“Từ bước tiến tới của báo giới Việt
Nam
đến những vết biến thiên của quốc văn trên trang báo, chí”
|
(Hoa Bằng)
|
Sau cuộc Nga Nhật chiến tranh (1904 - 1905), ở xứ ta, khoảng năm 1907 - 1908, nổi dậy cái phong trào ruồng khoa cử, chuộng quốc văn.
Báo chí quốc văn lần lượt “khai sinh” vào “sổ” ngôn luận từ đó.
Trước đây độ 34 năm, làng báo Việt Nam hãy còn như
“con nhà hiếm”. Toàn xứ lác đác mới có vài tờ báo do chính phủ lập ra, chỉ có tính cách là những tờ công báo, làm cơ quan rao
truyền
công việc cai trị của nhà nước.
Trong Nam, có tờ Gia định báo (từ năm 1865) của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, là một tên lính tiên phong trong đội quân báo chí xứ này. Sau đến những tờ Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn cũng đều là những tay kỳ cựu cả.
Ở Bắc kỳ, hồi đó, trừ mấy tờ báo viết bằng chữ Pháp do người Tây chủ trương như Courrier d’Haiphong và Avenir du Tonkin, về phần
người Nam, mới chỉ
có một tờ Đăng cổ tùng báo viết bằng chữ hán và tờ Đại Nam đồng văn nhật báo có một phần viết bằng quốc văn.
Tờ Tùng báo do ông Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút (1908) chính là những “nhát cuốc khai hoang” trong làng báo quốc văn ở Bắc kỳ.
Sau đó,
những tờ Đông dương tạp chí và Trung bắc tân văn mới dần dần lơ thơ mọc trong địa hạt báo giới
Nam Việt.
Thời
gian qua. Làng
báo ta nay đã ngày một “đa đinh” vì có vẻ sum suê thịnh vượng
hơn trước.
Dựa vào
báo chí, ta nhận thấy trong vòng
hơn 30 năm nay, quốc văn đã biến thiên nhiều lắm. Có thể chia
làm từng thời kỳ để đánh
dấu những vết biến thiên ấy.
1. Thời kỳ phỏng theo cú pháp và văn thể tàu.
Đó là thời kỳ đầu tiên của làng báo ta. Trong những cây bút quốc văn bấy giờ, trừ một vài nhà đặc tây học viết văn theo lối tự nhiên, giản dị nhưng không kêu ra, hầu hết các nhà báo có nho học đương thời đều viết theo văn thể tàu cả. Từ cú pháp đến điệu văn, họ đều rập theo lối tàu. Đồng thời họ lại
gieo giắc vào quốc văn những thành ngữ và điển tích
trong sách chữ hán: Nhạn
sa, cá lặn; ngắm gió, cợt
giăng; bạn với Lưu Linh; con thuyền Xích bích...
Còn các
tân văn tiểu thuyết? Hầu hết là dịch theo tiểu thuyết tàu mà đăng lên báo. Bấy giờ
họa hoằn mới có một sản
phẩm như cuốn Trần Hưng Đạo vương truyện của ông
Phan Kế Bính. Nhưng nội dung truyện
này, từ hành văn cho đến bố cục, lại theo đúng hệt khuôn
sáo của Tàu.
2. Thời kỳ thâu thái những danh từ mới
Từ năm 1907 trở đi, sau những cuộc cổ động đổi mới, người mình chịu ảnh hưởng của những cuốn sách do các nhà tiên tiến trong nước viết
bằng chữ hán như Văn minh tân học sách, Nam quốc giai sự, Nam quốc vĩ nhân truyện, Quốc dân độc bản thượng biên và hạ
biên (sách trường Bác cổ số A.174) đã bắt đầu làm quen với các
danh từ mới: bán khai, thực dân, giệt chủng, kinh tế, lập hiến chính thể, cộng hòa chính thể…
Hồi Âu chiến
trước (1914 - 1918) tờ Nam phong ra đời (N. p. số 1 ra ngày ler Juillet 1917)
lại tiếp tục
làm công việc truyền bá danh từ mới ấy. Việc làm này của Nam
phong có ảnh hưởng rộng
hơn, vì đã có tờ
báo làm cơ quan, lại lấy tiếng mẹ đẻ làm lợi khí, nên những danh
từ về triết học, khoa học, văn học
được “nhập cảng” khá nhiều.
3. Thời kỳ nhặt lượm những thành ngữ và mô
phỏng cú pháp của văn tây
Trên tờ Thực nghiệp
dân báo, người ta đã mạnh bạo ứng dụng những thành ngữ trong pháp văn, như: nói vịt, xây lầu…. Có khi lại theo lối tây
mà đặt chữ nếu, chữ dẫu
ở đầu câu phụ đi theo sau câu chính.
4. Thời kỳ cải cách thể văn xuôi
Trước hết,
tờ Đông Tây của Hoàng Tích
Chu, có thể văn xuôi, nhất
là lối văn viết
báo thường hay chú trọng về lối
biền ngẫu đối nhau: chữ lựa cho thật trọi, vế gióng cho thật cân. Đọc lên, người ta thấy có âm điệu
kêu ròn vì khéo hòa hiệp bằng trắc, như đọc một bài tứ lục.
Hồi năm 1926,
Hoàng Tích Chu
từ Pháp về nước nhà, mang theo cái hoài bão cải cách lối văn
viết báo. Trước Ngọ báo, sau Đông Tây (vào khoảng
1932), Tích Chu đã mạnh bạo thực hành lổi văn xuôi
mới: viết theo
điệu văn tây
từ ngữ thể đến cú pháp. Vì
Tích Chu đã cực đoan, nên câa
văn không khỏi nhấm nhẳn gióng một và lấc cấc. Nhưng sau cuộc cải cách
ấy, văn giới và báo giới
không phẳi không chịu ảnh hưởng. Một chứng cớ:
từ đó, lối văn đối
nhau dần dần “khuất bóng”
trên các mặt báo.
5. Thời kỳ cải cách văn vần
Từ năm 1933, đi kèm với những tiếng hài hước trào phúng, lối thơ mới, tức thể thơ tự do, được thành lập. Lối thơ này chịu ảnh hưởng rất nhiều của thơ pháp, nên từ cách dùng chữ, đặt câu, đến lối ngừng hơi và gieo vần, có thể nói, hoàn toàn theo Tây cả. Trong phái thơ mới, trừ một số ít có chân tài đáng kể ra, phần nhiều đã lạm đụng cái danh nghĩa “thơ tự do” mà làm cho nó thành tản văn hóa với những chữ cầu kỳ không đúng nghĩa và những ý rỗng tuếch nhưng ngớ ngẩn, vu vơ... Dẫu vậy, nhờ có cuộc cải cách văn vần này thơ ca ta nay đã đỡ sáo, đỡ bó buộc, đỡ chật hẹp, và thêm vào những ý mới, lời đẹp và giọng êm...
Báo giới ta cũng đã tiến bộ! Quốc văn ta cũng đã trải nhiều bước biến thiên. Cuộc đời là một cuộc tiến, có tiến mới sống còn được. Báo giới và quốc văn cũng phải chung một công lệ ấy.
Làm cho quốc văn ngày một tiến, ngày một đến được tận thiện, tận mỹ, công việc ấy, trách nhiệm ấy dương trút trên vai chúng ta và những người sau chúng ta./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét