Trong suốt 17 năm tồn tại
(1917 – 1934) với 210 số, Nam Phong tạp chí đã giành một dung lượng
không nhỏ để đăng tải các bài viết biên khảo, dịch thuật liên quan
tới Nho học nói chung và Nho học Việt Nam nói riêng, ở cả phần chữ
Hán (do Nguyễn Bá Trác chủ bút) và chữ Quốc ngữ (do Phạm Quỳnh chủ
bút). Ta có thể tạm phân chia nội dung Nho học trên Nam Phong
tạp chí thành sáu mảng:
1. Khảo luận về triết học
tư tưởng Khổng Mạnh và Nho giáo (gồm các bài chuyên khảo của học
giả Việt Nam và dịch thuật các bài viết của học giả người Pháp,
Nhật và Trung Quốc).
2. Truyện ký về Khổng Tử
và các danh Nho Trung Quốc, Việt Nam. 3. Khảo luận về vấn đề nhà Nho
Việt Nam đầu thế kỷ XX. 4. Khảo về giáo dục Khoa cử Nho học.
5. Phiên dịch kinh điển Nho
gia (gồm Luận ngữ (một phần), Mạnh
tử (toàn văn)và Xuân thu Tả truyện (một phần), cùng các cách ngôn danh cú tuyển chọn từ thư
tịch cổ). 6. Phiên dịch trước tác văn chương của các nhà Nho.
Có thể thấy, Nam
Phong tạp chí là một bộ tư liệu quý trong số các công
trình nghiên cứu, biên khảo của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX
nghiên cứu về Nho học, cần được chúng ta đặc biệt chú ý. Bởi lẽ
các bài viết của tạp chí này mang nhiều yếu tố mới mẻ trong việc
phản tư, nhìn nhận lại địa vị, vai trò, cùng sự ảnh hưởng của Nho
học và nhà Nho truyền thống đối với nền học thuật và xã hội Việt
Nam hiện đại. Trong bài viết này, chúng tôi hướng đến tìm hiểu một
số bài viết liên quan đến nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX, thuộc một
trong sáu mảng nội dung nói trên. Đây là vấn đề mang đậm tính thời
sự, được giới trí thức Nam Phong quan tâm bàn luận. Trong giai đoạn
bản lề lịch sử đầy biến động, trí thức Nam Phong đã tiến hành phân
tích hiện trạng của tầng lớp nhà Nho Việt Nam trong cuộc đại khủng
hoảng, suy cứu nguyên nhân thất bại, đồng thời họ đã tiến hành đánh
giá lại vai trò, vị thế của nhà Nho xưa nay, để nhằm đưa ra giải
pháp vãn hồi tình thế, tìm kiếm một lối thoát cho các nhà Nho khỏi
cơn bĩ cực. Do dung lượng có hạn, nên trong bài viết này, chúng tôi
mới chỉ tập trung tìm hiểu các bài viết trực tiếp bàn về vấn đề
nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX thuộc phần Quốc ngữ của Nam
Phong tạp chí, cụ thể gồm 5 bài viết: 1. Mấy
lời trung cáo với các bạn nhà Nho, nguyên tác Hán văn của
Nguyễn Bá Trác, Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch ra Quốc ngữ, số 51,
tháng 9 năm 1921; 2. Học phong và sĩ khí của Phạm Quỳnh, số 79, tháng 1 năm 1924; Nhà
Nho có lẽ chịu sầu của Trúc Hà, số 130, tháng 6 năm 1928; Nhà Nho của Phạm Quỳnh, số 172, tháng 5 năm 1932; Phái
nhà Nho khoảng 30 năm nay đối với sự học cũ của Phạm Quỳnh, số 195, tháng 5 năm 1934. Hy
vọng bài viết có thể đóng góp một tiếng nói nhỏ cho những ai cùng
chung vấn đề quan tâm.
1. Hiện trạng
nhà Nho Việt Nam trong
buối giao thời đầu thế kỷ XX dưới ngòi bút của Nam
Phong tạp chí
Chúng ta biết, năm 1915 (Duy
Tân 9) và năm 1918 (Khải Định 3), Bắc kỳ và Trung kỳ lần lượt diễn ra
hai khoa thi Hương cuối cùng. Và đến năm 1919, (Khải Định 4), triều đình
tổ chức khoa thi Hội cuối cùng trong lịch sử Việt Nam,
và cũng là kỳ thi cuối cùng trong lịch sử khoa cử hơn 800 năm của Việt Nam. Sự kiện
chấm dứt khoa cử này được ban hành theo chỉ dụ của vua Khải Định vào ngày
4/11/1918. Khoa cử chấm dứt cũng đồng thời đánh dấu sự suy tàn và chấm
hết của ý thức hệ Nho giáo tồn tại ở Việt Nam hơn 1000 năm. Sự cáo
chung của Nho giáo truyền thống, cùng sự du nhập văn minh Tây phương
vào Việt Nam trong buổi “giáp hạt”[2]đầu thế kỷ XX, đã khiến học giới nước ta lâm vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng. Cựu học đang trong giai đoạn suy tàn,
phải hứng chịu những búa rìu phê phán hết sức nặng nề từ phái Tân
học. Trong quan niệm của Tân học, Cựu học chỉ là “thứ
giây ác nghiệp để buộc trói thiên hạ trong vòng chuyên chế”[3], hay chỉ là một thứ học
thuyết “hủ lậu”, đáng bị phỉ báng. Trong đám Tân học ấy, có những
kẻ thậm chí “vừa nhào được trong cái hình thức tân học
thì đã quay đầu thóa mạ cựu học”. Còn Hán văn thì bị coi
là “cái văn tự vô dụng”. Trong bối cảnh đó, số phận của phần lớn tầng
lớp nhà Nho – vốn là những “giáo sĩ truyền đạo Khổng Mạnh”, là một “giai cấp trong xã hội, tức là hạng
thượng lưu trí thức trong nước”, vốn giữ một chức vụ cao
quý làm “hướng đạo cho quốc dân, làm tiêu biểu cho cả
nước” trong xã hội Việt Nam, phải gánh một số phận nghiệt ngã,
bế tắc, đứng trước bờ vực diệt vong. Thậm chí, nhà Nho đã
phải chịu mang tiếng “làm mất nước” như có
người từng kết án. Mở đầu bài viết Mấy
lời trung cáo với các bạn nhà Nho[4], Nguyễn Bá Trác đã ngậm
ngùi than cho tình cảnh của lớp nhà Nho Việt Nam trong buổi cáo chung
của Nho giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX rằng: “Than ôi, bạn
nhà Nho ta bấy lâu dùi mài kinh sử, chất bằng kim thạch, con nhà
thánh hiền có đâu đến nỗi lông bông hư hỏng bao giờ; chẳng may gặp
phải thời buổi gạn lọc, cái đời ao nghiên ruộng sách của anh đồ, đã
là cái đời gác đi, chẳng những cái địa vị ăn sung mặc sướng trên xã
hội chẳng đến mình, thậm chí cái đường tìm vành ấm no, cũng vì
buôn trái nghề bán trái nghiệp, thợ chẳng hay, cầy chẳng biết, dở
dở dang dang mà phải chịu thu tay bó gối, ngày nay trông thấy đã
nhiều”. Và ông nhận định rằng: “Cứ cái
tình thế hiện nay xem ra thì phàm những phái nhà Nho, và những phái
không phải nhà Nho chăng nữa, trông thấy cơ mần thất bại ấy, ai chẳng
bảo là cái hồi ách vận, cái cuộc bi quan của phái nhà Nho, nhà Nho
vì thế mà tủi phận hờn duyên, mà người ngoài cũng vì thế mà thương
vay khóc mướn”.[5] Ông thấy các nhà Nho hiện
thời: “Bao nhiêu học vấn, bao nhiêu kiến thức thủa bình sinh
của nhà Nho, tự khi khoa cửa đã bỏ đi rồi, phàm những người có tâm
với Hán học thì chẳng qua chỉ thở ngắn than dài, viết ra bài phú
thương thời, hát lên câu thơ cảm sự đó thôi; nếu chẳng thế, thì lại
cho đời mình là cái đời bỏ đi có làm chi nữa, thà rằng ngao du tiêu
khiển, thôi dũng đành dứt tình với đời Hán học rủ nhau cùng về đến
cõi hư không đấy thôi; lục kinh còn hay mất, chẳng hỏi chi nữa; đạo
đức hay hay dở, chẳng kể chi nữa”.[6] Còn Phạm Quỳnh nhận
xét: “Nhà Nho có lẽ đến nay là cùng vận. Con nhà Nho bây giờ
là cái vật trái mùa, còn ai là người quý chuộng. Dẫu còn thoi thóp
dăm ba kẻ, cũng tự mình không tin mình rồi, còn mong gì kẻ khác
trọng nữa”.[7] Nguyễn Bá Trác thì cho
rằng phái Hán học “ngày nay đã thuộc về thời kỳ trở về già
sắp sửa hết duyên, lại còn cắm sào đợi ai nữa?”, và hiện
giờ quang cảnh của phái đó chỉ là “ một sợi tơ mành vắt
ngang trời đất”, hay là “một sợi tóc rong với quả
chì”[8] mà thôi.
Còn Nguyễn Đôn Phục đã tổng kết thân phận của nhà Nho Việt Nam trong
khoảng 30 năm đầu thế kỷ rẳng họ phải “trải đủ mọi đường
vinh nhục thăng trầm”, và ông đoán biết rằng “phái nhà
Nho tự nay trở đi, như ông sao lúc gần sáng, chắc là ít dần đi”. Trong
con mắt của thanh niên đương thời, nhà Nho được Nam Phong tạp
chí miêu tả như sau: “Kể về tư cách thì là một bọn
hủ Nho sốc nổi, kể về tài tình thì chỉ biết chiều lụy người trên,
hách dịch kẻ dưới, mà nói về học thức thì có gì đâu, ngày như đêm,
đêm như ngày, gào chữ như quốc, dùi sách như mọt, để mưu lấy cái
chức vị trong triều đình, và khi đã đạt đến cái mục đích ấy rồi,
thế là toại chí thỏa lòng, không còn hoài vọng gì cao xa hơn nữa.”[9] Người đương thời tân tiến
khinh rẻ nhà Nho như vậy, còn bản thân nhà Nho trong cái “hồi
ách vận, cái buổi bi quan” ấy cũng mang nặng một tâm lý bất
đắc chí, “tự rẻ rúng mình” mà “tủi phận hờn
duyên”, đành ngao ngán cam chịu một bề “thu tay bó
gối”. Trước sự thoái trào của Cựu học, Nguyễn Đôn Phục thừa
nhận đó là xu thế tất yếu của thời đại: “Đối với con
đường cũ, đã thuộc về cái thời thế nó áp bách, chẳng phải
đợi ai phá hoại mà đã có thế tiêu hao”.[10] Tuy nhiên, theo Phạm
Quỳnh, ngoài vấn đề thời thế, nguyên nhân“bày ra cái cảnh tượng
điêu tàn như bây giờ”, cũng thuộc về trách nhiệm của nhà
Nho: “Tựu trung bởi thời thế không lợi cũng có mà bởi nhà Nho
tự khinh phần nhiều vậy”. Ca dao xưa có câu: “Chẳng ham
ruộng cả ao liền, ham về cái bút cái nghiên anh đồ”, hay “Chẳng
ham vựa lúa anh đầy, ham ba hàng chữ cho tầy thế gian”, thì
tới nay, chúng ta thấy, cái thủa vàng son “ao nghiên, ruộng sách” của
“anh đồ” Việt Nam đang lùi xa dần vào quá khứ.
Trước bối cảnh đó, thế hệ
nhà Nho “thất thế” của Việt Nam đầu thế kỷ XX, đang từng bước phân
hóa, chuyển đổi thành những thành phần khác nhau. Sự phân loại,
mô tả, bình giá tầng lớp nhà Nho thời kỳ này trên Nam Phong
tạp chí, có thể giúp ta biết hơn về hiện trạng
của nhà Nho, cũng như thái độ của giới trí thức cấp tiến đối với
nhà Nho Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, trong bài Nhà
Nho có lẽ chịu sầu?, Trúc Hà đã phân chia lớp
nhà Nho đang tách thành “ba bè bảy đảng”thành hai nhóm chính sau: “Ngày nay đã chia ra
ba bè bảy đảng, có đảng chứa chan những hy vọng cao xa, đương hăng hái
trên con đường tân học” và “có đảng
còn đang yên vị trong nho trường mà than dài, mà thở vắn”.Đối với lớp trước thì ông khen ngợi “có cái
tâm chí cao thượng ấy, thật đáng kính phục thay”. Còn đối với lớp sau, ông bày tỏ “nghĩ cũng
ái ngại xót xa thay”.[11]
Thứ hai, trong bài Phái
nhà Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ, Nguyễn Đôn Phục đã tiến hành tổng kết và phân chia nhà
Nho thành 3 phái: phái duy tân, phái lười biếng, bạc nhược và phái a
dua. Đồng thời, tác giả đã tiến hành phân tích, bình luận về ba
phái nhà Nho này:
1. Phái duy tân: “Phái
này thì nhờ về cái tinh hoa của Khổng giáo, biết đạo minh đức, biết
nghĩa tùy thời. Kịp khi gặp có phong trào duy tân của Trung Quốc,
tỉnh ngộ ra rằng lối khoa cử là hủ bại, không đủ ứng tiếp với thời
đại đua chen, cực lực hô hào công kích lối cũ, hoan nghênh lối mới,
để làm tai làm mắt, hướng đạo cho quốc dân. Cuốn sách họ Khang họ
Lương chẳng khác gì cuốn kinh nhật tụng, hai chữ duy tân chẳng khác
gì hai chữ thần thánh”. Ông ca ngợi phái này “thực
cũng có can đảm đứng giữa trần ai, không bị sóng gió của thời thế
cuốn đi, mà dám tự tin rằng mười lăm năm về trước hễ người nào nói
được chữ duy tân là thánh nhân chi đồ; mười lăm năm về sau hễ người
nào nói được chữ thủ cựu là thánh nhân chi đồ vậy”. Tuy nhiên, nhược điểm của phái duy tân này là bởi sự cực
đoan: “Nhất thiết lối học cũ đều cho là hủ bại hay là
nhi hí. Thậm chí có danh từ là thủ cựu quỉ để chê những kẻ nhà Nho
không biết duy tân. Trong khi hô hào đó không khỏi có lời thiên lệch
quá đáng, nhưng lạ gì uốn cong thì phải quá thẳng, cũng không trách
gì những kẻ nhà Nho bấy giờ”. Và cái kết quả duy tân mà
phái nhà Nho này nhận được có lẽ trái với mong muốn của họ: “Trong
khi khuynh hướng về đường tân đó, tiếp thụ được cái tinh thần thì
phần ít, cúi nhặt được cái vỏ cặn thì phần nhiều, những trò nực
cười của xã hội, mới hằng ngày diễn ra, khiến cho chữ tân cũng ít
có giá trị gì nữa. Trước kia vẫn tưởng phái thủ cựu là hủ bại,
ngờ đâu ngày nay phái duy tân hủ bại hoặc lại có phần hơn”.Song tác giả cũng khẳng định: “Đó là cái thông
tệ của thời đại cải cách mới cũ giao nhau”. Đồng thời, ông nói:“Phái nhà Nho ấy biết rằng
cái thời đại tự khoảng hai mươi năm nay là đã thuộc về thời đại
nghiên cứu, thời đại lo toan, thời đại vãn hồi, thời đại kiến thiết,
không phải là thời đại hô hào, thời đại phá hoại như hai mươi năm về
trước nữa”. Vì tình thế thời cục đã thay đổi, phái
nhà Nho duy tân “nên chi phải châm chước tình thế mà thay
đổi phương châm. Đối với phương diện mới thì phải để lòng suy xét,
đối với tinh túy cũ thì phải hết sức bảo tồn, một bước không dám
tiến liều, một lời không dám cẩu thả. Ngày trước nói duy tân, ngày
nay nói thủ cựu, trước sau là một người mà chủ nghĩa không trái
ngược nhau gì cả; vì như thế mới là chủ nghĩa cứu thời cứu thế,
mới là con người không phụ quốc dân”. Đó là lời khuyên nhủ tâm
huyết của Nguyễn Đôn Phục giành cho phái các nhà Nho duy tân thứ
nhất.
2. Phái lười biếng, bạc
nhược: Phái này “Tuy là danh hiệu nhà Nho, nhưng kỳ thực cũng không
phải là chí khí nhà Nho. Cái thân phận các ông ấy chỉ theo phong
trào của thời đại mà lên xuống. Thời đại dùng chữ Nho thì các ông
ấy túa lên như mây, thời đại không dùng chữ Nho thì các ông ấy cái
tinh thần chết hẳn. Hoặc là đủng đỉnh trong ngõ cúc tùng, hoặc là
tiêu dao trong làng túy hương, hoặc là nằm co trong miền sơn dã, hoặc
là khốn quẫn về đường y thực, như đại khái là cầm cái nghĩa yếm
thế, tỏ ra bi quan; về đường đạo đức thì cũng nửa thanh nửa trọc;
về đường học thuật văn chương thì dường như pháo tịt ngòi. Thậm chí
hoặc có ông cho mình là lầm, học sách thánh hiền là hớ, theo đòi
chữ Nho là vô ích, há chẳng nực cười thay!”. Đối với phái này tác giả tỏ ý chê bai đã rõ.
3. Phái a dua: “Phái
ấy chỉ biết theo đời mà không biết vãn cứu cho đời. Phái ấy thường
có cái kỹ dạng nghênh hợp phong trào, và cái tâm lý sách ẩn hành
quái. Nên chi ở thời đại nào cũng cũng mở mang miệng lưỡi, vẽ vời
văn chương, khác với phái nhà Nho lười biếng”. Phái này trong buổi đầu“đương lúc dân trí còn
chửa khai, vạn sự còn ê trệ, phái ấy hô hào duy tân, công kích thủ
cựu, ai bảo rằng không phải.” Tuy nhiên, “kịp
khi cái cảnh tượng trong thời gian nó đã biến đổi, gián cách kể đã
ba mươi năm, tình trạng trong xã hội ngày nay không phải như tình trạng
ngày trước nữa. hai chữ duy tân đã thành hủ sáo”, thì phái này chỉ biết “hô hào với cổ động
suông”, còn đối với “phần văn hóa của Đông phương,
học thuyết của tiền triết, gốc nhà gốc nước, quốc hồn quốc túy
của quốc dân, phái ấy có từng để ý bảo tồn vãn cứu cho quốc dân
nhờ đấy không? Hay là chỉ khư khư giữ lấy cái thuyết tòng tân xả cựu
là cái thuyết trần hủ ngoại 20 năm về trước?”. Và cái tội của phái này được quy kết là “a
dua thời thế”, không biết tìm cách “giàng
buộc tiếp nối cái dây cựu học sắp đứt”mà lại còn “toan
cầm dao cắt đứt đi”, không có cái nghĩa “cứu
thế, giúp dân” nữa. Có thể thấy, tác giả đã kịch
liệt phê phán, công kích, vạch trần bản chất hủ bại của phái nhà
Nho a dua này.
Thứ ba, trong bài viết Nhà
Nho, Phạm Quỳnh đã mô tả hiện trạng và phân lớp nhà Nho Việt
Nam từ khi thời thế thay đổi như sau: “Nay nhà Nho ta, từ
khi thấy thời thế thay đổi, tự xét mình không đắc dụng với đời nữa,
sinh ra chán nản, trước sau chỉ biết giữ một cái thái độ tiêu cực.
Thảng hoặc cũng có kẻ hăng hái, không muốn cam tâm chịu tiêu cực nữa,
thì lớp trước kia hô hào cải cách, rủ nhau xuất dương rồi mà sở chí
sở sự không thành, kết cục đến kẻ bôn ba nơi hải ngoại, người ủ dột
chốn lao lung, còn ai sống sót thì cũng là đem cái thân tàn mà ngậm
ngùi với nước non bạc bẽo, nghĩ càng thêm cảm lại thêm thương; lớp
sau này thời có kẻ hiểu lầm cái nghĩa tùy thời, cũng a dua theo đời
mà học đòi những cách cầu danh trục lợi, không xứng đáng với cái
bản sắc nhà Nho, hay cao hơn một tầng thời làm ra mặt làm ra mặt duy
tân, nói năng nghị luận, nhất thiết trái hẳn với tôn chỉ nhà Nho,
không sợ chủ trương xướng suất những tư tưởng học thuyết cực đoan của
Âu tây, mà có lẽ tự mình cũng chưa hiểu hết tinh lý”. Trong phần bình luận này, Phạm Quỳnh đã chia nhà Nho
thành hai lớp. Trong đó, lớp thứ nhất là phái nhà Nho duy tân, lớp
thứ hai là phái nhà Nho a dua, một phần tương ứng với cách phân loại
của Nguyễn Đôn Phục ở trên. Không chỉ dừng ở đó, phần sau của bài
viết, Phạm Quỳnh đã giành dung lượng lớn để bàn về hai khái niệmđạo
Nho tiểu thừa/hạ thừa và đạo Nho
đại thừa/thượng thừa mà ông đưa ra. Và đi kèm
với đó là hai phái nhà Nho tiểu thừa và nhà Nho đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa/ hạ
thừa tức là các thầy đồ quê, còn nhà Nho đại
thừa/thượng thừa tức là “nhà
Nho khoát đạt, nhà Nho quán thông, nhà nhà Nho bác nhã, nhà Nho cao
thượng, nhà Nho đã qua bậc “tiểu thừa” đạt tới bậc “đại thừa”. Phạm Quỳnh còn phân tích khá kỹ về hai loại nhà Nho này.
Trong xã hội cũ,nhà Nho tiểu thừa có vai trò duy trì xã hội, bảo tồn danh giáo, phong hóa.
Còn nhà Nho đại thừa có vai trò xướng suất, hưng
khởi cái “vận mệnh tinh thần” của quốc dân. Tuy nhiên, một
trong những nguyên nhân dấn đến sự yếu kém của học giới Việt Nam
đương thời, chính là “trong khoảng nửa thế kỷ nay, nhà
nho thượng thừa đã hầu như vắng tăm tích trong non sông nước Việt
này”. Vấn đề này, chúng tôi sẽ trở lại ở phần sau.
Qua một số miêu tả và nhận
xét của Nam Phong tạp chí, chúng ta có thể nắm bắt
được những nét khái quát, đặc tả về hiện trạng của nhà Nho Việt
Nam đầu thế kỷ XX trong sự khủng hoảng của học giới và xã hội. Khi
đó, sự tồn vong của nhà Nho và cựu học là một vấn đề thời sự
nóng, được giới trí thức cả Tân lẫn Cựu quan tâm bàn thảo.Nam
Phong tạp chí bấy giờ là một diễn đàn lớn, giới trí
thức có thể bày tỏ quan điểm và giải pháp của mình trước vấn đề
trên. Khi đọc những bài viết liên quan trên tạp chí này, chúng ta có
thể thấy trí thức Nam Phong đã rất băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: Con
đường nào là lối thoát cho các nhà Nho khỏi nguy cơ diệt vong? Làm
sao để có thể vãn hồi cựu học, chấn hưng học giới? Và từ đó, họ
đã có nhiều nỗ lực quan tâm tìm kiếm phương án để giải quyết những
vấn đề này, trên cơ sở phản tư, bình giá vai trò, ảnh hưởng của nhà
Nho và Nho học xưa nay trong xã hội Việt Nam và phân tích bối cảnh, xu
thế của thời đại.
2. Đề xướng
cách tân Nho học: Sứ mệnh của nhà Nho trong thời đại mới
Trước khi đi vào vấn đề
chính của phần này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi nét về bối cảnh
của học giới Việt Nam trong cuộc khủng hoảng đầu thế kỷ XX qua lời
mô tả trong một số bài viết trên Nam Phong tạp chí. Trong bài viếtPhái nhà Nho khoảng 30 năm nay đối
với sự học cũ, đăng trên Nam Phong số 195,
tháng 5 năm 1934, Nguyễn Đôn Phục đã có lời tổng kết quá trình giao
thoa Tân – Cựu tại Việt Nam trong khoảng gần 30 năm đầu thế kỷ[12]như sau: “... Phàm
sự đã canh tân, cái phong trào tân đã bành trướng, người tân thói tân,
gạt đi cũng chẳng hết, ngăn đi cũng chẳng xiết. Trong khi khuynh hướng
về đường tân đó, tiếp thụ được cái tinh thần thì phần ít, cúi nhặt
được cái vỏ cặn thì phần nhiều, những trò nực cười của xã hội,
mới hằng ngày diễn ra, khiến cho chữ tân cũng ít có giá trị gì
nữa. Trước kia vẫn tưởng phái thủ cựu là hủ bại, ngờ đâu ngày nay
phái duy tân hủ bại hoặc lại có phần hơn. Đó là cái thông tệ của
thời đại cải cách mới cũ giao nhau”. Trong bối cảnh đó, Phạm
Quỳnh trong bài viết Học phong và sĩ khí, đã thẳng thắn chỉ ra mối tệ của nền học vấn đương thời: “Từ
khi bị cuốn vào trong phong trào mới, thời những cái tệ cũ đã quét
sạch làu làu, nhưng những cái hay xưa cũng biến mất đi cả. Nước ta
trong khoảng ba bốn mươi năm nay đã bày ra một cái tân cục diện. Nghĩ
rằng học chế đã cải lương theo phép văn minh thời học phong tất phải
hưng thịnh và sĩ khí tất phải phấn phát hơn xưa mới phải. Ai ngờ
cái kết quả lại trái lại, là bởi cớ làm sao?.... Cái tinh thần cũ
của nước nhà đã bỏ mất, mà cái tinh túy mới của thế giới cũng
chưa thâu thái được, sự học chỉ quanh quẩn trong vòng sinh nhai, không
vượt được khỏi cái trình độ duy lợi thiển cận”[13] Tiếp đó, Phạm Quỳnh còn
mượn việc “lên núi đăng lâm” để so sánh sự học của tiền nhân và hậu
nhân nhằm phê phán mạnh mẽ học giới đương thời đã quá chú trọng
việc “xả cựu tòng tân”, bỏ quên cái tinh túy truyền thống của dân
tộc, để rồi sau mấy chục năm, những kết quả nhận được không hay ho
chi mấy: “Tiền nhân ngày xưa đã gia công gắng sức tới được một
ngọn kia, tuy chưa phải là cao phong tuấn lĩnh gì, nhưng đứng đấy cũng
đủ thu quát được một mảnh giang sơn của cố quốc. Nay ta chê núi nhà
là thấp, ta muốn trèo núi khác cao hơn, mà trong khoảng mấy chục năm
nay, vẫn còn lẹt đẹt dưới chân núi. Không những lẹt đẹt dưới chân mà
tựa hồ như trong lòng đã nguội lạnh cả rồi, không còn có cái chí
đăng cao viễn diểu như cổ nhân nữa, gặp được đám cỏ núi, bông hoa
rừng, đã lấy làm thơm tho, mãn nguyện rồi.”[14] Và cuối cùng Phạm
Quỳnh đã phê phán gay gắt tình hình học giới đương thời bằng những
lời sau: “Nhận cho kỹ được một đám cựu học chán đời, một đám
tân học lấc cấc, một đám không cựu không tân, không nho không tây, dở
dang lơ lửng, bấy nhiêu đám rời rạc nhau, cách biệt nhau, không có chủ
nghĩa, không có thống hệ, không có kỷ cương gì cả. Cõi học thật
không có cái vẻ hoạt động sầm uất một chút nào. Sánh với các nước
văn minh kém đã đành, sánh với nước mình ngày xưa cũng không bằng
nữa”.[15]Còn Nguyễn Đôn
Phục thì nói: “Ấy về phần quốc hồn quốc túy của quốc dân
đã như sắp sửa dứt rồi đấy, mà con đường văn minh lạc lợi thì còn
mộng ảo ở tận đâu đâu”.[16] Và ông chỉ ra nguyên nhân
dẫn tới sự khủng hoảng trên là “vì trước kia cho lối cũ là
hủ bại mà hết sức công kích đi để trau dồi lối mới cho quốc dân.
Kịp quốc dân khi khi đã hấp thụ được lối mới thì lại mới quá, so
với lối cũ thì hủ bại lại có phần hơn”.[17] Có thể thấy, trí thức
Nam Phong cùng có chung một nhận định về nguyên nhân dẫn đến sự
suy đồi, khủng hoảng của học giới Việt Nam đương thời, là bởi sự “xả
cựu tòng tân” một cách thái quá. Trong khi cái cũ đã bị thẳng tay
vứt bỏ, thì cái mới vẫn chưa được gây thành, tạo nên tình trạng của
một học giới nửa tây nửa ta, “dở dang lơ lửng”, chưa được định hình.
Kết quả nhận được này, trái với mục đích canh tân ban đầu, thậm
chí, nó còn sút kém hơn so với học vấn truyền thống trước đây. Và
trong bối cảnh đó, hiện trạng của nhà Nho Việt Nam bấy giờ có thể
nói rất bế tắc, nguy ngập như phần trên ta đã thấy. Cựu học đã chấm
dứt cùng chế độ giáo dục khoa cử truyền thống kéo dài gần một
nghìn năm. Nhà Nho không còn con đường tiến thân, mất đi địa vị chính
thống trong xã hội, đối mặt với nguy cơ tiêu diệt. Các trí thức Nam
Phong đã phải ngậm ngùi khi đặt ra câu hỏi rằng: “Tình thế đã
đến thế, còn có thể mong vãn hồi được nữa không?”,hay“Nhà Nho
có quả là bị cái số đào thải tất nhiên không? Có thật là đã đến
ngày sắp tiêu diệt không?” Vì vậy, để vãn hồi tình thế, tìm
kiếm một lối thoát cho nhà Nho, trí thức Nam Phong đã chủ trương phải
tiến hành một cuộc cách tân Nho học, xây dựng một nền học thuật mới
bắt kịp thời đại theo gương Nhật Bản và Trung Quốc. Và trong cuộc
cách tân này, nhà Nho – lực lượng chủ đạo, có một sứ mệnh vô cùng
quan trọng. Điều này có hai nguyên nhân: Thứ nhất, nhà Nho vốn là một
giai tầng trí thức có địa vị và ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Nho
giáo truyền thống của Việt Nam từ trước đến nay. Nhà Nho là hạng “thượng
lưu trí thức”, là bậc “thức giả xã hội” trong nước, có
một chức vụ cao quý là “hướng đạo cho quốc dân”, làm “tiêu
biểu cho cả nước”, cả về đường xã hội, đường chính trị,
đường trí thức tinh thần, như lời Phạm Quỳnh nói. Ông còn ví “nhà
Nho là một hạng thầy tu” của Khổng giáo. Song “hạng thầy tu”
này khác với thầy tu của các đạo khác vì “vừa kiêm cả phần
đời và phần đạo, đem đạo vị mà đằm thắm cho cuộc đời; còn thầy tu
của các đạo khác, thời bỏ đời mà theo đạo, và thường cũng chỉ
thiên về cái phần hình thức của đạo, là phần lễ bái mà thôi”. Nhà
Nho đối với giới bình dân thì “khác nào như một lần một lót
với nhau, tiên phong hậu thuẫn cho nhau, trên dưới tiếp ứng, không hề
có cách trở nhau bao giờ”. Theo Phạm Quỳnh, nhà Nho đã có
công lớn đối với việc duy trì, xây dựng quốc gia:“Bấy lâu vẫn làm
khuôn mẫu cho quốc dân, bấy lâu vẫn duy trì cho xã hội, khiến cho nước
Nam kinh qua bao nhiêu sự ngoại xâm cùng nội loạn, từng trải biết mấy
lần nước đổ với nhà tan, mà vẫn sinh tồn được mãi mãi... Đã hay
rằng cái công đề tạo duy trì cho quốc gia là công chung của tiên dân
ta, nhưng nhà Nho là cái phần có ý thức trong quốc dân, công ấy cũng
được một phần to vậy”. [18]; Thứ hai, điều này có quan
hệ mật thiết đến sự tồn vong của chính nhà Nho. Nho học muốn thoát
khỏi sự diệt vong, không còn cách nào khác là bản thân nó phải được
cách tân hợp với thời đại. Việc cách tân Nho học đúng cách và hợp
thời sẽ mở ra lối thoát cho các nhà Nho Việt Nam khỏi những bế tắc,
không chỉ trong cuộc khủng hoảng này, mà sâu xa hơn là thoát ra khỏi
những lưu tệ mang tính cố hữu của nhà Nho truyền thống, lột xác để vươn
tới tương lai mới. Nhà Nho nếu muốn không bị đào thải, thì trong cuộc
cách tân Nho học ấy, “chỉ có cái hình thức của nhà Nho là
cần phải thay đổi,mà cái tinh thần nhà Nho cần phải bảo tồn
lấy, vì tinh thần ấy còn thiết yếu cho sự sinh tồn của dân tộc ta”
– Phạm Quỳnh nhấn mạnh. Công cuộc cách tân này được coi
là “một sự nghiệp lớn lao”,song chỉ còn “chờ đợi
những người sốt sắng”, đó chính là các nhà Nho. Vì vậy,
trí thức Nam Phong ra sức hô hào, thức tỉnh các nhà Nho phải gạt bỏ
ưu sầu, phiền muộn, nhận chân giá trị của mình, chấn hưng Nho học,
bước lên vũ đài để giành lấy một chỗ đứng trong xã hội cho mình.
Như Nguyễn Bá Trác đã tỏ lời tha thiết kêu gọi nhà Nho rằng: “Kể
từ khi ông lão thành tiến sĩ, cô thiếu nữ tú tài, đã cải đai lau
phấn đi rồi, ở trên học vụ diễn đài, nhất loạt thay vai đổi cảnh.
Bọn nhà Nho ta nếu chưa có thể bước lên cho mau, chen vào cho khỏe,
súy lấy một chiếu ngồi ở trong xã hội, thì dễ thường từ nay trở đi
không có lối mà thò mặt lên vũ đài nữa”.[19] Họ coi đây là trách
nhiệm của những bậc sỹ phu, quân tử có lòng với đời: “Phàm
người quân tử liếc mắt ra cuộc đời, thấy cái hiện tượng như vậy,
phải nên kíp tìm phương pháp vãn hồi”.[20] Để động viên các nhà
Nho, trí thức Nam Phong tỏ ra không hề không bi quan trước thời cuộc.
Nguyễn Bá Trác nói:“Có phải là ách vận đâu? Có phải là bi
quan đâu? Những người bảo là ách vận, là bi quan, tôi đây quyết không
thụ nhận”. Sự bi quan ách vận đó, chẳng qua “là tại
các nhà Nho ta trống bỏi vật mình đó thôi”. Và ông vạch rõ
nỗi băn khoăn của các nhà Nho ta trước sự tiêu mòn của Nho học là
bởi “vì triều đình không mở khoa thi nữa, để cho được thỏa
cái lòng trước điện một bài văn, dưới loa một tiếng dụ đấy thôi,
chứ có phải vì thánh đạo mà băn khoăn đâu!”. Trong khi đó, ông
chỉ ra, ở Nhật Bản và Trung Quốc, các nhà Hán học truyền thống đã
khéo biết “bằng tạ cái học vấn cố hữu, thâm nhập cái văn
minh ngoại lai”, để khuếch trương giáo dục, cải lương chính
trị, sáng lập chế độ, chỉnh lý quân lữ, chấn hưng nghệ nghiệp, vì
thế mà chẳng có nhà Nho nào than thở, ngao ngán về cái ách
vận bi quan bao giờ. Vì có công phu điều hòa Tân Cựu, nên Nhật
Bản và Trung Quốc dù rằng âu yếm duyên mớinhưng khôngđến
nỗi ngậm ngùi tình xưa”. Ông coi thời điểm này, khi vận
chở cái văn minh của Thái Tây vào, để bù giúp cho cái trí thức, cái
tư tưởng có sẵn của mình”, chính là thời cơ để các nhà Nho
Á Đông chuyển mình. Và vì thế, ông đã giành hy vọng lớn cho tiền đồ
của Hán học. Còn Phạm Quỳnh thì lưu ý các nhà Nho rằng: “Xem
đó thời biết rằng thời thế bây giờ tuy không lợi cho kẻ học hành có
chí, nhưng nếu quả có chí vững vàng thời cũng có thể dần dần kiểu
chính lại được. Cốt là kẻ sĩ trong nước phải tự tỉnh tự giác,
nhận chân cái trách nhiệm của mình là phải gây ra trong học giới một
cái học phong mới, một cái sĩ khí mới”. Qua đó, Phạm Quỳnh
muốn nhấn mạnh, việc gây dựng học phong mới, sĩ khí mới trong
thời buổi mới, chính là sứ mệnh lớn lao của nhà Nho. Ông lạc quan
khi tin rằng nhờ vào sức người, nhờ vào chí hướng mà con người có
thể xoay chuyển được tình thế: “Cái hoàn cảnh ấy không phải
là vĩnh viễn bất dịch; cái hoàn cảnh ấy hằng ngày biến đổi luôn,
mà sức người ta có thể chuyển di được. Chỉ sợ người không có chí,
nếu quả có chí vững vàng, thời sự khó đến đâu mà không thắng
được”.[21]
Nền học thuật mới theo chủ
trương của Nam Phong tạp chí là phải được xây dựng trên
sự điều hòa, dung hợp giữa Đông và Tây, giữa “Đạo học” và “Khoa
học”, để “gây lấy một nền học mới để thay vào cái Nho
học cũ, cùng đề xướng lên một cái tư trào mới hợp với thời thế và
trình độ của dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới cùng cái tư
trào mới ấy là tổ thuật cái tư tưởng học vấn của Thái Tây, nhất
là của nước Đại Pháp, mà không quên cái quốc túy trong nước”,[22] nhằmxây dựng một
nền học thuật “đặc biệt thuần túy” của Việt Nam. Mục
đích của công việc này được ví là “tiếp ngọn nọ vào gốc kia
mà gây lấy một giống cây riêng cho cái vườn Nam Việt”.[23] Nguyễn Bá Trác cũng
nói: “...Duy trì cái quốc túy ấy, để tiếp thu lấy cái văn
minh của ngoại lai, khiến cho học giới nước ta có cảnh tượng nhật tân
nhật tiến, đó cũng là một cái mục đích chính đáng của dân tộc ta
ngày nay nên xu hướng vậy”. Nguyễn Bá Trác còn dẫn dụ
công cuộc Duy Tân ở Trung Quốc và Nhật Bản để minh chứng cho quan điểm
của mình rằng: “Cứ cái hiện tượng học giới của hai nước
láng diềng như Chi - na, Nhật – bản mà xem ra, thì cựu học với
tân học đã có cảnh tượng dung hòa hỗn hợp rồi; cho nên phàm người
tinh thông hán học, tức là cái người đủ tư cách để tiếp thụ tân học...”[24] Cái “gốc”, cái “tinh
túy”, hay cái “quốc hồn quốc túy”, mà Nam Phong tạp chíhay
nhắc tới chính là nền Nho học truyền thống, là cội nguồn tư tưởng
của Việt Nam suốt gần hai nghìn năm. Và đến nay, cội nguồn ấy đang
sắp bị hủy diệt. Trí thức Nam Phong ý thức được rằng, muốn cách tân
Nho học, dung hội đông tây để“gây lấy một cái đạo Nho mới thích
hợp với thời thế bây giờ”, thì trước hết cần phải “nối
lại sợi giây cựu học sắp đứt”, “quay lại tìm kiếm cái nguồn cội”[25], ra sức bảo tồn,
phát huy những “chỗ dùng được” và gạn bỏ những nhược
điểm, những chỗ không dùng được của Nho học. Có thể coi, vãn hồi hay
bảo tồn là mục tiêu trước nhất trong cuộc cách tân Nho học. Nguyễn
Bá Trác kêu gọi những nhân vật còn sót lại trong làng Nho là
phải “trù hoạch lấy phương kế gì, tổ chức lấy công nghiệp
gì, để cho có thể truyền thần loát ảnh lấy cái chân tướng Hán học,
mà dành lại cho người đời sau”. Việc “truyền thần
loát ảnh lấy cái chân tướng Hán học” mà Nguyễn Bá Trác đề
xướng, chính là nhiệm vụ bảo tồn lấy tinh thần của Hán học. Vì
nếu người nước ta không có ai biết được Hán học nữa thì thực là
một sự “đại bất hạnh”, “đại khuyết điểm” vậy. Mục đích của nhiệm
vụ này là “để hết cái chức trách nối kẻ trước giắt người
sau, khiến cho con nhà Hán học, đối với cổ nhân mà chuộc được tội,
đối với lai thế mà dựng nên công”. Ông mong muốn có ai đó có
thể đứng lên xướng suất, đảm đương công việc, “dóng dả một cái
chủ nghĩa bảo tồn”. Nhiệm vụ đó, theo ông, không ai gánh vác
nổi ngoài những nhân vật mà ông gọi là nhà Nho hiển đạt – tức Hiển
nho, vì họ sẵn có cái thế lực, cái phẩm vị trong
làng Hán học. Nguyễn Bá Trác giải thích nhà Nho hiển đạt “là
một phái nhờ Hán học mà đỗ lên, đầu rồng thân hổ, bia bảng vẻ vang;
đến bây giờ hiện có những người rỡ mình ở trên chốn miếu đường,
hoặc có người cầm quyền ở ngoài nơi quận trấn, những người đội ơn
Hán học mà được phần hiển đạt ấy, có thiếu gì người”. Đối
lập với Hiển nho là Hàn Nho, mà ông giải thích là lớp nhà Nho “vô
quyền vô lực”, “đối với xã hội chẳng được hưởng
quyền lợi tóc tơ chút nào; nhà tranh vách đất, rầy gió mai mưa, quang
cảnh buồn tênh như vậy; cái kiếp hàn nho chỉ có một vẻ ăn trí nằm
nhân, cười sơn cợt thủy, ấy là xong thân thế, chứ còn toan nỗi
nào?Đến như cái công nghiệp trước thư lập ngôn, túng nhiên sách sẵn ở
trong bụng dễ mà có thể lôi ra phô với đời được ru?”. Họ là
lớp người “gặp thời buổi bất kiến dụng, yên về cái cảnh ngộ
vô quyền vô lực, không có thể tổ chức được sự nghiệp gì để mà trả
được cái nợ bảo tồn Hán học cho quốc dân”. Vì vậy, Nguyễn
Bá Trác đặt nhiều kỳ vọng vào lớpnhà Nho hiển đạt nói trên: “Các
ông cũng thường nhận mình là bậc tiên sinh trưởng giả trong phái Hán
học, vẫn có lòng thân thiết đến các hạng đệ tử trong môn phái nhà,
song còn cái tiền đồ Hán học ngày nay thế nào, cái gánh vác bảo
tồn Hán học, các ông còn có thể xan xẻ cho ai được không? Chắc các
ông cũng đã nghĩ thấu đến nơi cả rồi” và “nối lấy
cái giây Hán học sắp đứt chửa đứt này, nhóm lại cái khói tàn gio
Hán, dong lên cái hoa mới đèn Nho, để làm gương cho thiên hạ hậu thế
soi chung ấy, thực chỉ mong về các ngài hiển đạt ở trong làng Hán
học có thế lực có phẩm vị đó thôi”. Và sự lợi ích mà
phái Hiển nho nhận được từ công cuộc bảo tồn này là ở chỗ: “Một
đàng đối với đồng phái có cái công phù trợ lớn lao, một đàng thì
đối với nghề cựu truyền có cái nghĩa báo đền thâm thiết; chẳng quí
lắm ru?”. Để thực hiện được công cuộc trên, Nguyễn Bá
Trác đề ra hai biện pháp sau:
1. Trước thư lập
ngôn, phiên dịch sách vở chữ Nho ra chữ quốc ngữ, để giúp
người đời sau có tài liệu khảo cứu, theo gương Âu Tây phiên dịch kinh
Phật và sách Nho; tuyển chọn trong Hán văn những câu lợi dụng
cho chữ quốc ngữ rồi biên soạn thành từ điển để giúp ích
cho chữ quốc ngữ; biên soạn văn chương, những điều liên quan tới
luân lý, phong tục, lịch sử nước nhà và truyện ký của các nhân
vật bằng chữ quốc ngữ, Sở dĩ, Nguyễn Bá Trác đề cao
chữ quốc ngữ, vì ông tiên lượng rằng chữ quốc ngữ là cái “lợi khí”
của tương lai học giới nước ta, Hán học và Âu học sẽ dung hợp được
là nhờ vào chữ quốc ngữ.
2. Tổ chức Hán
học – duy trì hội để thu thập những nhân tài còn sót lại trong giới
Hán học, kết hợp đoàn thể tổ chức cơ sở, khiến cho có thể trước
thư lập ngôn mà truyền lại cho đời sau. Hội Hán học duy trì này cần
nhờ tới sự giúp đỡ của Chính phủ bảo hộ.
Đồng thời, để làm được
nhiệm vụ bảo tồn Hán học, cách tân Nho học, Nguyễn Bá Trác còn đề
nghị phải gạt bỏ hai mối tệ vốn tồn tại từ lâu trong phần lớn giới
nhà Nho nước ta. Thứ nhất là tệ sùng chuộng hư văn, đây là nguyên nhân khiến cho “học thuật nước
ta chẳng xương minh lên được, mà quốc gia đến nỗi suy nhược dần
dần”. Thứ hai là tệ tự tôn tự đại, phái Hán học “đối với cái học của mình
thì “thường cho là thần thánh, mà đối với học thuật lý thuyết của
người, hoặc bài bác là thiên về vật chất, mà không có tinh thần,
hoặc chê bai là quá văn hoa mà khuyết mất đạo đức”. Còn bản thân thì “đọc sách cổ nhân chỉ biết
làm nô lệ cổ nhân mà thôi; nghe lời trưởng giả chỉ biết làm đệ tử
trưởng giả mà thôi”. Trước là bảo tồn, sau thì
phải trước thư lập ngôn, phát minh lấy nghĩa lý Hán học
để dẫn khởi cho hậu sinh”, đồng thời phải biết canh
tân, “thay đổi cái bút hư văn, trừ bỏ cái hồn câu nệ,
bắt chước lấy những cách khảo cứu, những cách phê bình ở trong học
thuật cách mới ngày nay”, “biết chuyển biến đi để tùng sự về đường
triết học, khoa học, pháp chính, nghệ thuật mọi đường” để xây dựng nên một sự nghiệp vẻ vang cho Hán học nước
ta. Và ông khẳng định “thời kỳ Hán học súc tiếp với Âu
học tức là cái cơ hội hay cho Hán học nhân thế mà dựng được một
cái tân kỷ nguyên, mở được một cái tân thế giới”. Qua đó, có thể thấy lòng nhiệt thành và khát vọng cháy
bỏng của tác giả đối với tiền đồ của Hán học nước ta trong bối
cảnh đó.
Còn Phạm Quỳnh trong bài Nhà
Nho, đã chỉ ra sự cần thiết phải có một cuộc cách tân, chấn
chỉnh Nho học: “Còn như đạo Nho, thì một là đạo Nho là
một đạo sai lầm, có hại cho nhân quần xã hội, như vậy thì phải kíp
cải cách canh tân đi; hai là đạo Nho là một đạo chân chính, chỉ vì
thiên hạ hiểu lầm nên dùng sai đó mà thôi, như vậy lại càng phải cải
chính mà phát huy ra vậy”. Và như vậy, ông khẳng định“đằng
nào cũng cần phải có cái công chấn chỉnh của nhà Nho, nhà Nho lại
càng phải hoạt động lắm, há cứ ngồi khoanh tay mà chịu hay
sao?” Ông nhấn mạnh vai trò và địa vị của nhà Nho đối với xã
hội Việt nam, như trên đã nói. Song ngày nay, khi mà nhà Nho – kẻ
đưa đường cho quốc dân đã“tự bỏ cái địa
vị đó, bỏ cái chức trách đó, thời đối với quốc dân, đối với xã
hội thành ra thế nào? Một nước đương có hạng thượng lưu hướng đạo,
mà nhất đán hạng thượng lưu trụy lạc đi hẳn như vậy, thì nước ấy
thành ra thế nào?”. Vì thế, “nước
ấy cũng ví như một cái thân thể không có đầu, một cái khu xác không
có hồn” và đó là nguyên nhân gây ra
cái tình trạng khủng hoảng về tinh thần như bây giờ”. Theo phạm Quỳnh, sở dĩ Nho học cần phải cách tân, chấn
chỉnh, bởi hai nguyên nhân. Thứ nhất, truyền thống Nho học của ta bộc
lộ nhiều nhược điểm, có hại cho sự phát triển của học thuật, của
xã hội: “Chẳng may trong mấy mươi đời, bao nhiêu những
người tài tuấn trong nước đều bạc đầu về cái học tầm chương trích
cú, cái học kinh nghĩa văn sách, đem hết cả tài trí mà nghiền ngấu
những cái bã rác của cổ nhân, đến không còn sức đâu mà phát minh
được những lẽ mới sự lạ nữa, khiến cho dân trí như bị ngưng trệ
lại, không tiến hóa lên được. Nước ta sở dĩ thua kém về đường văn
minh tiến bộ cũng bởi cái cách học sai lầm như thế”.[26] Và ông chỉ ra, nước ta
bấy lâu nay bị cái tinh thần hạ thừa/tiểu thừa của
Nho học bành trướng, lấn át, khiến cho “làm hẹp mất nghĩa
đạo đi, biến một cái đạo rất hay thành một mớ phiền văn trần hủ,
không khỏi ngăn trở cho sự tiến hóa chung”. Tinh thần của Nho học
hạ thừa/tiểu thừa đó, chính là tâm lý hương nguyện biển
hiệp, không có nghị lực, không có khí khái, làm hẹp đạo thánh hiền,“uốn
nghĩa lý của thánh hiền cho vừa bằng cái tầm nhân cách nhỏ nhen của
mình”. Điều đáng sợ là khi quốc vận suy vi thì cái tâm lý
hương nguyện đó “bành trướng mãi ra mà hầu như tràn ngập
cả”, và không chỉ “những thầy đồ quê mắc phải cái tâm
lý ác liệt đó, mà đến ông nghè ông cống cũng không khỏi; không những
ông nghè ông cống, mà đến tể tướng thượng thư cũng không khỏi”. Và
một khi “cả bọn thượng lưu trong nước đều đeo một cái tâm lý
hương nguyện đó cả” thì hậu quả sẽ là “dân tan, nước
đổ”. Chính cái tâm lý hương nguyện đó, theo Phạm Quỳnh, nó
đã lấn át Nho học đại thừa/thường thừa, đã làm hại các
nhà Nho, để nhà Nho chịu đeo tiếng oan mà “làm mất
nước”. Vì vậy, nhà Nho cần phải hành động để tẩy rửa tiếng
oan đó. Thứ hai, Phạm Quỳnh đã chỉ ra những điều hữu ích của Nho
học đại thừa/thượng thừa, mà theo ông nó vẫn còn có ích cho sự
phát triển của xã hội trong thời đại mới. Nho giáo đại thừa mà ông
đưa ra tức là cái đạo của bậc chân nho:“Không nói về phần triết
lý siêu hình, những cái thuyết âm dương thái cực có nhiều điều phù
hợp với những sự phát minh tối tân của khoa học đời nay, chỉ nói về
phần ứng dụng thực tiễn, về cái đạo kinh luân tế thế của nhà Nho,
cũng có nhiều phương pháp kinh nghiệm, có thể bổ cho thời cơ, cứu cho
thời bệnh được”. Cụ thể là gì, đó là thuyết về Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, là“giềng mối của đạo đức luân lý muôn đời”; đó
là thuyết tu, tề, trị, bình, “là tiêu biểu cho một cái lý
tưởng làm người rất thâm trầm và rất thiết thực”. Ông đánh
giá thuyết này “vừa kiêm được cả cái chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa thế giới, không cái nào
mâu thuẫn với cái nào, hết thảy đều như hiệp tác với nhau theo một
cái trật tự rất là hợp với lẽ thiên nhiên vậy”. Sau đó ông
đã phân tích về luận điểm này trong bài viết của mình. Ông lưu ý các
nhà Nho rằng hãy “đem những phương pháp sáng sủa hợp lẽ mà
nghiên cứu các nghĩa lý của cổ nhân. Sẽ thấy rằng những nghĩa lý
ấy chưa phải là đã quá cũ đâu, còn có cái tiềm lực rất mạnh, có
thể cảnh tỉnh được quốc dân, hoán cải được phong tục, mà bổ cứu
được cái tình trạng khủng hoảng hỗn độn ngày nay”. Phạm
Quỳnh đánh giá cao Nho học đại thừa rộng lớn sâu xa, luôn phù hợp
với mọi thời đại, mọi quốc gia dân tộc:“Đạo ấy là đạo thiên cổ,
loài người ta còn sinh trưởng trên mặt đất này thì đời nào nước nào
cũng là thích hợp”. Vì vậy, công cuộc cách tân Nho học, khôi
phục địa vị của Nho sĩ và phát huy những giá trị của họ, theo Phạm
Quỳnh chính là cần phải “bãi bỏ cái Nho học tiểu thừa, mà
đề xướng cái Nho học đại thừa; là phải đả phá cái tâm lý hương
nguyện mà đề tỉnh cái tâm lý chân Nho; là phải đem đạo Nho ra mà hòa
đồng với các phong trào tư tưởng lớn trong thế giới, chứ không thể
giữ khu khu trong mấy bộ sách nát của cổ nhân; là phải làm cho cái
tinh lý thắng được cái tử văn, chứ không để cho cái tử văn tiêu mất
cả tinh lý; là phải đem ông Khổng ông Mạnh ra mà tiếp chuyện với các
hiền triết Đông Tây, chứ không nên để trong khám thờ âm u tịch
mịch”. Ông quả quyết vai trò, ý nghĩa của cuộc cách mệnh
này có quan hệ đến sự sinh tồn của Nho giáo và công nghiệp của các
nhà Nho: “Nho giáo có do cách mệnh một lần thì Nho giáo mới
mong sinh tồn được. Nhà Nho có làm nổi cuộc cách mệnh đó thì thì
nhà Nho mới có công với quốc dân, xứng đáng với cái lịch sử vẻ vang
từ trước, xứng đáng với cái tiền đồ rực rỡ sau này”. Sứ
mệnh của nhà Nho lúc này cần phải suy xét tinh lý ẩn hàm trong
những vi ngôn đại nghĩa của thánh nhân thời cổ, rồi tìm cách để ứng
dụng nó ra đời sống hiện tại, nhằm tạo dựng một “đạo Nho
thích hợp với thời thế”. Như trên đã nói, Phạm Quỳnh phân
chia Nho giáo thành hai loại: Nho giáo tiểu thừa/hạ thừa và Nho
giáo đại thừa/thượng thừa. Và như vậy, theo ông phân tích,
nhà Nho cũng có hai loại là nhà Nho tiểu thừa và nhà
Nho đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa chính là các thầy đồ, “dạy
các trường quốc dân, không phải là người của nhà nước, không thuộc
vào ngạch nào cả, không có lương bổng, không bị kiểm đốc” và
nhà Nho đại thừa là các nhà nho khoát đạt, nhà Nho quán thông, nhà
Nho bác nhã, nhà Nho cao thượng, “là những bậc bác học năng
văn, triết nhân quân tử, biết vượt ra ngoài những câu tử văn trong sách
cổ mà đạt cho tới cái chí đạo của Thánh hiền”, cũng tức
là “các nhà Nho đã qua bậc Tiểu thừa tới bậc Đại
thừa”. Cả nhà Nho Tiểu thừa và Đại thừa đều có vai trò,
trách nhiệm riêng. Nhà Nho Tiểu thừa, tức các thầy đồ, có công
lao “duy trì cho xã hội, tiêu biểu cho danh giáo, hộ vệ cho phong
hóa”; bảo chướng để “gìn giữ cho được yên ổn, phòng
ngự cho khỏi họa loạn”. Thầy đồ được Phạm Quỳnh ví là
những “mục sư truyền đạo” của Khổng giáo. Còn nhà Nho Đại thừa thì
có công xướng suất, hưng khởi, hướng đạo, dẫn dắt quốc dân, phát huy
tinh thần Thượng thừa trong cái chí đạo của Nho giáo. Nhà Nho Hạ
thừa có trách nhiệm di truyền, nhà Nho Thượng thừa có
trách nhiệm tiến hóa Thánh đạo.Tuy nhiên, trong cuộc
cánh mệnh Nho học mà Phạm Quỳnh đề xướng, các nhà Nho Tiểu thừa
cần phải gạt bỏ tâm lý thầy đồ, tức là tâm lý lễ nhượng
cẩn thủ, trọng về hình thức phép tắc bề ngoài, và đó
chính là tâm lý hương nguyện, mang tính chất“nhân tuần cẩu thả, hư
sức ngụy biện”, có nhiều tác hại lớn.Phạm Quỳnh cho rằng,
sự nghiệp của các thầy đồ đến đây chưa hẳn đã cùng tận, nếu họ
biết trừ bỏ tâm lý hương nguyện ấy đi, thì vẫn có thể đương
được cái chức trách vừa làm giáo sư, vừa làm linh mục cho quốc
dân. Còn nhà Nho Thượng thừa thì không nên “làm sai
thiên chức của mình, là làm kẻ hướng đạo cho quốc dân, mà phụng sự
tuyên truyền một cái đạo Nho rộng rãi, hợp với cái tôn chỉ thượng
thừa của Khổng Mạnh”. Ông nhắn gửi các nhà Nho rằng: “Đương
lúc thanh hoàng quá độ này, văn hóa cũ đã tàn, văn hóa mới chưa
thịnh, chính là buổi điều hòa dung hợp, nhà Nho lại càng phải nên
gắng gỏi lắm, chứ không nên chỉ giữ cái thái độ tiêu cực, đối với
vận mệnh nước nhà lãnh đạm như khách bàng quan”. Có thể
thấy, sứ mệnh của nhà Nho là phải tham gia vào cuộc cách tân, chấn
chỉnh Nho học, khôi phục lại học phong và sĩ khí, xây dựng nền nền
học thuật mới có sự kết hợp hài hòa giữa Đạo học (tức học thuật
truyền thống phương Đông) và Khoa học (tức khoa học hiện đại Phương
Tây) theo quan niệm của Lương Khải Siêu. Và cuối cùng, trong bài
viết Học phong và sĩ khí, Phạm Quỳnh có
viết: “[Kẻ sĩ] có được cái chí thâm thiết muốn bảo chủng ái
quốc, tồn học”, “có được cái khí mạnh mẽ như lời tiền hiền đã
nói: “phú quí không dâm được, bần tiện không di được, uy vũ không
khuất được” và lại “thêm được cái kiến văn tri thức
một người sống ở cái thế kỷ phiền phức thứ hai mươi này”, có
được ba điều đó thì mới “xứng đáng là một kẻ sĩ hoàn
toàn đời bây giờ”. Ta có thể coi đây là một mô hình nhà Nho lý
tưởng của thời đại mới mà Phạm Quỳnh đưa ra dựa trên sự cân nhắc từ
nhiều phương diện và gửi gắm không ít kỳ vọng.
Bằng con mắt khách quan, có
thể thấy, trong bối cảnh khủng hoảng của học giới Việt Nam đầu thế
kỷ XX, việcNam Phong tạp chí chủ trương xây dựng một nền học thuật
điều hòa Đông Tây, lấy Nho học truyền thống làm bản vị kết hợp với
văn minh Tây phương là một chủ trương thích trung và hợp thời. Dựa trên
việc suy xét hiện trạng và đánh giá vai trò của tầng lớp nhà Nho,
trí thức Nam Phong đã rất nỗ lực để nhằm tìm ra giải pháp khắc
phục tình thế cho các nhà Nho (có cả một vài người trong số họ).
Và họ đã nhận ra và hết sức động viên, kêu gọi các nhà Nho hãy chủ
động thông qua con đường cách tân Nho học theo gương Nhật Bản, Trung
Quốc, để vãn hồi Thánh đạo, xây dựng một nền học thuật mới, đưa
bản thân thoát khỏi cuộc bế tắc, bắt kịp xu thế thời đại. Trước một
vấn đề thời sự mang tính tồn vong của số phận Nho giáo và nhà Nho,
tôn chỉ và lập trường của trí thức Nam Phong có nhiều điểm tiến bộ,
tích cực, thể hiện một tầm nhìn xa rộng. Dù lịch sử đã diễn ra
không như những gì mong đợi, song cho đến nay, chúng ta vẫn thấy được
bầu nhiệt huyết của các trí thức Nam Phong giành cho học thuật nước
nhà, và có lẽ ít nhiều những gì họ đã làm vẫn còn mang những giá
trị nhất định.
[2]Thóc cũ đã
hết, thóc mới còn xanh, chỉ buổi giao thời, tân cựu giao thoa.
[3]Trúc
Hà, Nhà Nho có lẽ chịu sầu?, Nam Phong tạp chí, số
130, tháng 6 năm 1928, tr. 561.
[4]Nguyên tác
Hán văn, bản quốc ngữ do Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch và đăng
trên Nam
Phong tạp chí số 51, tháng 9 năm 1921, tr. 189.
[5]Nguyễn Bá
Trác, sđd, tr. 189.
[6]Nguyễn Bá
Trác, sđd, tr. 194.
[7]Phạm
Quỳnh, Nhà Nho, Nam Phong tạp chí, số 172, tháng 5 năm
172, tr. 449.
[8]Nguyễn Bá
Trác, sđd, tr. 192, 198
[9]Trúc Hà,
sđd, tr.561.
[10]Nguyễn Đôn
Phục, Phái nhà Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ,
Nam Phong tạp chí, số 195, tháng 5 năm 1934, tr. 285.
[11]Trúc Hà,
sđd, tr.568.
[12]Tức là
tính từ năm 1906 (Thành Thái 18) khi chương trình Giáo dục Khoa
cử cải lương được nhà nước Bảo hộ tiến hành đến năm 1934, thời điểm
tác giả viết bài.
[13]Nam Phong tạp chí, số
79, tháng 1 năm 1924, tr. 1
[14]Phạm
Quỳnh, Học phong và sĩ khí, Nam Phong tạp chí, số
79, tháng 1 năm 1924,tr. 5.
[15]Phạm
Quỳnh, Học phong và sĩ khí , tr. 4.
[16]Nguyễn Đôn
Phục, sđd, tr. 285.
[17]Nguyễn Đôn
Phục, sđd, tr. 289.
[18]Phạm
quỳnh, Nhà Nho, tr. 451.
[19]Nguyễn Bá
Trác, sđd, tr. 189.
[20]Nguyễn Đôn
Phục, sđd, tr. 289.
[21]Phạm
Quỳnh, Học phong và sĩ khí, sđd, tr. 4.
[22]Phạm
Quỳnh, Mấy nhời nói đầu, Nam Phong tạp chí, số
1, tháng 7, năm 1917, tr. 5.
[23]Phạm
Quỳnh, Mấy nhời nói đầu, Nam Phong tạp chí, số
1, tháng 7, năm 1917, tr. 4.
[24]Nguyễn Bá
Trác, Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho, Nguyễn
Đôn Phục dịch, Nam Phong tạp chí số 51, tháng 9
năm 1921, tr. 191.
[25]Trúc Hà,
sđd, tr. 567.
[26]Phạm
Quỳnh, Học phong và sĩ khí, Nam Phong tạp chí, số
79, tháng 1 năm 1924, tr. 2.
--
Tác giả: Lê Phương Duy
Nguồn: vanhoanghean.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét