|
Trần Hòa Bình
(Sưu tầm trên Internet)
|
Gốc
quê làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn (Tỉnh Bắc Ninh), Hoàng Tích Chu sinh năm 1897
trong một gia đình quan lại, cha đã có thời làm tri phủ. Lúc nhỏ ông được học
chữ nho, sau chuyển sang học tiếng Pháp. Năm 1921, ông được nhận vào giúp viêc
cho tòa soạn tờ Nam Phong. Cũng
vào năm này, Bạch Thái Bưởi cho ra mắt bạn đọc tờ Khai hóa và mời Hoàng Tích Chu về làm chủ bút. Dưới bút danh Kế
Thương, những bài báo của Hoàng Tích Chu đăng trên tờ báo này đã bắt đầu gây
chú ý cho báo giới và bạn đọc. Một năm sau Hoàng Tích Chu rời Khai hóa và nung nấu ý định sang Pháp
học nghề báo. Năm 1923, ông vào Nam Kỳ làm phụ bếp trên một con tàu biển, và đã
đến được nước Pháp. Năm 1927, Hoàng Tích Chu về nước. Tháng 6 năm ấy, Hà Thành ngọ báo của Bùi Xuân Học ra
đời, Hoàng Tích Chu được mời về làm biên tập và Đỗ Văn lo in ấn. Những cách tân
trong cách viết và cách trình bày mới lạ đã chưa thuyết phục được bạn đọc. Ngày
15/11/1929, Hoàng
Tích Chu cho xuất bản tờ Đông Tây.
Bằng ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, trong sáng, mang hơi thở cuộc sống hàng ngày;
bằng hàng loạt chuyên mục độc đáo và lối trình bày hiện đại... tờ Đông Tây đã được bạn đọc và báo giới
đón nhận nhiệt thành pha nhiều ngỡ ngàng. Cuối năm 1932, Đông Tây bị thu hồi giấy phép xuất
bản. Đấy cũng là lúc tờ Thời báo được
xuất bản và Hoàng Tích Chu lại được chọn làm chủ bút. Toàn bộ các chuyên mục
của Đông Tây đã được Hoàng Tích
Chu chuyển sang tờ Thời báo,
nhưng tờ này cũng chỉ ra được 20 số thì bị thu giấy phép. Năm 1933, vào đúng
ngày 30 Tết, Hoàng Tích Chu qua đời sau một thời gian bị bệnh, hưởng dương 36
năm.
Đầu thế kỷ XX,
chỉ sau hơn ba thập niên tính từ thời điểm tờ Gia Định báo ra đời (1865), báo chí quốc ngữ đã đạt được một sự
tăng trưởng đáng kể. Các nhà báo sáng lập và hoạt động trong các tờ báo tiếng Việt đã không ngừng mày mò tìm kiếm
những phương cách nhằm nâng cao chất lượng các tờ báo của họ, với mơ ước đạt
tới sự bình đẳng nghề nghiệp với những tờ báo tiếng Pháp do chính người Pháp
thực hiện tại Đông Dương.
Trong số những
nhà báo tên tuổi đó, vào thời điểm 1927, nổi lên một gương mặt đặc biệt Hoàng
Tích Chu (1897- 1933). Chỉ có 6 năm hoạt động, ông giống như một vệt sao băng để
lại những dấu ấn không phai mờ trong lịch sử báo chí Việt Nam. Ông
được coi là nhà báo chuyên nghiệp đầu tiên được đào tạo tại Pháp và cũng là
người đầu tiên đã táo bạo thực hiện một cuộc cách mạng trong nghề làm báo ở
nước ta, bằng cả quan niệm và hoạt động thực tiễn (ông đã làm chủ bút hoặc giữ
vai trò yếu nhân 4 tờ báo nổi tiếng: Khai
hóa, Hà Thành ngọ báo, Đông Tây, Thời báo). Chính những phát ngôn và
hành xử nghề nghiệp của ông đã làm đảo lộn quan niệm về nghề và người làm báo
trong đời sống báo chí đương thời, làm thay đổi cách tiếp nhận thông tin từ số
đông bạn đọc - những người chưa quen với những thông tin bộc lộ một thái độ
quyết liệt về những vấn đề xã hội, chính trị... Và ông, như
một lẽ đương nhiên của kẻ đi tiên phong, đã hứng chịu rất nhiều búa rìu của dư
luận - chủ yếu là từ các đồng nghiệp vẫn “theo lối làm báo cổ hủ ở xứ ta” (Tế Xuyên).
Dẫu có thể còn có những cách nhìn khác nhau về Hoàng Tích Chu, nhưng khi nhắc
đến ông và các tờ báo mà ông đã thực hiện, đặc biệt là tờ Đông Tây, người ta không thể không
thừa nhận những tác động tích cực của “hiện tượng Hoàng Tích Chu và Đông
Tây” đến
đời sống báo chí Việt Nam đương thời và mấy thập niên về sau. Ông xứng đáng với
danh hiệu “người đầu tiên cách tân báo chí Việt Nam”.
Trở lại thời
điểm 1929, thời điểm mà Hoàng Tích Chu, “một khách giang hồ hơn là một du học sinh” đã từ Pháp
trở về được hai năm, bắt đầu gây sốc với báo giới nước nhà và bạn đọc bằng việc
tung ra tờ Đông Tây. Có thể nói Hoàng
Tích Chu và Đông Tây đã thẳng
thắn đối diện với số đông các nhà báo và các tờ báo đương thời còn đang quanh
quẩn trong một lối làm nghề trì trệ, trước hết bằng những quan niệm rất mới mẻ
của một nhà báo chuyên nghiệp cộng với nhiệt huyết của một thanh niên thời đại
mới - một trong những đại diện tiêu biểu của trào lưu kết hợp văn hóa Đông -
Tây lúc bấy giờ.
Ông đã đánh
giá và có quan niệm như thế nào về nghề và người làm báo ở nước ta lúc đó?
Trong bài báo
nổi tiếng Nghề làm báo ngày nay (Đông
Tây số 2, ra ngày 2-12-1929), một bài báo gây sóng gió trong làng báo đương
thời, Hoàng Tích Chu đã nói thẳng: “Nghề làm báo ở nước ta cho đến
ngày nay vẫn chưa phải là một nghề theo nghĩa đúng của nó vì ở nước ta chưa có
trường dạy về báo chí. Chúng ta xem đó là một trò tiêu khiển về tinh thần, ký
giả chỉ là những người lĩnh lương, tức là những người làm công, vì vậy ký giả
làm việc miễn cưỡng”.
Ai sẽ trước
hết phải chịu trách nhiệm về thực trạng này? Hoàng Tích Chu đã rất có lý: “Người chịu
trách nhiệm lớn là các ông chủ báo. Khi lập tờ báo, ông chủ chỉ chú ý tới vấn
đề tiền bạc, thay vì chú ý tới bộ biên tập. Chủ báo quan niệm rằng ký giả là
người làm công, ngày hai buổi đến tòa soạn viết xã luận, dịch tin tức để trám
cho đầy cột báo (...). Người chủ báo, tuy ở trong nghề, nhưng chưa biết tờ
nhật trình có vai trò gì? Nhật báo đối với họ chỉ là những bài xã thuyết cộng
với vài tin tức lượm lặt... Có người xem việc lập một tờ báo như mở một tiệm
tạp hóa. Chủ báo ít vốn nên không dám chịu tốn kém để mua hoặc tìm tin tức. Họ
chỉ trám vào mấy cột báo bất cứ tin tức nào bắt gặp trong báo Tàu hay báo Pháp”. Đây
là những quy kết xác đáng về trách
nhiệm của người chủ bút - những người sẽ gây ảnh hưởng đặc biệt đến diện mạo và
khuynh hướng cho mỗi tờ báo. Nhưng vào thời điểm Hoàng Tích Chu đang đề cập, họ
đã phần nhiều chưa làm được việc này. Nên nhớ là từ khá lâu trước đó, vào những
năm 1907 - 1908, thông qua Văn minh tân học sách, các nhà yêu nước Việt Nam đã
đề xuất một trong hai yêu cầu để báo chí có thể góp phần quan trọng thúc đẩy
phong trào canh tân xứ sở: các chủ bút phải được lựa chọn từ hàng ngũ những trí
thức Việt Nam ưu tú nhất. Đó là một đề xuất đúng đắn, nhất là trong bối cảnh
báo chí thật sự được coi như một phương tiện văn hóa (cùng với nhà trường) để
mở mang dân trí, nâng tầm dân tộc.
Hoàng Tích Chu
cũng là người luôn đề cao và nhấn mạnh yếu tố văn hóa trong nghề làm báo. Trong
cách nhìn của ông, mỗi tờ báo cũng đồng thời là một cơ quan văn hóa, bởi vậy
những ứng xử nghề nghiệp cũng phải theo tinh thần đó. Nhân một cuộc bút chiến
giữa hai tờ Phổ thông và Ngọ báo - cuộc bút chiến có nguy cơ
đưa hai cơ quan ngôn luận này rời xa mục đích đi tìm chân lý mà quay ra hạ bệ
nhau với những toan tính cá nhân, vị kỷ - Hoàng Tích Chu đã viết bài Thử
ngẫm về cuộc bút chiến giữa hai tờ báo đăng trên Đông Tây số
ra ngày 22/10/1930. Sau khi
tóm tắt nguyên nhân cuộc bút chiến, trong phần Mối cảm tưởng của tôi,
ông viết: “Tờ báo
là nơi công chúng quan chiêm, chỉ có ta khinh độc giả thì ta mới ăn nói một
cách sỗ sàng... Một điều tôi rất phàn nàn là trong ít lâu nay, làng báo ta
thường hay có thói khích bác, bêu riếu nhau”. Hoàng
Tích Chu cho rằng nghề làm báo cũng như nhiều nghề khác trong xã hội, phải chịu
sức ép của luật cạnh tranh, nhưng - nói theo ngôn ngữ bây giờ - đó phải là sự
cạnh tranh lành mạnh, bằng chính chất lượng nội dung và hình thức của tờ báo, “chứ không phải
ganh nhau ở cái chỗ khuynh loát bằng những cách đê hèn, soi mói đời tư nhau ra
để hòng giảm giá trị người ta... Bất cứ nghề nào cũng vậy, nói xấu nhau là phạm
một điều vô đạo”. Kết thúc bài báo đầy ưu tư này,
Hoàng Tích Chu kêu gọi các đồng nghiệp: “Muốn tăng trình độ cho người đọc
báo, ta nên tự tăng trình độ cho ta trước”.
Đã hơn 70 năm
từ khi bài báo này xuất hiện, nội dung của nó vẫn còn rất nhiều ý nghĩa đối với
các nhà báo hôm nay.
Kiểm duyệt báo
chí luôn luôn là một vấn đề nhạy cảm trong hoạt động của lĩnh vực này. Chính
sách kiểm duyệt ngặt nghèo của nhà cầm quyền Pháp với báo chí đương thời, đặc
biệt là với báo chí quốc ngữ, là điều khiến cho những nhà báo tâm huyết như
Hoàng Tích Chu thấy sẽ phương hại đến tính năng động tích cực của báo chí,
phương hại đến vai trò thật sự của báo chí đối với đời sống xã hội. Dĩ nhiên có
rất nhiều nhà báo nhận thức được vấn đề này, nhưng quả cảm như Hoàng Tích Chu
thì không phải ai cũng làm được: ông đã cho đăng trên trang nhất Đông Tây ra ngày 12/4/1930 bài Báo quốc ngữ với quyền tự do ngôn luận của
tác giả A.E.Babut, đương nhiên cũng là quan điểm của ông và Đông Tây: “Khi nào báo
chí được tự do, khi nào báo chí có những người xứng đáng chủ trương, thì bấy
giờ báo chí đối với dư luận của mọi người sẽ có ảnh hưởng rất sâu xa... Nhiều
người rất mong cho ngôn luận được tự do để nâng cao trình độ luân lý của các
hạng người trong xã hội”. Tuy nhiên, Hoàng Tích Chu ý thức
được giới hạn của vấn đề để không rơi vào cực đoan. Bài báo còn có đoạn sau: “Có nên cho
báo quốc ngữ ngày nay được hưởng quyền tự do như báo bên Pháp không? (...) ý
kiến như sau này: nên bỏ cái chế độ (kiểm duyệt) hiện thời và nên cho báo được
tự do, nhưng nên đặt luật riêng để cho khỏi có sự tệ lạm (người viết nhấn
mạnh)”. Đây
không phải là một ý kiến cải lương, nó cho thấy sự mềm mỏng của Đông Tây khi
đối thoại với nhà cầm quyền, trong nỗ lực “đòi (tự do) bằng lời” mà Hoàng Tích Chu đã từng đề cập trong cuốn chuyên
luận xuất bản từ 1927.
Không chỉ phát
ngôn trực tiếp những ý kiến, những nhận xét và những quan niệm như trên về nghề
làm báo, thông qua tờ Đông Tây, Hoàng Tích Chu còn muốn mở một cánh cửa để đồng
nghiệp và bạn đọc nhìn ra đời sống báo chí thế giới, giúp họ có thêm cơ sở so
sánh với báo chí nước nhà và, có lẽ, ông hy vọng những người làm báo Việt Nam
có thể học hỏi được những kinh nghiệm có giá trị từ những nền báo chí tiên tiến
đương thời. Ông đã từng cho đóng khung và in đậm một câu trích của thi hào
Tagore (Ân Độ) trên trang nhất tờ Đông Tây số ra ngày 3/5/1930, như một
cách phát biểu quan niệm của ông về vấn đề thu lượm những tinh hoa văn hóa nhân
loại trong thời buổi nền văn minh phương Tây đã tràn vào Việt Nam: “Ta nên nhận
rằng thứ văn hóa cổ không hợp với tình thế ngày nay nữa, nó phải biết thu lấy
thứ văn hóa mới của thế giới, đó là cái nghĩa chính về sự tiến bộ trong loài
người”. Theo
tinh thần đó, tờ Đông Tây đã đề cập đến khá nhiều những vấn đề thuộc về lĩnh
vực văn hóa, và nó chính là tờ báo đã cung cấp cho bạn đọc nhiều nhất - vào
thời điểm đó - những thông tin về báo chí nước ngoài. Trên số ra ngày 27/1/1932, Đông Tây
có bài Murayama - ông vua
báo Nhật nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập tờ Asahi, tờ báo
lớn nhất của xứ Phù Tang. Chắc chắn những thông tin về tờ báo này sẽ gây sửng
sốt cho bạn đọc lúc ấy: “Vốn 6 triệu yên, 3.795 người làm, 40 bộ máy in, 19
chiếc tàu bay, 500 con chim bồ câu để đi thông tin và một đường dây nói riêng
từ Tokyo đến Osaka, đó là qui mô vĩ đại của tờ báo Asahi, tờ báo lớn nhất của
Nhật Bản, và đó là công cuộc 50 năm nỗ lực không biết mệt của ông Murayama”. Người
ta có thể thấy đằng sau bài báo này một mơ ước của Đông Tây (và Hoàng Tích
Chu), dường như nó cũng ngầm đưa ra một thông điệp: con đường mà Murayama và tờ
Asahi đã đi - với tính mục đích của một tờ báo trong hoàn cảnh không mấy khác
nước ta ở điểm xuất phát - không phải là điều không tưởng đối với báo giới Việt
Nam.
Những vấn đề
thuộc về kỹ thuật nghề nghiệp cũng được Hoàng Tích Chu quan tâm. Dĩ nhiên, là
người được đào tạo bài bản, ông có điều kiện hơn hết khi nói về những “ngón nghề” có thể giúp
ích ít nhiều cho những đồng nghiệp của ông phần đông còn đang hoạt động trong
tình trạng thiếu chuyên nghiệp ở ta. Trong bài viết Hai góc trời hai hạng phóng sự,
Đông Tây (số ra ngày 16/01/1932)
đã giới thiệu những điểm khác nhau trong cách làm tin và phóng sự giữa các nhà
báo châu Âu và châu Mỹ. Những nhận xét khá thú vị, chẳng hạn: “Bên châu Âu,
muốn đương nổi cái chức trách một người đi “nhặt tin chó
chết” phải
có học, học rộng (...) Trái lại, nhà phóng sự các báo bên Mỹ không thế. Họ
chẳng cần phải có học vấn rộng. Mà lại phần nhiều là những người vô học hay ít
học mới chịu chạy đi “nhặt tin chó chết” (...) vậy mà các báo bên Mỹ vẫn
có đủ tin tức mau chóng một cách lạ thường”. Có điểm khác
biệt này là bởi “Nước
Mỹ là một nước rất tiến bộ về đường máy móc. Một ly một tí gì cũng làm theo
phương pháp khoa học và vì thế các nhà báo Mỹ cũng “ở trong guồng máy tri thức (...) Một tin vặt trước khi xuất hiện trên mặt
báo đã phải qua tay năm bảy người gọt nặn”. Bài báo kết luận: “Các phóng sự
Mỹ có giống các phóng sự châu Âu là ở tính lanh lợi, lòng mạo hiểm của họ. ở
hai góc trời, châu Âu và châu Mỹ, nghề làm báo cùng tiến bộ mà sao phương pháp
làm việc lại khác nhau!”. Đây chỉ là một trong không ít ví
dụ cho thấy những nỗ lực của Hoàng Tích Chu trong hoài bão đóng góp sự biết sự
học của mình vào việc đưa hoạt động báo chí ở nước ta lên tầm chuyên nghiệp.
Hoàng Tích Chu
ý thức được một xã hội tiến bộ là một xã hội mà mọi ngành nghề phải có tính
chuyên nghiệp cao, mọi công dân đều phải sống với nghề của mình. Quan niệm này
đã được ông bộc lộ từ khá sớm trong bài báo Vì sao phải chọn nghề cho con trẻ?: “Bọn thiếu
niên phải nhận lấy cái chức trách tìm tia ánh sáng, phải chọn cái nghề nghiệp
hợp với tài năng, để đến khi đầu bạc, bước ra khỏi vòng hoạt động, ta có thể
nói được cái câu này: “Tôi còn muốn hăng hái ra làm việc
nữa! Mà kiếp sau có làm người thì tôi vẫn con đường này tôi đi, tôi vẫn cái
nghệ kia tôi làm”. Với nghề làm báo, điều đó lại
càng đúng. Nó không chỉ là nghề, mà còn là cái nghiệp.
Những người
làm báo trước và cùng thời với Hoàng Tích Chu phần nhiều xuất thân Nho học và
một số xuất thân Tây học. Dẫu xuất thân từ nguồn nào thì ở giai đoạn giao thời
ấy, họ vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng của lối đào tạo truyền thống, lối đào tạo mà
Đông Tây từng chỉ trích là “cái học khoa cử, cái học hư danh”. Những người này đến với báo chí trước hết bằng cả một tinh thần “túy tâm văn
hóa”, và
sau nữa như một nghề kiếm sống, với không ít bỡ ngỡ trước một hoạt động văn hóa
còn rất mới. Tuy nhiên, là sản phẩm của lúc giao thời lại có nhiều ngỡ ngàng,
không phải ai trong số họ cũng có được ngay một cái nhìn chân xác về công việc
làm báo. Cũng là cầm bút, nhưng họ có xu hướng đề cao các sáng tạo văn chương,
học thuật hơn là “viết
nhật trình”.
Hoàng Tích Chu nhận thấy thực trạng này và ông hiểu rằng muốn cách tân nền báo
chí Việt Nam thì phải có những con người xứng đáng phụng sự cho nghề báo -
những người nhận thức được sứ mạng của nhà báo và có tính chuyên nghiệp cao,
những người toàn tâm toàn ý đóng góp tâm trí mình cho lĩnh vực này.
Trọng nghề, đó
cũng chính là biểu hiện cao nhất của lòng tự trọng ở người làm nghề, là trung
thành với lý tưởng nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn trên đường đời. Trước sau
Hoàng Tích Chu đã nhiều lần bày tỏ quan điểm này. Trong bài Thử ngẫm về cuộc bút chiến của hai tờ báo đã
dẫn, ông đã viết những dòng thống thiết trước các đồng nghiệp: “Khi ta đã cùng
nhau dấn mình vào tập cái nghề này, tuy không phải tuyên thệ trước tòa án như
các luật sư, nhưng trước bàn thờ bà Chúa Báo, chúng ta con một nhà, đã ký kết
một bản giao kèo thầm: Tôi xin trọng nghề!”. Thái độ này
và những hành xử nghề nghiệp mang tính dấn thân của Hoàng Tích Chu đã có những
tác động rất đáng kể đến các nhà báo đương thời, nhất là các nhà báo trẻ. Trong
nhiều hồi ký báo chí sau này của các nhà báo thành danh (Phùng Bảo Thạch, Vũ
Bằng, Tế Xuyên...), chúng ta thấy họ đều thừa nhận đã chịu ảnh hưởng của Hoàng
Tích Chu như thế nào, trong đó có một điều quan trọng: Hoàng Tích Chu đã góp
phần giúp họ ý thức được vị thế của nghề báo và của người làm báo.
Là một nhà
cách tân, Hoàng Tích Chu dễ dàng nhận thấy tình trạng không rõ ràng giữa Văn và
Báo, giữa phương cách hoạt động của Nhà văn và Nhà báo còn tồn tại trong thời
buổi báo chí nước ta đang đi những bước ban đầu. Bao lớp trí thức trước và đồng
thời với ông đã ôm mộng văn chương bước vào nghề báo. Đó là biểu hiện rõ nhất
và kéo dài trong tính thiếu chuyên nghiệp của báo chí nước ta. Ông đã từng
khuyên một người như thế - Tế Xuyên - khi thanh niên này bước vào làng báo mà
vẫn chưa hiểu rõ công việc: “Anh nên kiếm đề tài sinh hoạt trong dân chúng mà viết
những bài phóng sự, còn nếu anh chuyên chú vào tiểu thuyết, anh sẽ khó thành
một nhà viết báo được”. Hơn nữa, dưới con mắt chuyên nghiệp, ông đã giúp nhà
báo trẻ phân biệt được công việc viết văn và viết báo: “Kẻ viết văn
lắm khi không phải là kẻ viết báo, dù là khi mình viết báo, điều tối thiểu là
phải biết viết văn. Nhưng con nhà báo còn phải có lối viết riêng nữa: sáng sủa,
rõ ràng, khúc chiết và dễ hiểu. Hơn nữa, nhà báo không sống bằng tưởng tượng
quá nhiều như nhà văn mà phải sống thiết thực, có óc khoa học và quan sát tinh
vi”.
Những nhận xét của Hoàng Tích Chu quả thật là rất mới so với lúc bấy giờ, khi
mà ngôn ngữ thông tấn còn là một điều khá xa lạ với bạn đọc và với không ít các
nhà báo, khi mà lối viết kiểu văn chương biền ngẫu vẫn tràn ngập trên các trang
báo và vẫn tỏ ra hợp khẩu vị với nhiều người.
Tất cả những
quan niệm mang tính cách tân của Hoàng Tích Chu về nghề báo, về người làm báo
và cách làm báo, đã được ông thực thi khá triệt để trên tờ Đông Tây. Có người
đã ví sự xuất hiện của tờ báo này giống như “một quả tạc đạn ném vào làng báo
Việt Nam” đương
thời. Ông với các cộng sự đồng quan điểm (Tạ Đình Bính, Phùng Bảo Thạch, Tam
Lang, Vũ Bằng, Tế Xuyên, Lãng Nhân và đặc biệt là Đỗ Văn - người lo trình bày
in ấn) đã trình làng một tờ báo tiếng Việt được coi là hiện đại bậc nhất lúc
ấy, “như
một tờ báo bên Tây”. Một
cái mới xuất hiện không dễ gì đã được số đông chấp nhận ngay, phải mất một thời
gian, tờ Đông Tây mới thật sự khẳng định được vị trí của nó trong làng báo và
trong xã hội. Có thể coi đó là một hiện tượng trong đời sống văn hóa Việt Nam,
khi mà Đông Tây và những người chủ trương đã đi tiên phong trong việc không
lưỡng lự tiếp nhận và học hỏi những kinh nghiệm từ một nền báo chí hiện đại bên
ngoài để làm mới mình và họ đã làm mới một cách thành công, phù hợp với bước đi
của thời đại./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét