Những người sống ở Sài Gòn
- Gia Định lâu không ai là không biết đến cái địa danh Xóm Gà. Đây là vùng đất
thuộc làng Bình Hòa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định khi xưa. Xóm Gà cách chợ Bà
Chiểu - Lăng Ông bốn cây số và cách trung tâm Sài Gòn 10 cây số. Xóm Gà là một xóm quê, nhưng có đường lộ rải nhựa, xe ngựa, xe hơi đi lại
thuận tiện, lại có một chợ tuy nhỏ nhưng người mua kế bán cũng khá đông, đa số là dân thôn quê quanh vùng Gò Vấp. Nhà cửa ở đây xen lẫn những ngôi nhà tranh,
nhà gỗ và lợp tole, những căn nhà làm bằng vật liệu nhẹ đê cho thuê - người
thuê đều là dán nghèo tứ xứ tới đây. Sáng lên Sài Gòn - Chợ Lớn làm tôi mới về
ngủ qua đêm. Xuất xứ của cái
tên “Xóm Gà” là gì thì cho tới nay chưa có tài liệu nào nói rõ. Có người nói,
vì trước đây ở xóm này có chợ bán gà từ các vùng quê lân cận mang tới bán buôn
cho người từ Sài Gòn mua về. Nhưng cũng có người nói trước đây, ở xóm Bình Hòa,
có một khu đá gà của các tay máu mê cờ bạc, thường Chủ nhật, ngày lễ, ôm gà tới đá độ, ăn thua bạc ngàn
(tiền thời đó). Có điều chắc chắn là Xóm Gà khi xưa, cách đầy gần một thế kỷ,
đã nổi tiêng là xóm anh chị, cờ bạc,
những người lạ mặt không dám lui tới.
Nói đến những tay anh chị gầy sòng bạc, cá độ gà... ở Ngã Năm Bình Hòa, Xóm Gà Gò Vấp, người ta vẫn còn nhớ các tên Năm Tôn, Ba Giáp... Những tay này đã chiếm cứ một vùng Xóm Gà và dưới tay Năm Tôn, Ba Giáp có hàng chục đàn em, lúc nào
cũng sẵn sàng đứng mũi chịu sào cho “Đại Ca” một khi có một nhóm du côn (ngày
nay gọi là mặt rô) ở
vùng khác tới gây sự.
Xóm Gà càng nổi danh, vì đã từng có nhiều văn nhân, ký giả tên tuổi khắp
Bắc Trung Nam tới cư ngụ. Như các nhà văn Phan Khôi, Diệp Văn Kỳ, Tùng Lâm Lê
Cương Phụng, Tế Xuyên Hoàng Văn Tiếp...
Lý do khá đơn giản: Nơi đây dất rộng người thưa, cảnh vật yên tĩnh, có chợ búa buôn bán gà, heo, cá... đủ thứ, nhà
thuê lại rẻ - khoảng 20 đồng một tháng là có một căn nhà rộng ba gian để ở, mát mẻ lại có vườn rộng.
Điều lý thú hơn nữa là nơi đây lại chính là chốn tạm dừng chân của nhà thơ tên tuổi lẫy lừng: Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu - trong thời gian ông vào đất Nam Kỳ làm báo. Trong tập hồi ký của nhà báo Tế Xuyên đã viết về thi sĩ Tản Đà những ngày đó như sau:
“... Một hôm vào năm 1930 - 1931, tôi ngồi giải khát với hai ông Diệp Văn Kỳ
và anh bạn Như Hoa Nguyễn Văn Đồng, người cùng cộng sự trong một tòa soạn với
tôi. Đã quen biết trước với Bùi Thế Mỹ, hôm ấy là lần đầu tiên tôi gặp Diệp
quân mà tôi nghe từ lúc còn ở Hà Nội.
Tánh tò mò là tánh chung của con nhà làm báo, đã thúc tôi moi chuyện ông chủ nhiệm tờ Đông Dương Thời Báo về sự gặp gỡ giữa ông và ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
“Hồi ấy, tuy báo Thần Chung đã “qua đời”
làm cho ông Diệp Văn Kỳ gần như muốn sạt nghiệp, nhưng ông vẫn có tác phong của một kẻ tài hoa phóng túng. Ông mỉm cười,
nhỏ nhẹ thuật lại cho tôi nghe câu chuyện cũ:
“Sự gặp gỡ của chúng tôi thật là chuyện tình cờ, có thể nói là do duyên trời đưa đến. Chiều hôm ấy, vào năm 1926, tôi và một vài bạn làng văn ngồi uống rượu ở nhà hàng
Continental, đường Catinat (Đồng Khởi hiện nay). Chúng tôi ngồi dưới mái hiên,
nhìn qua bên đường, kẻ đi người lại, trong đám đông tôi bỗng để ý đến một người bận quốc phục, khăn đen.
Anh cử Tùng Lâm như liên cảm với
tôi, buột miệng nói: “Thi sĩ Tản Đà đó!”. Vồn dĩ yêu thơ Tản Đà bấy lâu nay,
tôi bèn kêu anh bồi bảo chạy theo
ông và mời ông đến bàn tôi
nói chuyện.
“Bấy lâu mến tài thi sĩ của Tản Đà, nay Diệp Văn Kỳ mới thấy còn người của
Tản Đà “bằng xương bằng thịt”. Hai
bên chủ khách, được ông Tùng Lâm
giới thiệu, rồi Diệp Văn Kỳ mời ông Tản Đà một ly rượu mạnh. Ông hỏi thăm nhà thơ từ Bắc vào Nam có việc gì?
Trong lúc men rượu đã giúp ông mạnh dạn, ông Tản Đà dốc bầu tâm sự như nói với một người bạn thân
thiết: “Tôi nghỉ xuất bản An Nam Tạp
Chí rồi mà còn nợ của ông Bùi Bồ chừng nghìn rưởi bạc. Tôi có quen ông Nguyễn Thành Út ở Vĩnh Long, nên vào đây định vay tiền ông ta để trả nợ. Nhưng xuống tới Vĩnh Long lại không gặp ông ta. Tôi
trở lên Sài Gòn thì cũng chẳng nên cơm cháo
gì vì ông Út lúc này cũng túng không thể giúp tôi
được”.
Ông Diệp Văn Kỳ bèn nảy ra
một sáng kiến: nâng đỡ
nhơn tài. Ông liền đề nghị với
Tản Đà để ông tặng nhà
thơ số tiền trang trải công nợ. Ông yêu cầu Tản Đà
khi hết nợ rồi, vào Nam viết cho tờ Đông Pháp Thời Báo (Ông chỉ yêu cầu thôi chớ không đặt thành điều kiện). Trong lúc đã cạn ly
thứ ba, ông Tản Đà cao hứng nhận lời ngay.
Và ông Diệp Văn Kỳ mở bóp ra, lấy hai xấp giấy bạc trao vào tay nhà thơ một
cách tự nhiên như hai người bạn đã quen biết nhau từ lâu. Ông
Tản Đà cầm lấy, cũng không cần ngạc nhiên gì hết. Các văn
hữu cùng ngồi uống rượu không cho là việc lạ vì ai cũng biết tánh phóng
khoáng của chủ nhiệm Đông Pháp
Thời Báo trong sự đối xử với bạn làng văn.
“Hai ngàn bạc hồi 35 năm trước, khi mà tách cà phê đen giá có một xu, là
một số tiền rất lớn, vậy mà ông Kỳ trao thẳng tay ông Tản Đà
không một điều kiện, không một biên lai.
“Sau đó, ông Tản Đà đứng dậy cáo từ người bạn mới và hẹn khi ra Bắc thu xếp
công việc ông sẽ vào liền...”.
Trên đây là những đoạn trích trong tuần san Văn Đàn số 5, trang 10, ngày 8/7/1960, xuất bản tại Sài Gòn. Đến khi giở chồng báo cũ, thấv trong Tao Đàn số đặc biệt về Tản Đà ở Xóm Gà Nam Kỳ như sau:
Với một nghìn đồng bạc của ông Diệp Văn Kỳ đưa tặng (theo ông Tế Xuyên là hai
nghìn đồng mới đúng), ông Tản Đà lại trở về Bắc để trang trải cái nợ của An Nam Tạp Chí.
“Chẳng ngờ khi tôi vào đến
Sài Gòn, ty kiểm duyệt trong ấy không nhận
duyệt bài của tờ báo ngoài Bắc. An Nam Tạp Chí
không thể ngụ cư ở đó. Ông Tản Đà mới giới thiệu vào viết với ông cái trang văn chương trong Đông Pháp Thời Báo của ông Diệp Văn Kỳ.
“Ở chỗ này hình như cần phải nói
đến tiền. Là vì trong những cái khác người của ông Tản Đà, đức tiêu tiền cũng
nên để ngang với tài thơ và tài rượu.
“Bấy giờ ở
Đông Pháp Thời Báo, lương của tôi là 80 đồng, của
ông Tản Đà một trăm và ngoài ra, mỗi
tháng ông còn vay riêng của ông Diệp Văn Kỳ thêm một trăm nữa. Vậy là hàng tháng, chúng tôi có đến 280 đồng. Nhưng
không tháng nào mà ông Tản Đà không phải lật đật đi chạy tiền nhà. Cái nhà của chúng tôi ở kế tiếp với Xóm Gà, nó là một nơi nhà quê thuộc làng Bình Hòa,
cách Bà Chiểu 4 cây số và cách Sài Gòn độ 10 cây số. Nhà có 4 gian. Một gia đình ông và tôi thuê một gian thì cũng hơi chật, nếu thuê hai gian thì đủ lắm rồi. Nhưng vì tòa nhà ấy mới làm xong, chúng tôi
là khách đến ở đầu tiên, cho nên ông Tản Đà nhất định thuê cả bốn gian: một gian làm buồng, một gian làm buồng giấy, một gian làm buồng ăn, còn một gian nữa thì để mắc một cái võng đem ở Bắc vào.
“Theo sự sắp đặt ấy, sau khi nhà đã thuê xong, ông Tản Đà liền đi
mượn người phá mấy bức tường
ở giữa để lấy đường thông
gian nọ sang gian kia và lây gạch xây cái bể cạn.
“Giá nhà này cũng không lấy gì làm đắt, tất cả bốn gian có hai tám đồng. Với số lương của chúng tôi, nó là một phần mười chứ gì. Thế
mà tháng nào cũng phải khất độ
vài bốn hẹn.
*
“Tôi còn nhớ, một hôm chủ nhà thúc giục
riết quá, ông Tản Đà, sau khi đă ăn cơm tôi, phải thân hành lên tận Sài Gòn
xoay tiền. Vào khoảng 11 giờ đêm thì thấy ông về với chai rượu Rhum, con vịt
quay và vài món khác. Mới thoạt vào cửa, ông liền nói với tôi bằng giọng ngạc
nhiên:
Hỏng cả ông ạ!
Tôi hỏi cái gì thì ông thản nhiên cắt nghĩa:
Chỉ vay được hai chục đồng, trả tiền nhà cũng thiếu tám đồng, tôi mua ít đồ
đánh chén, tất cả hết hai mươi đồng...
“Rồi ông gọi cu Vang - một đứa đầy
tớ tâm phúc của ông, lúc ấy đã gần ba
mươi tuổi - sắp sửa mâm bát và đem con
vịt quay ra chặt.
Chén đã! Tiền nhà rồi lại xoay!
“Dưới ánh trăng vằng vặc của tiết cuối năm, chúng tôi ngất nghểu trên
chiếc chõng tre kê ở giữa sân
với chai rượu Rhum và cái ngông của ông Tản Đà, tưởng như vũ trụ không lấy gì làm lớn.
Anh em trong Nam hồi ấy hình như đều coi cái ngông là sự đương nhiên, nên không ai cưỡng lại.
Có lần ông cử Tùng Lâm đã bị mắng oan vì nó.“Bấy giờ, ông Tản Đà tuy coi phụ trang văn chương của Đông Pháp Thời Báo nhưng công việc xếp đặt trang báo ấy thì ở ông cử Tùng Lâm. Một hôm vì thiếu bài, ông Tùng Lâm mới phái thợ in vào một bài thơ lai cảo. Khi báo ra, ông Tản Đà hạch ông Tùng Lâm về sự
chuyên quyền ấy. Ông này cãi rằng bài thiếu, báo cần lên khuôn tôi không thể xuống tận Xóm Gà để hỏi bài của ông.
Ông Tản Đà lấy làm tức
giận và mắng thêm:
Nếu thiếu bài thì bỏ
trông đây cho tôi. Không xin phép tôi mà cho bài thơ kia vào đây, thế là ông hỗn.
Ông Tùng Lâm chỉ cười.
Lại một lần, nhằm ngàv mồng một tết âm lịch, anh em tòa soạn Đông Pháp Thời Báo đến thăm ông Diệp Văn
Kỳ. Trong khi ông Kỳ mở các thức
rượu ra uống, ai nấy đều say
loáng choáng, cố nhiên say nhất thì ông Tản Đà. Ông Bùi Thế Mỹ đến sau, liền bị ông Tản Đà đùa giỡn đuổi bắt. Cái gác mà chúng tôi ngồi
tuy rộng, nhưng những thông chóe và các đồ đạc bày ra gần chật. Trong lúc ông Tản Đà đuổi theo ông Mỹ, ba bốn anh người nhà ông cứ phải chạy riết theo chân hai ông để giữ những thứ đồ kia, vì sợ các ông ấy va vào nó. Bà Diệp Văn Kỳ ngồi trong vỗ tay reo. Ông Đào Trinh Nhất thì tủm tỉm cười nụ.
“Nóng máu là ông Trần Quỳ, thấy ông Tản Đà diễn mãi trò, ông Quỳ cau mày và gắt:
Làm cái gì thế? Người ta coi cinéma kia kìa.
“Ông Tản Đà vần không tha ông Mỹ và trả lời ông Quỳ thế này:
Ông phải biết, cái thằng
trong cinéma nó không biết người là gì cả.
Nhất sinh tơ tưởng Tản Đà có thể thu vào câu đó. Chính ông đă tự coi ông là
một người bóng trong phim cinéma, quốc dân xã hội, mà cả thế giới nữa đều là những người ở ngoài. Như thế, tôi cũng không muốn nói nhiều về ông”.
Cùng trong thời gian Tản Đà ở Xóm Gà làm báo với ông Kỳ. Ông Tế Xuyên kể lại một giai thoại rất hay như sau về
nhà thơ:
“Vào Nam làm báo” nhưng ông Tản Đà không có gì là cốt cách của một ký giả tân văn như các ông Đào Trinh Nhất, Bùi Thế Mỹ... Sanh ra là nhà thơ, có tài
làm thơ thì vào một tờ nhật báo, ông cũng chỉ là nhà thơ không hơn không kém. Ông Diệp Văn Kỳ rước ông vào Tòa soạn cũng chỉ mong báo Đông Pháp Thời Báo được những nét bút tài hoa tô điểm “trường Văn chương” với hai chữ ký “Tản Đà” đã lừng danh từ Nam chí Bắc với một
bài thơ mỗi tuần, còn ông Tùng Lâm phụ tá, và cả ông Ngô Tất Tố nữa. Ông chủ nhiệm Đông Pháp Thời Báo dám tỏ bụng liên tài, thù lao Tản Đà mỗi tháng một
trăm đồng (bằng lương chủ quận, hồi đó một viên thư ký ăn lương có mười hai
đồng). Ây vậy mà lắm khi báo sắp lên khuôn, tòa soạn vẫn chưa có thơ Tán Đà, ông Diệp Văn Kỳ cho tùy phái ba
lần, bốn lượt vào tận nhà của thi sĩ ở
Xóm Gà (Gia Định) để đốc thúc. Có lần Tản Đà nổi nóng, đã thốt ra một câu nói lịch sử: “Làm thơ đâu phải bửa củi mà muốn lúc nào có lúc đó!”.
“Mà khố nỗi trương Văn chương Đông Pháp
Thời Báo thiếu thơ Tản Đà tức là mất hết
đặc tánh của nó. Tiểu thuyết Phú Đức đã có phen gây thăng trầm cho mấy tờ báo Sài Gòn
cách đây 30 năm, thì thơ Tản Đà cũng gây uy tín cho tờ báo của ông Diệp Văn Kỳ
không kém!”.
Làm báo với ông Diệp
Văn Kỳ ít lâu, Tản Đà lại khăn gói trở ra Bắc để hy vọng tục bản tờ “An Nam
Tạp Chí” của ông. Nhưng Tản Đà vẫn nhớ cái Xóm Gà nên trong khi đi xe lửa về Bắc, lúc
tàu tới Nha Trang, Tản Đà đã cám hứng
sáng tác một bài thơ đề là:
Gởi tòa soạn ĐÔNG PHÁP THỜI BÁO
“Xóm Gà tan giấc rạng vầng ô,
Tối đến Nha Trang rượu một bồ
Trợ bút Đà xin từ bác
Diệp
Văn chương để
lại cậy thầy Ngô
Dám quên “Đông Pháp”
người tri kỷ
Riêng nhớ “An Nam” bức địa đồ
Hai chuyến chơi Xuân Thìn với Mão
Đi ra còn nhớ mãi
đường vô”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét