Khiemnguyen

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

Các giai đoạn phát triển của báo giới Việt trước năm 1945



Từ bước tiến tới ca báo gii Việt Nam
đến nhng vết biến thiên ca quốc văn trên trang báo, chí”


(Hoa Bằng)
Sau cuộc Nga Nhật chiến tranh (1904 - 1905), x ta, khoảng năm 1907 - 1908, nổi dậy cái phong trào ruồng khoa cử, chuộng quc văn. Báo chí quốc văn ln lượt khai sinhvào “sổ” ngôn luận từ đó.
Trước đây độ 34 năm, làng báo Việt Nam hãy còn như “con nhà hiếm. Toàn xứ lác đác mới có vài t báo do chính ph lập ra, ch có nh cách là những t công báo, làm cơ quan rao truyền công vic cai trị ca nhà nước.
Trong Nam, có tờ Gia định báo (t năm 1865) của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, một tên lính tiên phong trong đội quân báo chí x này. Sau đến những tờ Nông c mín đàmLục tnh tân văn cũng đều là nhng tay kỳ cựu c.
Bc kỳ, hồi đó, trừ my tờ báo viết bằng chữ Pháp do ni Tây chủ trương như Courrier d’Haiphong và Avenir du Tonkin, về phần người Nam, mi chỉ có một t Đăng c tùng báo viết bằng chữ hán và tĐại Nam đng văn nht báo có một phần viết bng quc văn.
Tờ ng báo do ông Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút (1908) chính là những nhát cuc khai hoang trong làng báo quốc văn Bc kỳ.
Sau đó, những tờ Đông dương tạp chí Trung bắc tân văn mi dần dần lơ thơ mọc trong địa hạt báo giới Nam Việt.
Thời gian qua. Làng báo ta nay đã ngày một đa đinh vì có vẻ sum suê thịnh vượng hơn trước.
Dựa vào báo chí, ta nhn thy trong vòng hơn 30 năm nay, quc văn đã biến thiên nhiều lắm. Có th chia làm từng thời kỳ đ đánh dấu những vết biến thiên ấy.
1. Thời k phng theo cú pháp và văn th tàu.
Đó là thời kỳ đầu tiên ca làng báo ta. Trong nhng cây bút quốc văn by giờ, trừ một vài nhà đặc tây học viết văn theo lối tự nhiên, giản dị nhưng không kêu ra, hầu hết các nhà báo có nho học đương thời đều viết theo văn th tàu c. Từ cú pháp đến điệu văn, họ đều rập theo li tàu. Đồng thời họ lại gieo gic vào quốc văn những thành ngữ và đin tích trong sách chữ hán: Nhạn sa, cá lặn; ngm gió, cợt giăng; bạn vớiu Linh; con thuyền Xích  bích...
Còn các tân văn tiu thuyết? Hầu hết là dịch theo tiểu thuyết tàu mà đăng lên báo. By giờ họa hoằn mới có một sản phẩm như cuốn Trần Hưng Đạo vương truyện của ông Phan Kế Bính. Nhưng nội dung truyện này, từ hành văn cho đến bố cục, lại theo đúng hệt khuôn sáo ca Tàu.
2. Thời kỳ thâu thái những danh từ mới
Từ năm 1907 trở đi, sau những cuộc c động đi mới, người mình chịu nh hưởng của những cun sách do các nhà tiên tiến trong nước viết bằng chữ hán như Văn minh tân học sách, Nam  quc giai sự, Nam quốc vĩ nhân truyện, Quốc dân độc bản thượng biênhạ biên (sách trường Bác c số A.174) đã bt đầu làm quen với các danh từ mi: bán khai, thực dân, giệt chng, kinh tế, lập hiến chính thể, cộng hòa chính thể
Hồi Âu chiến trước (1914  - 1918) tờ Nam phong ra đời (N. p. số 1 ra ngày ler Juillet 1917) lại tiếp tục làm công việc truyn bá danh từ mới y. Vic làm này của Nam phongảnh hưởng rộng hơn, vì đã có tờ báo làm cơ quan, lại ly tiếng mẹ đẻ làm lợi khí, nên những danh từ về triết học, khoa học, văn học được nhập cảng khá nhiều.
3. Thời kỳ nhặt lượm những thành ng và mô phỏng cú pháp của văn tây
Trên tờ Thực nghiệp dân báo, người ta đã mạnh bạo ng dụng những thành ngữ trong pháp văn, như: nói vịt, xây lầu…. Có khi lại theo li tây mà đặt chữ nếu, chữ dẫu đầu câu phụ đi theo sau câu chính.
4. Thời kỳ cải cách thể văn xuôi
Trước hết, t Đông Tây của Hoàng Tích Chu, có th văn xuôi, nht là li văn viết báo thường hay chú trọng về lối biền ngẫu đi nhau: chữ lựa cho thật trọi, vế gióng cho thật cân. Đọc lên, người ta thấy có âm điệu kêu ròn vì khéo hòa hiệp bằng trc, như đọc một bài tứ lc.      
Hồi năm 1926, Hoàng Tích Chu từ Pháp về nưc nhà, mang theo cái hoài bão ci cách lối văn viết báo. Trước Ngọ báo, sau Đông Tây (vào khong 1932), Tích Chu đã mạnh bo thực hành li văn xuôi mi: viết theo điệu văn tây từ ngữ th đến cú pháp. Vì Tích Chu đã cực đoan, nên câa văn không khỏi nhấm nhẳn gióng một và lc cấc. Nhưng sau cuộc ci cách y, văn giới và báo giới không phẳi không chịu nh hưng. Một chứng cớ: từ đó, li văn đi nhau dần dần khuất bóng trên các mặt báo.
5. Thời k cải cách văn vần
Từ năm 1933, đi kèm với những tiếng hài hước trào phúng, li thơ mi, tức th thơ tự do, được thành lập. Li thơ này chịu ảnh hưởng rất nhiều của thơ pháp, nên từ cách dùng chữ, đặt câu, đến li ngừng hơi và gieo vần, có th nói, hoàn toàn theo Tây cả. Trong phái thơ mới, trừ một s ít có chân tài đáng k ra, phần nhiều đã lạm đụng cái danh nghĩa thơ tự do làm cho nó thành tản văn hóa với những chữ cu kỳ không đúng nghĩa và những ý rỗng tuếch nhưng ngớ ngẩn, vu vơ... Dẫu vậy, nhờ có cuộc cải cách văn vn này thơ ca ta nay đã đsáo, đbó buộc, đỡ chật hẹp, và thêm vào những ý mới, lời đẹp và giọng êm...
Báo giới ta cũng đã tiến bộ! Quốc văn ta cũng đã trải nhiều bước biến thiên. Cuộc đời là một cuộc tiến, có tiến mới sống còn được. Báo gii và quốc văn cũng phi chung một công lệ y.
Làm cho quốc văn ngày một tiến, ngày một đến được tận thiện, tận mỹ, công việc y, trách nhiệm ấy dương trút trên vai chúng tanhững ngưi sau chúng ta./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét