I. QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ THÀNH TỰU BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ
Hoạt động báo chí của Ngô Tất Tố trải rộng từ Bắc
vào Nam, trải dài theo thời gian gần hai mươi năm và phong phú trên hàng chục
tờ báo. Có thể hình dung quá trình hoạt động báo chí của Ngô Tất Tố như sau:
Thời kỳ 1926 -1929, đời viết báo của Ngô Tất
Tố bắt đầu năm 1926 khi ông cộng tác cùng với Tản Đà ở An Nam tạp chí.
Sau đó, ông vào Sài Gòn dự kiến viết cho An Nam tạp chí nhưng không
thành và ở lại viết cho Đông Pháp thời báo theo lời mời của Diệp Văn Kỳ,
phụ trách mục văn chương. Ông dịch các truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết
Trung Hoa. Trên Thần chung, Ngô Tất Tố viết chuyên luận, dịch thơ...
Thời kỳ 1930-1935, Ngô Tất Tố trở ra Hà Nội, viết
cho các tờ Phổ thông với chuyên mục Gặp đâu nói đấy: Đông Phương với chuyên mục Nói chơi; Thực
nghiệp dân báo với chuyên
mục Chuyện giữa giời; trên Công dân đăng nhiều kỳ phóng sự Dao
cầu thuyền tán và các tiểu phẩm, ký sự trên các báo khác như Ngọ báo,
Công luận, Đông Pháp, Đuốc nhà Nam..
Thời kỳ 1936-1939, thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ngô
Tất Tố viết và xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị. Tiểu phẩm Ngô Tất Tố đã trở
thành vũ khí sắc bén vạch mặt bọn thực dân, phong kiến tay sai và lên tiếng
bênh vực người nông dân nghèo khổ. Truyện Một ổ chó và một đứa con được
đăng lần đầu trên Tương lai năm 1936 và Việt nữ năm 1937 đăng
toàn truyện Tắt đèn. Truyện lịch sử Vua Tây chúa Nguyễn, tiểu
thuyết dã sử Trong rừng Nho được in trên Tiểu thuyết thứ Ba. Ông
viết nhiều trên Thời vụ báo năm 1938-1939 với các chuyên mục Gặp đâu
nói đấy, Thật hay bỡn, Làng tôi, Đời dân quê, Thời sự, Quốc tế...; trên báo
Tương lai với chuyên mục Nói mà chơi; trên báo Con ong là
chuyên mục Ném bùn sang ao. Đây cũng là thời kỳ Ngô Tất Tố viết tiểu
thuyết Lều chõng, phóng sự Tập án cái đình, Làm no hay cái ăn trong
những ngày nước ngập, bài phê bình Đã đến lúc phải phê bình lại bộ Nho
giáo của Trần Trọng Kim và những ký sự, truyện ngắn, chân dung văn học...
Thời kỳ 1940-1945, số lượng các bài báo của Ngô Tất
Tố chiếm khối lượng lớn, khoảng 50% trên tổng số tác phẩm báo chí của ông, chủ
yếu trên tờ Đông Pháp. Với Đông Pháp, Ngô Tất Tố xuất hiện đều
đặn với chuyên mục Chuyện hàng ngày và các truyện dài (dịch): Bóng Lê
tàn tức Hoàng Lê nhất thống chí, Một đêm đầu bạc, Tiếng tiêu đỉnh núi;
trên Trung Bắc Chủ nhật với chuyên mục Thơ và Tình; phóng sự Việc
làng trước khi in thành sách được đăng trên Hà Nội tân văn.
Thời kỳ 1945-1954, sau khi tham gia Cách mạng tháng
Tám ở quê, ông nhanh chóng hòa nhập vào đội ngũ văn nghệ sĩ phục vụ cách mạng.
Từ năm 1947 đến 1954, trên chiến khu Việt Bắc Ngô Tất Tố viết cho tập san Văn
nghệ, báo Cứu Quốc, Cứu quốc Thủ đô, Cứu quốc khu XII, Thông tin khu XII
với các tác phẩm Quà Tết bộ đội, Buổi chợ Trung du, Gửi bạn, Vĩnh Thuỵ ca,
vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác.
Ngô Tất Tố đã cộng tác và viết bài cho 27 tờ báo,
tạp chí: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần Chung, Phổ thông, Ngọ báo,
Công luận, Đuốc nhà Nam, Thực nghiệp dân báo, Đông Phương, Công
dân, Tương lai, Tiểu thuyết thứ ba, Tao đàn, Việt Nữ, Con ong, Đông Pháp, Thời
vụ, Hà Nội tân văn, Trung Bắc Chủ nhật, Trung Bắc tân văn, Ngày mai, Tri tân,
Văn nghệ, Cứu quốc, Cứu quốc Thủ đô, Cứu quốc khu XII, Thông tin khu XII... với hàng chục bút danh là: Thiết
Khẩu Nhi, Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Tuệ Nhỡn, Đạm Hiên, Thuyết
Hải, Xuân Trào, Dân Chơi, Cối Giang, Hy Cừ, Ngô Tất Tố và một số bút danh mới
được ông Cao Đắc Điểm phát hiện như: Tống Lang Ngô Tất Tố, Tống Lang, Lộc Hà
Ngô Tất Tố, Kim Ngô, Ngoan Tiên cùng những bút danh viết tắt từ tên chính là T,
T.T, N.T.T, Ng. T.T, Ng.t.T và những bút danh viết tắt từ Xuân Trào, Thuyết
Hải, Hy Cừ là X.T, T.H, H.C. Một số bút danh xếp vào loại tồn nghi, chủ yếu trên
Đông Pháp như: TH.H, Chàng Nam, Chàng Quy, Thần Phong, Tiên Dung, X, Z. Theo Vũ Bằng, Ngô Tất Tố còn có bút danh X.Y.Z và A.B.C. Những chuyên mục chính
mà nhà báo Ngô Tất Tố đã giữ trên các báo là: Chuyện hàng ngày, Nói
mà chơi, Nói chơi, Gặp đâu nói đấy, Thật hay bỡn, Nói hay đừng, Ném bùn sang
ao, Đời dân quê, Chuyện làng tôi, Thơ và Tình...
Thời kỳ Ngô Tất Tố viết cho Đông Pháp thời báo
trong những năm 1927-1928 ở Sài Gòn trên 100 bài, Báo Thời vụ, Hà Nội
năm 1938-1939 là gần 300 bài, Báo Đông Pháp những năm từ 1940-1945, Ngô
Tất Tố viết gần 700 bài. Tổng cộng hơn một ngàn ba trăm tác phẩm báo chí gổm
nhiều thể loại và trên nhiều tờ báo trong đời làm báo của ông. Trong hai năm
1939-1940, cùng lúc Ngô Tất Tố viết cho 6 tờ báo và cho ra đời nhiều sáng tác ở
các thể loại khác.
Thành tựu báo chí của Ngô Tất Tố không chỉ thể hiện
ở những con số ấn tượng mà hơn hết, thể hiện ở những giá trị đặc sắc trong nội
dung cũng như nghệ thuật báo chí.
II. NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC TRONG BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ
1. Bản lĩnh
của ngòi bút báo chí Ngô Tất Tố
Có thể nói, tính chiến đấu là đặc điểm nổi bật của
ngòi bút Ngô Tất Tố, một ngòi bút không sợ mọi áp lực và cường quyền, một ngòi
bút kiên cường bảo vệ những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nhà báo Ngô Tất Tố
sống và viết trong điều kiện hết sức khó
khăn dưới chế độ thực dân phong kiến, một chế độ mất dân chủ tước đoạt quyền tự
do của người viết. Nhiều tờ báo bị đóng cửa vì không phục tùng những đường lối
của giai cấp thống trị, nhiều nhà báo bị tù đày, phạt tiền, treo bút vì dám
viết trái ý với những luật lệ thiếu công bằng của xã hội. Ngô Tất Tố đã vượt
qua mọi trở lực và những bài báo của tác giả là những mũi nhọn châm biếm đả
kích trực diện vào chế độ thực dân phong kiến. Ngô Tất Tố đã hiểu bản chất, bộ
mặt thật của những tên thực dân, từ toàn quyền, thống sứ, công sứ đến những
loại Tây đoan mạt hạng và tác giả tiến hành một sự phê phán có hiệu quả, vừa
mạnh mẽ, vừa uyển chuyển linh hoạt, đòn thấm đau nhưng đối phương cũng khó phản
kích lại. Ngô Tất Tố đã phê phán trực diện chế độ thực dân tàn ác và hành động
của từng cá thể mà mọi người thường gọi là “ông Tây”.
Trong các tiểu phẩm báo chí, Ngô Tất Tố cũng đề cập
đến nạn thuế khóa nặng nề nhưng dường như ông dành những chuyện thuế khoá cho
một tác phẩm có tầm cỡ, có tiếng nói phản kháng mạnh mẽ hơn đó là tiểu thuyết Tắt
đèn. Ngô Tất Tố bằng ngòi bút châm biếm đã khai thác những xung đột một
cách quyết liệt, mạnh mẽ, những bi kịch, những thảm trạng, tố cáo những tội ác
của bọn cường hào hương lý ở thôn quê.
2. Sự cảm
thương và nỗi khổ của người dân quê
Ngô Tất Tố là nhà văn của nông thôn, ông sống giữa
làng quê gần gũi gắn bó với người nông dân gia đình vợ con đều là nông dân và
những trang sách báo ông viết ra phần lớn đều giành cho nông dân. Những bài báo
Ngô Tất Tố viết về làng quê không chỉ là sự phản ánh nỗi khổ của người nông
dân, những bất công ở nông thôn, bộ mặt xấu xa của bọn cường hào lý dịch mà
thực chất là những lời tố cáo, những luận chiến để bảo vệ chính nghĩa. Trên báo
Thời vụ những năm 1938-1939, với các chuyên mục Làng tôi, Đời dân
quê, Ngô Tất Tố đã viết hàng chục bài báo về thực trạng thôn quê, về những
câu chuyện sau lũy tre, về chính sách của nhà nước đối với nông thôn....
Tất cả những bài báo đều có những nội dung xã hội
phong phú, có căn cứ thực tế và có tính thuyết phục nhằm tiến công vào chế độ
thực dân phong kiến. Ngòi bút dũng cảm giàu khí phách, đả kích mạnh mẽ, châm
biếm sắc sảo, thâm thúy cộng với
những cuốn tiểu thuyết có giá trị về làng quê đã đưa ông lên vị trí số một của những nhà
văn, nhà báo viết về nông thôn Việt Nam.
3. Ý thức bảo
vệ những giá trị văn hóa dân tộc và tinh thần phê phán hủ tục
Báo chí Ngô Tất Tố không thu hẹp trong phạm vi của
nông thôn mà còn mở ra đến những vấn đề của sinh hoạt thành thị, của những hoạt
động văn hóa đương thời. Nhà Nho Ngô Tất Tố trong các tiểu phẩm báo chí đã có ý
thức bảo vệ những giá trị văn hoá truyền thống. Ông không phải là người thủ cựu
mà hiểu rõ những quy luật đổi thay của xã hội và ông chấp nhận những tiến bộ
văn minh của đời sống. Ngay cách lựa chọn đề tài, triển khai câu chuyện, miêu
tả nhân vật, vận dụng ngôn từ nhiều lúc mang tính chất hiện đại của những cây
bút đang sung sức, đang hòa nhập với xã hội.
Những vấn đề về giá trị tinh thần của truyền thống
dân tộc ở nông thôn được Ngô Tất Tố đề cập đến trong nhiều loại hình sáng tác,
tiểu phẩm truyện ký, tiểu thuyết. Tác giả đã phê phán những bất công trong đời
sống xã hội, người dân bị tước đoạt nhân quyền, các giá trị tinh thần ở làng
quê hao mòn tổn hại, nông thôn mất dần đi nhiều nét đẹp xưa, phần vì những tệ
nạn xã hội phát triển, phần vì đời sống người nông dân ngày càng nghèo khổ
không vượt lên được những cảnh ngộ đau khổ của riêng mình.
Với môi trường thành thị, Ngô Tất Tố đã chỉ ra
những trò lố lăng, những chuyện sai trái, những tệ nạn của một bọn người hoạt
động về báo chí, về văn học nhưng không góp phần vào việc phát triển về đạo
đức, xây dựng nề nếp và những đạo lý tốt đẹp cho xã hội. Ngô Tất Tố cũng phê
phán một số tệ nạn xã hội như trò đồng bóng mê tín, nạn lang băm hành
nghề... những vấn đề đặt ra không nhiều, không thuần tuý là ghi chép mà nặng về
tranh luận và phê phán.
4. Bút pháp
nghệ thuật báo chí Ngô Tất Tố
Báo chí Ngô Tất Tố được khơi nguổn từ những vấn đề
quan trọng nhất trong đời sống chính trị xã hội mà người viết đã biết chọn lọc
khai thác có hiệu quả và góp phần giải quyết đúng phương hướng và quy luật phát
triển của xã hội. Khơi nguồn và bồi đắp cho những bài viết là vốn
văn hóa dân tộc, văn hoá của phương Đông giàu có của tác giả. Qua các bài báo
Ngô Tất Tố luôn vận dụng sáng tạo vốn văn
học truyền thống của dân tộc từ ca dao tục ngữ cho đến những tác phẩm cổ điển như Truyện
Kiều, Cung oán ngâm khúc, những liên hệ so sánh đều thích hợp, chính xác và
sáng tạo. Ngoài vốn văn học được vận dụng trong những tác phẩm báo chí Ngô Tất
Tố đã khai thác và vận dụng có hiệu quả những chuyện cổ của phương Đông về
triết học, đạo đức luân lý.
Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố còn được thể hiện thành thục với một thi
pháp và phong cách sáng tạo có hiệu quả về mặt nghệ thuật. Người ta thường nhắc
đến như một hiện tượng sóng đôi, gần gũi và bù đắp cho nhau của tiểu phẩm báo
chí Ngô Tất Tố và tiểu phẩm văn học, nhiều lúc rất khó phân biệt đâu là tiểu
phẩm văn học đâu là báo chí.
Sắc sảo và thời sự, tính chính luận chặt chẽ kết
hợp với sự hài hước châm biếm thâm thúy, điều này thể hiện ở hầu hết các tiểu
phẩm in trên báo chí của nhà văn Ngô Tất Tố. Ngô Tất Tố không chỉ dừng lại
trong các bài báo, tiểu phẩm ở sự chuyển tải thông tin thuần tuý chính xác mà
ông còn là cây bút dũng cảm, mũi nhọn, trung thực và thẳng thắn kiên quyết
chống lại những bất công ngang trái của xã hội. Ngôn ngữ trong các tiểu phẩm
văn học và báo chí của Ngô Tất Tố luôn thể hiện thái độ dũng cảm, thẳng thắn
của ngòi bút.
Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố thường nói về việc thật,
người thật mà rất ít khi dùng tính phiếm chỉ. Nghệ thuật so sánh thường
được Ngô Tất Tố dùng trong các bài báo để xây dựng lên những hình tượng độc
đáo, hấp dẫn.Vốn ngôn ngữ dân gian như các thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động được Ngô
Tất Tố sử dụng một cách linh hoạt trong sáng tác.
*
Ngô Tất Tố đã tạo dựng cho mình một sự nghiệp sáng
tác báo chí phong phú, đổ sộ. Gần hai mươi năm viết báo, ông đã viết hàng trăm
tiểu phẩm, nếu tính số lượng tất cả các bài in báo con số còn lớn hơn rất
nhiều. Những bài báo có hệ thống gắn với thực tế đời sống, đề xuất những vấn đề
cấp bách, hệ trọng của đời sống xã hội. Trong hoạt động báo chí, Ngô Tất Tố đã
thể hiện rất rõ bản lĩnh, tri thức và tài năng của môt nhà báo
xuất sắc. Quan điểm báo chí của Ngô Tất Tố là những luận điểm có tính chất lý
luận sâu sắc về báo chí nhưng không phải là những điều cao xa có tính chất sách
vở mà là những đúc rút từ thực tiễn, kinh nghiệm làm báo của ông: nhà
báo phải trung thực, sát thực với cuộc sống, có trách nhiệm, đạo đức với công
việc cũng như phải có tri thức, văn hóa; hoạt động báo chí phải hướng tới sự
chuyên nghiệp; mỗi tờ báo phải có tôn chỉ, mục đích, quan điểm rõ ràng; sự tôn
trọng độc giả, coi độc giả là thước đo, đánh giá giá trị của tờ báo... Ngày
nay, quan điểm báo chí của Ngô Tất Tố vẫn phù hợp và có giá trị, nhất là đối
với báo chí trong nền kinh tế' thị trường, những điều ông đề cập càng có ý
nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Với tất cả những giá trị đó, có thể
khẳng định Ngô Tất Tố là một nhà báo lớn của thế kỷ XX.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét