Khiemnguyen

Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

Tin đồn và cơ chế hình thành tin đồn


I. Tin đồn là gì?
Tin đồn là sự khẳng định chung của một nhóm người về một vấn đề nào đó của xã hội có thể có thực hoặc không có thực, nhưng không có dữ liệu để kiểm chứng.
Tin đồn là phương thức giao tiếp bằng ngôn ngữ diễn ra hàng ngày trong ời sống, trong đó các thông tin được truyền từ người này sang người khác. Do mức độ thu nhận thông tin, do cá tính và cách nhìn nhận vấn đề của các cá nhân là khác nhau dẫn đến các đối tượng tiếp nhận nội dung thông tin theo cách hiểu của mình, và do vậy thông tin thường bị biến dạng, méo mó. 
Theo các nhà tâm lý học, các cá nhân trong khi truyền đạt thông tin cho người khác thường hay lồng vào đó ý kiến hay sắp xếp thông tin theo thói quen, sở thích của mình. Và để tăng tính " thuết phục"của thông tin mình đưa ra họ sẽ đưa vào đó những tình tiết phụ để thông tin đó trở nên hợp lý và hấp dẫn hơn. Song ở tin đồn mới chỉ là sự phát ngôn thông tin bình thường chưa có hoặc ít có sự phán xét, đánh giá của chủ thể đối với vấn đề, hiện tượng xã hội. Ví dụ:Trong năm 1942 tin đồn đã trở thành vấn đề cấp bách mang tầm quốc gia.Cuộc thị uy nguy hiểm của nó được mọi người cảm nhận thấy sau cú sốc đầu tiên từ vụ Chân Châu Cảng. Đó là các tin về hạm đội của Hoa Kỳ-ND bị "xoá sổ", rằng Washington không giám nói thật về phạm vi của sự thiệt hại và rằng Hawai đã bị người Nhật chiếm. Những câu chuyện bịa đặt trở nên phổ biến và làm hoang mang tinh thần ghê gớm. Sự kiện đau buồn này đã mang vào cuộc sống những điều xa lạ và không được chào đón, làm xáo trộn cuộc sống của hàng triệu người. Đến ngày 23/2/1942, tổng thống Rouzơven đã phải đọc một bài diễn văn phát thanh trong đó toàn bộ nội dung giành trọn để bác bỏ tin đồn này. Như vậy, tin đồn là sự kết hợp giữa "tin"-một chất liệu hỗn hợp, nhập nhằng mang tính nước đôi với nhu cầu liên kết các cảm xúc mang tính tâm lý xã hội một cách hợp lý. Và sơ dĩ nó tồn tại được trong cuộc sống vì nó phải đáng tin cậy ở một mức độ nhất định, nó có vẻ giống như thật và đang được nhiều người mong đợi. Đặc biệt trong tổ chức hầu hết các thông tin được truyền qua tin đồn là chính xác ước tính khoảng 75%.
Tốc độ lây lan của tin đồn phụ thuộc vào tính hấp dẫn, tầm quan trọng của vấn đề đối với cá nhân hoặc mức độ mơ hồ của nó đối với cá nhân. Sự mơ hồ này có thể là do việc tiếp nhận những thông tin mâu thuẫn nhau từ các nguồn khác nhau mà ta không biết nguồn nào đáng tin hơn nguồn nào. Và cũng có thể là kết quả của sự thất bại trong truyền thông hoặc của những vấn đề thiếu thông tin xác thực. Điều này thường thấy phổ biến ở những quốc gia bị chiến tranh tàn phá hoặc ở những người sống biệt lập với xã hội, những người có ít thông tin đáng tin cậy.
Các tin đồn dù trong điều kiện bình thường hay diều kiện chiến tranh đều có tính chất mang ít nhiều những thông tin bịa đặt thể hiện sự thù địch chống lại nhóm này hay nhóm khác.

Sở dĩ tin đồn lan truyền bởi vì nó thực hiện 2 chức năng sinh đôi, đó là giải thích và giải toả sự căng thẳng tinh thần mà mỗi các nhân cảm thấy. Bởi các nhà nghiên cứu cho rằng, việc qui trách nhiệm cho người khác bằng lời không phải chỉ là cách giải thích cho nỗi đau buồn của mỗi người mà còn đồng thời là cách thức giải toả về tâm lý. Chúng ta đều biết rằng sự căng thẳng tinh thần của một người được giải toả sau khi người đó tiến hành sự tra tấn bằng ngôn ngữ đối với đối tượng.Việc liệu nạn nhân của sự tra tấn bằng ngôn từ đó có lỗi hay không chỉ là vấn đề nhỏ. Việc mắng mỏ ai đó thẳng vào mặt hoặc sau lưng có đặc tính kỳ lạ là nó làm giảm tạm thời sự thù địch đối với nạn nhân hay một điều ấn tượng hơn là nó làm giảm sự thù hận đối với mọi con người và sự vật. 
Một câu hỏi đặt ra đó là sự bóp méo và phóng đại kì lạ đã xảy ra như thế nào trong đầu con người và đã dẫn đến những tổn hại gì đói với nhận thức, lương tâm của công chúng? 
Vì rất khó khăn để lần theo chi tiết của quá trình tin đồn lan truyền trong cuộc sống hàng ngày, các nhà khoa học Mỹ- Gordon Allport và Leo Postman- đã làm những cuộc nghiên cứu thực nghiệm về tin đồn trong phòng thí nghiệm. 
Các tác giả cũng thừa nhận có 5 điểm thí nghiệm không đạt khi tái tạo lại một cách cẩn trọng những điều kiện lan toả của tin đồn trong cuộc sống hàng ngày:
1. Sự ảnh hưởng của cử toạ là đáng kể, nó có khuynh hướng tạo ra sự cẩn trọng và rút ngắn hơn bản tường thuật.Khi không có cử toạ người tham gia thí nghiệm đưa ra số lượng chi tiết gấp 2 lần so với khi có cử toạ.
2. ảnh hưởng của lời chỉ dẫn khiến người tham gia thí nghiệm chính xác hoá tối đa và tạo ra sự cẩn trọng. Trong sự lan toả tin đồn bình thường, không có người thí nghiệm để xem liệu chuyện phiếm lặp lại đúng không.
3. Không có cơ hội cho người được nghiên cứu đặt câu hỏi lại cho người truyền thông tin. Bình thường sự lan toả tin đồn, người nghe có thể bàn tán với người đưa tin và nếu muốn anh ta có thể kiểm tra chéo lại.
4. Khoảng cách thời gian giữa nghe và nói lại trong tình huống thí nghiệm là rất ít. Còn trong quá trình lan toả tin đồn bình thường nó là rất lớn.
5. Điều quan trọng nhất, điều kiện của các động cơ hoàn toàn khác nhau. Trong thí nghịêm, người được nghiên cứu cố gắng mô tả chính xác.Sự sợ hãi, căm ghét, mong muốn của anh ta dường như không được khuấy động lên trong điều kiện thí nghiệm. Sự tham dự của anh ta trong việc truyền đạt tin đồn ở thí nghiệm không mang tính cá nhân và cũg không có động cơ sâu sắc.
Trong diều kiện trên, điều kiện 3 có thể được kỳ vọng sẽ làm tăng độ chính xác của bản tường trình trong tình huống thí nghiệm và sẽ sinh ra ít sự bóp méo và phóng đạ hơn trong sự lan toả tin đồn của đời sống thực.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã cho thấy: tin đồn là một quá trình bóp méo phức tạp mà trong đó có thể nêu rõ ba khuynh hướng liên kết với nhau, đó là sự rút bớt chi tiết, sự nhấn mạnh và sự sắp xếp lại.
II. Cơ chế hình thành tin đồn
a) Sự rút bớt chi tiết
Khi tin đồn lan đi nó có xu hướng ngắn hơn, xúc tích hơn,dễ nắm bắt, dễ kể lại hơn. Và do đó trong những lần thuật lại kế tiếp càng ít từ được dùng và càng ít chi tiết được đề cập đến. Thí nghiệm chỉ ra số chi tiết được ghi nhớ giảm mạnh mẽ nhất vào giai đoạn đầu của quá trình thuật lại. Sau đó số chi tiết ghi nhớ sẽ tiếp tục giảm nhưng chậm hơn trong suốt cuộc thí nghiệm. Dựa trên 11 thí nghiệm, các tác giả chỉ ra rằng có khoảng 70% số chi tiết bị loại ra sau 5 đến 6 lần thuật lại.
Trong những lần truyền tin về sau lượng thông tin ngày càng ít và đến một mức độ nào đó thì số lượng thông tin giữ không đổi, nó được nhiều người sau học thuộc như một con vẹt và cứ thế nhắc đi nhắc lại. Tuy nhiên cần khẳng định rằng sự rút gọn trong tin đồn chưa bao giờ tiến tới điểm xoá sạch tin đồn. Bởi trên thực tế mỗi khi tin đồn được truyền đi trong một nhóm người thì dù là tin đồn huyền thoại hay tin đồn bình thường chúng cũng sẽ biến đổi theo hướng ngắn hơn và xúc tích hơn.
b)Sự nhấn mạnh
Sự nhấn mạnh là sự cảm nhận, lưu giữ và như là số chi tiết được trần thuật lại có lựa chọn từ một ngữ cảnh rộng lớn. Sự nhấn mạnh chắc chắn xảy ra nghịch đảo với quá trình rút bớt chi tiết. Hay nói là sự tăng thêm một số chi tiết chiếm vị trí trung tâm trong ý nghĩa của những lời đồn, điều này còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố.
Các cách thức nhấn mạnh trong tin đồn:
-Việc lưu giữ lại những yếu tố kỳ quặc, những thông tin gây chú ý xuất hiện lúc ban đầu trong chuỗi truyền miệng.
- Sự thay đổi về con số theo hướng gia tăng, chẳng hạn tăng số lượng người, số thiệt hại... trong tin đồn.
- Sự nhấn mạnh về thời gian: các cá nhân thường có xu hướng mô tả các sự kiện như là những cái đang xảy ra ở thời điểm hiện tại. Bởi những cái đang xảy ra ở đây và bây giờ luôn là mối quan tâm lớn nhất và quan trọng nhất đối với người nhận tin.
- Việc nhấn mạnh thường xảy ra khi có sự liên quan rõ ràng đến sự chuyển động và đôi khi tin đồn được tạo nên bằng việc gắn sự chuyển động cho những vật mà trên thực tế vật nay là đứng im.
- Theo như hiệu ứng cái đầu tiên thì một tin tức đến lúc ban đầu thường dễ nhớ hơn những thông tin nghe sau, do đó cá nhân thường có xu hướng nhấn mạnh những thông tin được nghe luc đầu.
- Trong tin đồn hàng ngày, sự nhấn mạnh biểu hiện bằng việc cá nhân dưa ra sự giới thiệu bề ngoài hợp lý và rõ ràng.
- Kích thước tương đối của các vật xuất hiện trong tin đồn cũng là yếu tố quyết định quan trọng của sự chú ý. Chẳng hạn người ta thường nhớ đến những vật có kích thước lớn nhất, khổng lồ trong câu chuyện tường thuật và nhấn mạnh vào nó.
- Hình thức nhấn mạnh cuối cùng trong tin đồn chính là những lời giải thích thêm của người tường thuật.Nhu cầu nhấn mạnh bằng sự giải thích thêm càng trở nên mạnh mẽ khi câu chuyện bị bóp méo quá mức và sự mô tả lại chứa đựng những điều đáng ngờ, xung khắc.
Nhìn chung các chi tiết được rút ngắn hay nhấn mạnh mục đích là để phù hợp với chủ đề chính của câu chuyện, khiến chúng trở nên phù hợp với chủ đề này theo hướng làm cho câu chuyện có kết cục gắn kết, hợp lý, tròn trịa hơn.
c) Sự sắp xếp lại
Đây là một quá trình bảo tồn và tổ chức lại những thông tin xung quanh một số động cơ, sở thích của các cá nhân. Quá trình ấy là kết quả hấp dẫn của những tập quán, động cơ, lợi ích và tình cảm của những người tiếp nhận lời đồn đối với vấn đề được nêu. 
Rõ ràng, cả sự rút bớt và sự nhấn mạnh là những quá trình mang tính chọn lọc. Những việc gì dẫn tới việc xoá bỏ hay nhấn mạnh một vài chi tiết; và cái gì giải thích cho sự hoán đổi, sự tiếp nhận những xuyên tạc trong quá trình lây lan của tin đồn? Câu trả lời được tìm ra trong quá trình sắp xếp lại, cái đã phải làm bằng sức mạnh hấp dẫn ảnh hưởng đến tin đồn bởi thói quen, lợi ích, tình cảm trong đầu người nghe.
Trong tin đồn , sự sắp xếp lại thường là:
-Sự sắp xếp lại theo chủ đề chính thể hiện ở việc thu hẹp hay nhấn mạnh các chi tiết làm cho chúng trở nên phù hợp với tư tưởng chi phối câu chuyện hàm chứa những chi tiết ấy, làm tăng thêm tính nhất quán, vẻ giống như thật và logic của câu chuyện.
- Sắp xếp theo sự tiếp diễn tốt đẹp đó là do con người thường có mong muốn tìm kiếm các chi tiết của câu chuyện theo một chiều hướng tốt đẹp để hoàn chỉnh ý nghĩa vào chỗ bị thiếu hoặc chưa hoàn thiện.
- Sắp xếp lại bằng sự cô đọng. Đôi khi có vẻ như là trí nhớ của chúng ta cố gắng hạn chế đến mức sao cho ghi nhớ càng ít càng tốt, và thay vì nhớ hai tin sẽ tiết kiệm hơn, nhớ tốt hơn nếu hợp nhất chúng lại thành một tin.
- Sự sắp xếp lại theo kỳ vọng tức là sự vật được cảm nhận và ghi nhớ theo cách mà chúng thường diễn ra và theo thói quen suy nghĩ của cá nhân.
- Sự sắp xếp lại theo thói quen ngôn ngữ.
- Sự sắp xếp lại theo động cơ: sự quan tâm, thành kiến, định kiến sắc tộc.
Tóm lại, các quá trình rút bớt, nhấn mạnh, sắp xếp lại trong tin đồn không phải là một cơ chế độc lập mà chúng được thực hiện đồng thời với nhau và phản ánh một quá trình mang tính nội tâm duy nhất mà có kết quả là tính tự kỷ và sự xuyên tạc vốn là đặc tính của tin đồn./.
Nguyễn Bùi Khiêm - Coppied from Internet 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét