào lưu và xu thế cách mạng vô sản.
Một nét đáng chú ý nữa của tình hình thời kỳ này là
việc hai chí sĩ họ Phan về nước. Phan Bội Châu bị bắt tại Trung Quốc, đưa về xử
án tại Hà Nội rồi giam lỏng ở Huế. Phan Chu Trinh được đưa từ Pháp về Sài Gòn.
Vụ án Phan Bội Châu và tâm trạng Phan Chu Trinh đều kích động một thời khá mạnh
tinh thần yêu nước và tinh thần dân chủ trong một sô tầng lớp xã hội, nhất là
trong những thế hệ trẻ.
Mặt khác, trên lĩnh vực kinh tế, một số người đã đi vào những công cuộc
kinh doanh và bước đầu đã trở thành những nhà tư sản.
Đương nhiên, bè lũ thực dân cũng khá thính hơi để
nhận ra tình thế. Báo chí, một thứ phong vũ biểu chính trị - xã hội, tự giác
hoặc không tự giác, không thể không phản ánh ít nhiều những sự thật cơ bản như
trên. Và thái độ của chính quyền thuộc địa đối với báo chí cũng không thể không
biểu lộ quá rõ lập trường quan điểm của bọn thực dân xâm lược đối với những
diễn biến quan trọng của thời cuộc. Nhìn riêng vào báo chí có thể thấy một số
động thái mới đáng chú ý.
1. Trong các báo chí đã hoạt động từ trước, không ít
đã đình bản hẳn hoặc đã thay đổi bộ mặt. Trong các báo mới ra đời từ năm 1920
đến năm 1930, kể cả báo chữ Việt và báo chữ Pháp, có nhiều tờ, bằng tên gọi của
mình, đã tỏ dụng ý thu hút sự quan tâm của xã hội vào những lĩnh vực kinh doanh
kinh tế theo hướng đi lên chủ nghĩa tư bản, như Nam Kỳ Kinh tế báo, Điện xa
tạp chí, Canh nông luận... ở Nam Kỳ; Thực nghiệp dân báo, Nông công
thương báo, Thương báo... ở
Bắc Kỳ.
2. Một số tờ báo, bằng tên gọi của mình, đã tỏ dụng
ý nêu ra một lập trường chính trị nào đó không lẫn lộn với những báo khác và
cũng không phải là một đạo lý chung chung, như: Trung lập báo, Long giang
độc lập...
3. Thái độ tranh thủ lôi kéo thanh niên, phụ nữ biểu
hiện rõ hơn trước trên những tờ Việt Nam Thanh niên tạp chí, Thanh niên tăn
tiến, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm... Riêng về Việt Nam Thanh niên
tạp chí thì cần nói rõ ràng đó là một cơ quan của bọn cầm quyền nhằm đầu
độc tuổi trẻ nước ta. Báo đó có những cái “vinh dự” ghê gớm là do tên Thống sứ
Bắc Kỳ Monguillot và tên Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải làm chủ tịch, tên
chánh mật thám Đông Dương Louis Marty làm chủ tịch danh dự, tên thực dân Paul
Monet làm chủ nhiệm và lại được Hoàng đế Khải Định gửi tặng 1000 đồng khi nó ra
đời. Gần với dụng ý tranh thủ thanh niên, phụ nữ, người ta nhìn thấy sự đề cao
cái trẻ, cái “mới”, cái “sáng” đang lên. Giữa những cái tên biểu thị đạo lý
chung chung của những thời kỳ trước, có nhiều tên gọi biểu thị sự đề cao cái
trẻ, cái mới và cái sáng, như: Tân dân báo, Tân thê kỷ, Văn minh, Rạng đông
tạp chí, Đuốc nhà nam, Jeune Annam
(An Nam trẻ).
4. Còn có không ít báo chí mà tên gọi tự nó biểu thị
ý thức dân chủ theo một quan niệm nào đó, như Dân báo, Tân dân báo, Dân
hiệp, v.v.. Một nhân tố mới cần nói đến ồ đây là “xứ” Trung Kỳ sau nửa thế
kỷ mất nước không hề có một tờ báo nào, chỉ có thể đọc báo từ Nam Kỳ ra và từ
Bắc Kỳ vào, thì đến thời kỳ này đã có một tờ báo Việt Nam xuất bản đầu tiên ồ
Huế: tờ báo của chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, tờ Tiếng dân ra số đầu
ngày 10/8/1927 thường đăng các bài của Minh Viên (Huỳnh Thúc Kháng), của Sào
Nam hoặc Việt Điểu (Phan Bội Châu), của Trần Đình Phiên, Đào Duy Anh, Nguyễn
Quý Hương tức Lạc Nhân, v.v..
5. Sự phân ngành trong báo chí có phần đa dạng hơn
các thời kỳ trước. Ngoài những tờ báo và tạp chí thông tin thời sự chung và bàn
luận đạo lý chung như Hữu thanh, Khai hoá, Đông Pháp thời báo, An Nam tạp
chí, Pháp Việt nhất gia, Hà Thành ngọ báo, Thần kinh tạp chí, Quảng Đạt báo,
Thần chung và những báo địa phương - nhất là ở Trung Kỳ, những báo chuyên
riêng để phục vụ một ngành, một giới không còn quá lẻ loi nữa. Đáng kể là có
những tờ như Trung hoà nhật báo của Hội ái hữu Công giáo ở Nam Kỳ, Vệ
nông báo về nông nghiệp, Kịch trường tạp chí về sân khấu, Trung
Kỳ vệ sinh chỉ nam về y tế - vệ sinh, Du học báo về vấn đề sang Pháp
học tập, Mua và bán về thương mại, Học báo về giáo dục - học tập,
Sài Thành nhật báo về đua ngựa, v.v..
6. Về nghiệp vụ, cũng
nên chú ý đến một xu hướng cải cách tương đốì mạnh. Thể loại báo chí có tăng
phần nào so với trước kia. Lối văn quá nhiều điển tích và thành ngữ chữ Hán
cùng với lời văn biền ngẫu không còn được ưa thích lắm nữa, nhất là trong giới “tân
học”. Hoàng Tích Chu cùng với Phùng Tất Đắc xuất bản tại Hà Nội từ ngày 15/12/1929
tờ báo Đông Tây vừa đề ra và cổ
vũ sự đổi mới, vừa cố gắng làm mẫu cho người khác noi theo. Trên thực tế, mẫu “Đông Tây” cố ý cải cách cái “Đông”
cũ kỹ nhưng lại thường ngả sang cái “Tây” quá xa lạ. Dù sao sự cải cách đã có
những đóng góp nhất định cho sự thể hiện tính khoa học và tính dân tộc của văn
học báo chí nói riêng và cả của văn xuôi tiếng Việt nói chung.
7. Nổi bật lên trên tất cả là sự phân hoá của báo
chí về mặt tư tưởng và chính trị. Ở các thời kỳ trước, về mặt này không phải
không có những sự khác nhau. Chẳng hạn, báo chí của nhóm Nguyễn Văn Vĩnh và báo
chí của nhóm Phạm Quỳnh, hay là tờ Khai hoá nhật báo của nhóm Bạch Thái
Bưởi - Đỗ Thận và tờ Thực nghiệp dân báo của nhóm Bùi Huy Tín - Trần Văn
Quang thường vẫn đá nhau lộ liễu hoặc ngấm ngầm. Ở Nam Kỳ, báo chí của nhóm Bùi
Quang Chiêu và báo chí của nhóm Lê Quang Trinh cũng chống chọi nhau thường
xuyên. Cả bên trong bọn thực dân Pháp với nhau cũng có những phe phái dùng báo
chí đấu tranh với nhau. Nhưng nói chung, sự chống nhau giữa “trực trị” và “bảo
hộ”, giữa “quân chủ” và “quân chủ lập hiến” cũng như sự khác nhau giữa những
chính sách thuộc địa của nhóm Doumer và những chính sách thuộc địa của nhóm
Outrey, v.v., xét cho cùng đều biểu thị một tư tưởng và một lập trường chính
trị giống nhau là đề cao “đại Pháp”, bám chặt vào “Mẫu quốc đại Pháp”. Cho nên
tất cả các báo chí đó đều không vượt ra ngoài những sự hạn chế cơ bản do sắc
luật ngày 30/12/1898 của Chính phủ Pháp, hay là nói đúng hơn nữa, đều được “ngôn
luận tự do”. Riêng cái triều đình Huế, hay là cái Chính phủ Nam triều nếu thỉnh
thoảng có bị đả kích và xúc phạm vì quá cổ hủ hoặc quá tham nhũng thì “Nhà nước
bảo hộ” cũng chẳng có gì đáng lo nghĩ cho bản thân mình, mà trái lại có thể lợi
dụng để tỏ ân uy với vua và cả đức độ với “dân”. Bởi vậy, báo chí
các thời kỳ trước kia, nhìn chung lại, dù có những sự khác nhau nào đó trên
diễn đàn ngôn luận, chắng qua là thể hiện một cách tương đối đa dạng vai trò
làm công cụ và vũ khí của thế lực thông trị, của chủ nghĩa thực dân Pháp mà
thôi.
Sang thời kỳ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất,
hay là, nói cho chính xác tận gốc, sau khi lịch sử loài người đã bắt đầu chuyển
sang thời đại mới do Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra, sự phân hoá của báo chí
Việt Nam về tư tưởng và chính trị có ý nghĩa quan trọng hơn, đặc sắc hơn, hiện
ra dần dần dấu ấn của thời đại mới.
Có những người viết lịch sử báo chí vận dụng quan
điểm và phương pháp kinh điển của các nhà tư tưởng tư sản cũng đã thấy một sự
phân hoá mới và coi đây là sự phân hoá về hai loại báo chí “thân” và “chống”
đối với chính quyền, hoặc thành báo chí “thân chính quyền” và báo chí “đối lập”.
Loại “thân chính quyền” lại có thể chia thành “thân tuyệt đối” và “thân tương
đối”. Còn loại “đối lập” thì lại bao gồm “đối lập gay gắt” và “đối lập ôn hoà”.
Có thể coi đó là một sự phân định theo quan điểm pháp lý. Trên hiện tượng, chúng
ta cũng có thể sử dụng sự phân định ấy trong những chừng mực nhất định. Song đi
sâu vào bản chất lập trường tư tưởng và chính trị, chúng ta thấy thực sự không
giản đơn.
Theo sự phân định kinh điển và trên hiện tượng,
người ta thường xếp vào loại “đối lập” những tờ báo tiếng Việt: Nhật tân báo
của Lê Thành Tường rồi đến Cao Hải Để, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 4/1922 đến
tháng 7/1929; Tân Thế kỷ của Cao Văn Chánh và Bửu Đình xuất bản từ ngày
1/11/1926 đến ngày 30/4/1927 tại Sài Gòn, Rạng Đông tạp chí do người
Pháp Georges Mignon lập ra và do Trần Huy Liệu làm chủ bút, xuất bản tại Sài
Gòn năm 1926 (đến tháng 7/1927, chủ bút Trần Huy Liệu bị bắt, thì Tạp chí
Rạng Đông thay đổi màu sắc, trở thành “một tạp chí tranh ảnh cho giới
thượng lưu trí thức Annam”.); Tiếng dân của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng ra
đời ở Huế ngày 10/8/1927 và tiếp tục xuất bản cho đến năm 1943; Kỳ lân báo
của Bùi Ngọc Thự và Vân Trình, xuất bản ở Sài Gòn từ ngày 1/8/1928 đến giữa năm
1929.
Đuốc Nhà Nam của Dương Văn Giáo, xuất
bản tại Sài Gòn từ tháng 9/1928 đến năm 1937; Pháp Việt nhất gia của Lê
Thành Lư xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 2 đến tháng 5/1927; Thần chung của
Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 1/1929 đến tháng 3/1930;
và mấy tờ báo chữ Pháp: La Cloche fêlée (Tiếng chuông rè) của Nguyễn An
Ninh và Phan Văn Trường, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 12/1923 đến tháng 5/1926;
Annam của Phan Văn Trường, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 5/1926 đến
tháng 2/1928; Voix Annamite (Tiếng nói Annam) của Lê Thành Tường và
Huỳnh Văn Chính, xuất bản từ tháng 1/1923 đến năm 1925; Progrè Annamite
(Tiến bộ Annam) của Lê Quang Trình, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 3/1924 đến
năm 1939; Jeune Annam (Annam trẻ) của Lâm Châu Hiệp xuất bản tại Sài Gòn
từ tháng 3/1926; Nhà quê của Nguyễn Khánh Toàn, xuất bản tại Sài Gòn năm
1926; Ère nouvelle (Kỷ nguyên mới) của Cao Hải Để và Vũ Đình Di, xuất
bản tại Sài Gòn từ tháng 8/1926 đến tháng 6/1929; La Tribune Indochinoise
(Diễn đàn Đông Dương) của Bùi Quang Chiêu, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 8/1926
đến tháng 1/1941...
Ngoài ra, những báo chí xuất bản công khai và phát
hành công khai khác nói chung là thuộc loại “thân chính quyền”. Nói cho thật
đúng, không phải báo chí nào thuộc loại này cũng đều có lời tuyên bô’ hay là
đăng những bài nghị luận rõ ràng ca ngợi chính quyền hoặc ủng hộ các chủ trương
chính trị của nó. Nhiều nhà báo tỏ rõ thái độ không nói năng gì về chính trị mà
chỉ tuyên truyền về tôn giáo, đưa tin thi cử, tường thuật bóng đá, đua ngựa,
nói chuyện “du học” với các bạn trẻ, chuyện nữ công, nữ hạnh với các bà nội
trợ, chuyện kinh doanh với các nhà công nghiệp, thương nghiệp, v.v. cũng thường
được chính quyền yêu quý và giúp đỡ bằng nhiều cách.
Cái mới trong “làng báo” là việc xuất hiện những báo
chí đối lập. Yên tâm với báo chí “thân chính quyền” dưới mọi màu sắc, thế lực
thống trị tập trung mũi nhọn chuyên chính phản động vào báo chí “đối lập”. Cánh
kéo kiểm duyệt cắt bỏ từ một vài dòng đến cả cột, cả bài, hoặc cả trang và hơn
nữa. Các cơ quan tư pháp và hành chính phạt tiền, tịch thu báo chí, và cấm xuất
bản, phát hành. Gay gắt hơn nữa là những biện pháp khủng bố con người, cả người
ra báo, người viết báo và người đọc báo... Trong những nhà báo đầu tiên cùng với
Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Trần Huy Liệu... bị chính quyền thực dân bắt bớ,
hiện nay đang hoạt động trong hàng ngũ chúng ta có Nguyễn Khánh Toàn của báo Nhà
quê, một tờ báo ngay trong số đầu ra ngày 11/12/1926 đã kêu gọi: “... những
ai còn sinh lực, bầu máu nóng hãy tranh đấu để bẻ gãy xiềng xích nô lệ, để cho
con cháu chúng ta được trở thành công dân của một nước hùng mạnh và tự do...”.
Lý do truy tố của toà án là: “xúi giục nổi loạn, nghĩa là dùng những phương
tiện có thể phá hoại an ninh công cộng” (theo tường thuật của báo Ère
Nouvelle, số ra ngày 18/12/1926).
Tình trạng có sự đối lập giữa chính quyền và báo chí
chống chính quyền diễn ra ở Nam Kỳ nhiều hơn không phải chủ yếu là do ở Nam Kỳ
có sự đối lập chính trị nói chung chống lại chính quyền nhiều hơn, mà là do ở
Nam Kỳ, công việc ra báo dù sao cũng có những điều kiện thuận hơn về các mặt
kinh tế, xã hội và thể chế, luật lệ so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. về kinh tế là
điều kiện kỹ thuật ấn loát, phát hành... về xã hội và thể chế luật lệ là điều
kiện có tương đối nhiều người Pháp khác quan điểm với bọn cầm quyền, sẵn sàng
cộng tác với những người trí thức tân học Việt Nam để ra báo. Chính khả năng “lợi
dụng lẫn nhau” này đã thu hút nhiều nhà báo từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào Nam Kỳ
hoạt động và đã đưa đến hiện tượng báo chí công khai đối lập chiếm tỷ trọng lớn
hơn trong các báo chí xuất bản công khai bằng tiếng Pháp ở Nam Kỳ, Song, nói
đến báo chí đối lập chống lại chính quyền đương thời lại cần phải thấy tình
hình thực tế về hệ tư tưởng và hệ lập trường đấu tranh chính trị là không giản
đơn. Giới báo chí không phải là một tổ chức thuần nhất và thống nhất. “Đối lập
gay gắt” và “đối lập ôn hoà” là khác nhau. Giữa “đối lập ôn hoà” này và “đôì
lập ôn hoà” kia cũng như “đối lập gay gắt” kia với “đối lập gay gắt” nọ, thường
có sự khác nhau, thậm chí có cả sự đối lập và đốì lập gay gắt với nhau.
Xét cho cùng, sự phân hoá khách quan quyết định nhất
và sự phân biệt thái độ có tính nguyên tắc quan trọng nhất mà thực tiễn đấu
tranh chính trị - xã hội của loài người ở thời đại mới đòi hỏi thể hiện đúng
đắn là sự đối lập giữa các lực lượng cứu nước và các thế lực cướp nước và bán
nước, giữa giai cấp vô sản và đông đảo nhân dân lao động với giai cấp tư sản và
các thế lực áp bức bóc lột, giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với các hệ tư tưởng phản
động.
Trên toàn thế giới, kỷ nguyên mới, thời đại mới đã
toả ánh bình minh. Ba mục tiêu lớn của cách mạng vô sản - độc lập dân tộc, dân
chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội - càng ngày càng rõ. Nhằm vào các mục đích lớn
đó, ba dòng thác cách mạng, vượt qua bao nhiêu vật chướng ngại, tiến lên không
ngừng. Các nhân tố mới ấy tạo nên thế mạnh chung của thế giới mới chiến thắng
được sức ỳ và sức cản của thế giới cũ. Và đó là sự đối lập cơ bản nhất, quyết
định nhất của thời đại. Do tác động qua lại lẫn nhau giữa tình hình thế giới và
hoàn cảnh xã hội nước ta, giữa những nhân tố mới bên ngoài và những nhân tố mới
bên trong như đã trình bày trên kia, sự đối lập cơ bản nhất và quyết định nhất
trong nước ta ở thời kỳ này cũng tương ứng với sự đối lập lớn nhất, bao quát
nhất trên khắp năm châu. Người chiến sĩ tiên phong cứu nưóc trở thành người
cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền tảng và mở đường lối cho sự gặp nhau, sự kết
chặt với nhau giữa các nhân tố mới bên ngoài và các nhân tố mới bên trong đất
nước chúng ta, tạo nên một thế mạnh đối lập tất thắng chống lại các thế lực
cướp nước và bán nước, các thế lực thực dân, đế quốc, các hệ tư tưởng phản động
trong quãng mười năm thứ ba (1920-1930) của thế kỷ XX nói chung là do có chịu
những tác động nào đó của sự đối lập cơ bản nhất và quyết định nhất này ở một
mức độ nào đó và theo một chiều hướng nào đó mà ra. Nói như vậy không có nghĩa
là các báo chí công khai đối lập kể trên lúc bấy giờ đã là đại biểu cho thê
mạnh chung của các nhân tố mối trong xã hội chúng ta chống lại chính quyền phản
động. Cách mạng Tháng Mười Nga, ba dòng thác cách mạng thế giới và chủ nghĩa
Mác - Lênin có cổ vũ người này,
nhóm này, kích động người khác, nhóm khác. Do sức hấp dẫn ấy, người ta cảm thấy
có một thế vững mạnh và một tính ưu việt nào đó để phát huy trong khi đối địch
bằng ngôn luận với chính quyền. Nhưng trên thực tế, những báo chí và những nhà
báo công khai đối lập với chính quyền thực dân, phong kiến đương thời đều chưa
phải đã đi con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản thế
giới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin. Cả trong những người tiến bộ nhất
từ nước Pháp trở về, cũng không có ai nhìn thấy điểu kỳ diệu đã làm cho Nguyễn
Ái Quốc reo lên một mình: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Cho đến cuối những
năm 20, các báo chí công khai đối lập là đối lập trên lập trường dân tộc chủ
nghĩa (hồi đó gọi là quốc gia chủ nghĩa), trên lập trường dân chủ thuần tuý
(chính là dân chủ Pháp, Anh, Mỹ), hoặc trên lập trường của Quốc tế thứ hai và
thứ tư...
Điều mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy là do chính Nguyễn
Ái Quốc đưa về, từ Pari, từ Mátxcơva qua Pari, rồi từ Quảng Châu...
Đến đây, lịch sử đấu tranh cứu nước của dần tộc Việt
Nam
chuyển sang một chương mới, mở đầu bằng sự thành lập Đảng Cộng sản.
Đến đây, lịch sử báo chí Việt Nam cũng sang một
chương mới, đánh dấu bằng sự xuất hiện và sự hoạt động của một loại báo chí mới
thuộc một phạm trù mới, về cơ bản khác hẳn các loại báo chí đã từng xuất hiện
và hoạt động công khai ở những thời kỳ trước. Về lập trường giai cấp và hệ tư
tưởng, đây là báo chí vô sản Việt Nam, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin
trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của Tổ quốc Việt Nam và nhân
dân Việt Nam, vì thắng lợi chung của ba dòng thác cách mạng vô sản và của hoà
bình bền vững toàn thế giới.
Về phương thức xuất hiện và hoạt động, đây chủ yếu
là báo chí bí mật, dựa vào sức mạnh của nhân dân, sống trong lòng tin yêu của
nhân dân, kiên cường chiến đấu từ thời kỳ này sang thời kỳ khác cho đến Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi.
(Hết phần 1).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét