Khiemnguyen

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

Nguyễn Đình Khánh (Khánh Ký) - Nhiếp ảnh gia đầu tiên ở Việt Nam



Ông Nguyễn Đình Khánh (tự Khánh Ký, 1884 -1946) , tên thật là Nguyễn Văn Xuân tự Khánh Ký, sinh năm 1884 ở làng Lai Xá, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Sau tiệm ảnh đầu tiên của người Việt Nam “Cảm Hiếu Đường” ở phố Thanh Hà, Hà Nội năm 1869, do ông Đặng Huy Trứ làm chủ thì tiệm ảnh Khánh Ký khai trương năm 1892 ở Phố Hàng Da, Hà Nội là tiệm ảnh thứ hai. Nhưng khác với tiệm ảnh trước, ông Khánh Ký ngoài chuyên về chụp hình chân dung, ông còn mướn và huấn luyện cho nhiều người mà đa số là từ làng Lai Xá nghề chụp ảnh và mở nhiều tiệm nhiếp ảnh ở Nam Định (1905), Saigon (1907) sau này ở Toulouse (1910 khi ông mới sang Pháp) và ở Paris. Khi trở về Việt Nam năm 1924 ông mở tiệm ảnh ở Hà Nội, Quảng Châu, Hải Phòng, Nam Định, Saigon. Làng Lai xá ngày nay có truyền thống nghề nhiếp ảnh là nhờ ông Khánh Ký.

Ông hoạt động nhiếp ảnh ở Saigon nhiều nhất trong các năm 1924 đến năm 1933. Văn phòng Saigon của ông ở số 54 Boulevard Bonard (Lê Lợi). Cơ sở của ông Khánh Ký ở Saigon năm 1934 mướn 27 nhân viên kể cả những nguời trong phòng chụp ảnh, phòng rửa hình, chỉnh hình và bán hàng. Từ năm 1917, ông là người chụp ảnh chân dung cho tất cả các viên toàn quyền Pháp ở Đông Dương, cũng như hoàng đế Việt Nam, vua Cam Bốt và Lào.
Các hình của cơ sở ảnh của ông có mang dấu ấn “Khanh Ky photo, Hanoi”, “Photo Khanh Ky Saigon”. Ông cũng chụp ảnh cho Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des études indochinoises). Một số ảnh của ông cũng có đăng trên báo “Monde colonial illustré (1931)” trong số đặc biệt nhân dịp Hội chợ triển lãm thuộc địa (Exposition coloniale, 1931) và số năm 1932 sau khi Bộ trưởng thuộc địa, Paul Reynaud, đến viếng Đông Dương.

Ông cũng chụp một bức ảnh chân dung toàn quyền Đông Dương, Pierre Pasquier, người bảo trợ hoàng đế Bảo Đại và nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Trên báo “L'Illustration” số 4740, năm 1933 “Le voyage de l'empereur d'annam du Tonkin”, ông có các ảnh phóng sự của ông về chuyến viếng thăm của hoàng đế Bảo Đại ở Bắc Kỳ.
Ông có trong ủy ban tổ chức lể an táng Phan Châu Trinh ở Saigon năm 1926. Bộ ảnh tang lễ cùng quang cảnh Saigon lúc đám tang là do Khánh Ký thực hiện. Năm 1932, ông sang Nhật có tiếp xúc với những người trong phong trào Đông Du lúc trước, khi về nước ông cổ xúy cho phong trào và bị Pháp bẳt với tội liên hệ với Cường Để và các thế lực thân và phục vụ Nhật.
sở thương mại của ông sau đó bị phá sản. Ông Khánh Ký trở lại Pháp vào năm 1934, tiếp tục kinh doanh trong nghề ảnh và mất ở Pháp năm 1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau vào năm 1946 đã có đến viếng thăm mộ Khánh Ký, người đã giúp đỡ Hồ Chí Minh trong những ngày khó khăn tìm việc ở Paris khi mới đến Pháp.
Bộ hình dưới đây (trong đó có chụp hình Thống tướng Joffre đi đến Chợ Lớn trước trạm điện tín nối Đông Dương với Marseille) là do nhà nhiếp ảnh Auguste Gabriel Paullussen chụp năm 1921. Trong hình là văn phòng studio “Saigon-photo” của ông ở số 10 Boulevard Charner (nay là đường Nguyễn Huệ), ông Paullussen mướn 1 người Hoa và 5 người Việt làm việc cho studio của ông.

Trương Minh Ký - cuộc đời và sự nghiệp





Tú Nhi
 
Theo tài liệu biên khảo của ông Milton Osborne, một học giả người Úc, lịch sử Việt Nam từ năm 1954 trở đi đã có ít nhất hai cái nhìn xung đột về những chính khách và học giả cách tân không theo chủ trương bạo động trong quá trình kháng chiến Pháp. Ở ngoài Bắc, họ bị coi là những con người nhu nhược, thông đồng với bọn thực dân Pháp. Nhưng trong miền Nam, họ được tiếp nhận với một cái nhìn có phần dung hòa hơn, và cũng được ghi nhớ qua những công lao văn hóa của họ trong thời kỳ sơ khai của chữ Quốc Ngữ.(Xin tham khảo bài Trương Vĩnh Ký and Phan Thanh Giản: The Problem of a Nationalist Interpretation of 19th Century Vietnamese History (Journal of Asian Studies: Nov. 1970, tr. 81)
“Chính sách học tập để cao những thành tích kháng chiến đã đơn giản hóa vấn đề. Có những nhà văn hóa cách tân [như Trương Vĩnh Ký và những người theo ông], mặc dù đã bị coi là thông đồng với người Pháp, thật sự đi cùng đường với những nhà cách mạng sau họ, đã muốn cải cách xã hội Việt Nam [theo đà tiến bộ của thế giới] bằng cách đoạn tuyệt với quá khứ Khổng học”.
Dựa trên tài liệu tham khảo ở Thư Viện Quốc Gia ở miền Nam trước 1975, ông Osborne kết luận rằng Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, và những hậu sinh của họ đã thực sự tin rằng quá trình tiếp thụ văn hóa Pháp sẽ giúp Việt Nam đạt được văn minh và độc lập. Cho đến hiện nay, quan điểm chính trị về thành phần collab-orateur đã được xét lại. Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, và những nhà văn hóa và dịch giả theo chủ trương Tây học ở cuối thế 19 kỷ đầu thế kỷ 20 đã được ghi nhận qua những thành tích tiền phong đáng kể của họ trong quá trình bành trướng chữ Quốc Ngữ và những tư tưởng hóa cận đại.
Nhà nghiên cứu Bằng Giang đã từng khẳng định: “ở phần ba cuối cùng thế kỷ XIX, vào buổi sơ khai của nền văn học chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ mà cũng là ở Việt Nam, có ba khuôn mặt nổi bật, kể theo tuổi tác: Huỳnh Tịnh của (1834-1908), Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Trương Minh Ký (1855-1900)”.11 Bỏ qua những điểm mờ trong vai trò chính trị, có thể nói Trương Minh Ký là gương mặt rất đáng được tôn vinh trong lịch sử văn hóa nước nhà.
Một con người có những đóng góp lớn lao trên nhiều lĩnh vực: là một nhà dịch thuật có nhiều công trình lớn, một nhà giáo có tâm có đức với nghề nghiệp, một nhà văn có những sáng tạo độc đáo mang tính tiên phong trong lịch sử văn học.
Trương Minh Ký là học trò xuất sắc của Trương Vĩnh Ký. ông sinh ngày 23/10/1855, mất ngày 11/8/1900, tự Thế Tải, hiệu Mai Nham (Thuộc dòng dõi Trương Minh Giảng, người đã giữ chức Thượng thư kiêm Khâm thiên giám dưới triều Nguyễn). Cha là Trương Minh Cẩn, mẹ là Phạm Thị Nguyệt. Quê quán ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Tên thật là Trương Minh Ngôn, vì ngưỡng mộ thầy dạy Trương Vĩnh Ký nên đổi tên thành Trương Minh Ký với ước nguyện nối được chí lớn của thầy.
Trong cuộc đời ngắn ngủi 45 năm (Trương Minh Ký mất sớm nhưng hiện chưa có tư liệu nào đề cập đến cái chết của ông).
Trương Minh Ký đã làm được nhiều điều mà Trương Vĩnh Ký từng nhắn gửi học trò khi tiễn dặn họ sang Algier học tập: “Hãy đi đi và hãy trởvể, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc cho dân tộc mình”. Thiết tưởng một con người có tầm vóc lớn như Trương Vĩnh Ký phải biết chọn người để gửi gắm khát vọng của bản thân đối với đất nước, dân tộc.
Một trong số những người được Trương Vĩnh Ký đặt nhiều kỳ vọng là Trương Minh Ký. Vậy Trương Minh Ký đã làm được những gì?
Trong bối cảnh hậu bán thế kỷ 19, trên lộ trình bành trướng thế lực của chủ nghĩa thực dân phương Tây, châu Á là điểm đến quan trọng. Một trong những tên thực dân sừng sỏ nhất là Pháp đã chọn Việt Nam làm mục tiêu xâm lược và đặt ách thống trị lâu dài. Nam Bộ là mảnh đất đầu tiên bị Pháp đánh chiếm và đặt quyền bảo hộ. Từ tháng 2/1859, Pháp đánh chiếm Gia Định và đến năm 1862, triều đình Huế nhu nhược đã cắt đứt ba tỉnh Đông Nam Kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) dâng cho Pháp. Trong lúc triều đình phong kiến chỉ lo “duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyển đặc lợi”, “ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách” thì thực dân Pháp lại ráo riết chuẩn bị kế hoạch chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Pháp thực hiện xong âm mưu này vào năm 1867 mà không tốn một viên đạn, không một chút kháng cự nào của quan quân triều đình. Sau khi chiếm xong sáu tỉnh Nam kỳ, thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách văn hóa nô dịch, đồng hóa. Pháp cho mở trường dạy học bằng tiếng Pháp sau đó tiếp tục đưa chữ quốc ngữ vào chương trình dạy học. Pháp cho xuất bản tờ báo chuyên đăng thông tư, nghị định, phổ biến công văn của guồng máy chế độ thực dân đồng thời ra sức đào tạo đội ngũ công chức thực hiện cho công cuộc nô dịch văn hóa. Trương Minh Ký là một trong những công chức được đào tạo vì mục đích ấy của thực dân Pháp. Nhưng thực chất những gì Trương Minh Ký làm được cho nền văn hóa nước nhà thì khác hăn với mục tiêu ban đẩu của thực dân Pháp.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất “bảo hộ” của thực dân Pháp - Gia Định - nền văn hóa mà Trương Minh Ký tiếp nhận lúc bấy giờ là nền văn hóa trong các trường học của Pháp, ông thuộc tầng lớp Tây học tiến bộ, tiếp thu, ảnh hưởng khá nhiều nền văn hóa Pháp. Trương Minh Ký từng học qua trường Thông ngôn do Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc từ năm 1866-1868 (dù ông không theo đạo Thiên chúa), ông tiếp tục học ở trường Saxôlu-Lôba (Chas-seloup - Laubat), tốt nghiệp, Trương Minh Ký ở lại dạy học cho trường này. Sau đó, năm 1880, ông dẫn 10 du học sinh sang Algier (Bắc Phi) học tập, trong đó có Diệp Văn Cương, Huỳnh Tịnh Của, Nguyên Trọng Quản... ông tinh thông tiếng Pháp đổng thời am hiểu cả chữ Nôm, chữ Hán. Mặc khác, ông còn là một trong những học giả rất tinh tường chữ quốc ngữ. Có thể xếp Trương Minh Ký vào hàng trí thức uyên thâm mà lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có được, cả hai vốn học thuật được tiếp nhận qua các trường học của Pháp và vốn ngôn ngữ dân tộc được rèn luyện nhờ nỗ lực của bản thân được Trương Minh Ký dùng để phục vụ cho sự nghiệp văn hóa nước nhà. Đó là điều đáng trân trọng của một trí thức Tây học, dù học qua trường Tây nhưng không hề quay lưng lại với đất nước, không chống lại đồng bào mình.
Trương Minh Ký là một trong những học trò xuất sắc của của Trương Vĩnh Ký. ông đã kế tục xứng đáng sự nghiệp mà Trương Vĩnh Ký trăn trở tìm tòi, chủ yếu là sự nghiệp học thuật, còn sự nhiều và cũng không rõ ràng như Trương Vĩnh Ký. Vì thế, nói đến Trương Minh Ký không thể không nói đến những định hướng riêng của Trương Vĩnh Ký. Phạm Thế Ngũ nhận xét về Trương Vĩnh Ký như sau: “Con người ấy thực ra ở trí sáng suốt, óc chừng mực, tác phong tao nhã, vẫn cốt yếu là một đồ đệ của Nho giáo. Và trái tim ông vẫn đập về phía đất nước đồng bào”. Sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây, nhất là văn hóa Pháp, có thể đã tạo nên trong Trương Vĩnh Ký một hy vọng lớn về khả năng đổi mới và phát triển văn hóa dân tộc bằng cách tiếp nhận văn hóa phương Tây, đồng thời làm sống lại các nhân tố văn hóa đã có, kể cả Nho giáo mượn của Trung Hoa. Ta có thể thấy một phương hướng kiểu Nguyễn Trường Tộ, với câu nói nổi tiếng: “Người phương Tây là kẻ bán cái trí, cái dũng, nếu ai khéo mua thì chăng bao lâu các thứ họ có sẽ trở thành của mình” đã được Trương Vĩnh Ký âm thầm thực hiện. Trương Vĩnh Ký đã có lần hội kiến Víchto Huỵgô (Người dám chống lại hệ thống chính trị của Napôlêông Bônapac) và tiếp thu quan điểm của nhà văn vĩ đại này:
“Thứ nhút, buộc bọn Pháp của Louis “tiểu đế” phải mở trường bản địa. Thứ nhi, phải đòi cho ra tờ báo tiếng An Nam. Một dân tộc muốn tiến bộ không thể để dân chúng thất học. Thất học đồng nghĩa với ngu uội. Bọn cầm quyền nào cũng muốn dân ngu muội để dễ bề cai trị. Và báo chí là chỗ phổ biến chuyện hay dở của một xã hội. Hay thì noi theo. Dở thì bảo nhau mà tránh xa. Bọn tham nhũng, độc tài, làm bậy ỷ thê cậy quyền sợ báo chí. Và vì vậy báo chí góp phần thúc đẩy xã hội phát triển...”.
Trương Minh Ký cũng đã đi theo bước chân của thầy.
Năm 1885, Trương Minh Ký dạy học ở trường Saxôlu-Lôba, sau đó ông lại kế nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo (từ 1881-1897) - tờ báo đầu tiên ở Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Ngoài việc đăng tải công văn của chính quyền thực dân từ lúc Trương Vĩnh Ký làm chủ bút, tờ báo này còn làm nhiệm vụ “cổ động cho lối học mới, phát triển chữ quốc ngữ, khuyến khích dân chúng học chữ quốc ngữ”. Như vậy, con đường đi của Trương Minh không khác gì mấy so với Trương Vĩnh Ký. Vì muốn cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp văn hóa nước nhà, Trương Minh Ký đã chọn hai công việc có sức mạnh to lớn trong việc cải tạo xã hội là dạy học và làm báo.
Trương Minh Ký là một học giả uyên thâm, vốn tiếng Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ của ông đạt đến độ thành thạo mà hiếm có nhiều người đạt được, ông từng được ân thưởng Huy chương Hàn lâm viện Pháp quốc (Officier cPacademie), Kim khánh bội tinh Nam triều và Hoàng gia Cam-bốt... nhờ những đóng góp trong công tác làm thông ngôn.
Trương Minh Ký còn là người có công to lớn trong việc truyền bá chữ quốc ngữ cho mọi tầng lớp dân chúng với mong muốn “xóa nạn mù chữ cho quốc dân”. Một dân tộc tiến bộ không thể là một dân tộc không biết chữ. Trong khi chữ Hán, chữ Nôm khó học, khó phổ biến thì chữ quốc ngữ được xem là thứ chữ dễ đọc, dễ học hơn rất nhiều lần. Giám mục Puginier nói: “Sau khi đạo Thiên chúa đã được thiết lập, tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán và thay thế trước tiên bằng chữ quốc ngữ, sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu lập ra ở Bắc kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông...” (Thư ngày 4/5/1887 của Giám mục Puginier gửi tổng trưởng thuộc địa Pháp). Nvậy, trong khi bọn Pháp tin tưởng mở trường dạy chữ quốc ngữ, lập ra báo chữ quốc ngữ sẽ giúp chúng nắm trọn tư tưởng của người Việt Nam, làm cho người Việt cắt đứt với truyền thống Viễn Đông, lìa bỏ cội nguồn văn hóa dân tộc mình thì những người thực thi nhiệm vụ của chúng những mục đích tốt đẹp khác của nền quốc văn: đó là “khai dân trí”. Với tính chất dễ học, học mau của chữ quốc ngữ, thứ chữ này có khả năng lan tỏa một cách nhanh chóng. Mặt khác, chữ quốc ngữ có khả năng truyền bá bất kỳ tư tưởng gì dù là cao siêu mà ta muốn học, có thể phổ biến học thuật “Thái Tây” (Điều mà Bác học sơ giai của Huỳnh Tịnh của đã chứng minh rõ). Vì mục đích tốt đẹp đó, Trương Minh Ký đã ra sức dịch nhiều tác phẩm văn chương của cả Tây lẫn ta ra chữ quốc ngữ với số lượng đáng kể.
Trong thời gian làm chủ bút tờ Gia Định báo ở Sài Gòn, ông cho đăng các tác phẩm dịch thuật của mình nhằm bổ sung cho sách vở còn hết sức thiếu thốn ở trường học cũng như cho công chúng biết chữ quốc ngữ có cái để đọc. Nỗ lực của Trương Minh Ký và những người có cùng tâm huyết như ông đã làm cho diện mạo nền quốc văn Nam Kỳ thật phong phú, đa dạng. Sách báo bằng chữ quốc ngữ lúc bấy giờ không chỉ có công văn, nghị định của chính quyền thực dân mà có nhiều tác phẩm văn chương có giá trị, nhiều công trình phổ biến giáo dục bổ ích, nhiều tác phẩm sưu tầm văn chương công phu. Với thời gian và bằng cái nhìn công bằng chúng ta cần phải ghi nhận đó là đóng góp lớn lao mà thế hệ trí thức như Trương Minh Ký đã làm được cho lịch sử dân tộc.
Phan Mạnh Hùng có viết: “Nếu như dòng văn học yêu nước chống Pháp do các nhà Nho Nam Bộ tiến hành chính là sự kế thừa và phát huy truyền thống văn học vốn có từ ngàn xưa của dân tộc, thì dòng văn học quốc ngữ La tinh mới xuất hiện được đặt trong tay của những trí thức Tây học với đường hướng cách tân trong xu hướng vượt ra khỏi tẩm ảnh hưởng của văn học Đông Á và tiến tới hòa nhập vào quỹ đạo văn học hiện đại của thế giới”.
Bên cạnh những tên tuổi Nho gia Nam Bộ: Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyên Bá Huân, Nguyên Thông... thống lĩnh dòng văn học yêu nước chữ Hán, chữ Nôm là những cái tên trí thức Tây học như: Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của, Nguyễn Trọng Quản... được lịch sử giao trọng trách cách tân nền văn học.
Trong cuốn Trương Vĩnh Kỷ - Bi kịch muôn đời của Hoàng Lại Giang, Trương Minh Ký xuất hiện với một hình ảnh thật đẹp đẽ.
Bằng những tư liệu văn học quý giá mà nhà nghiên cứu Băng Giang để lại cho Hoàng Lại Giang, chúng tôi tin tưởng những gì Hoàng Lại Giang dựng lên trong tác phẩm của mình là khá chân thực. Ở đoạn Paul của (tức Huỳnh Tịnh của) hỏi Trương Vĩnh Ký về việc mời người cộng tác trong việc quản lý tờ Gia Định báo, ta nhìn thấy chân dung của Trương Minh Ký là một người rất mực trung thành theo ý chí của vị thầy dẫn dắt mình:
- Thầy có định mời anh Trương Minh Ký và anh Tôn Thọ Tường?
Chắc chắn tôi sẽ mời trò Trương Minh Ký. Còn anh Tôn Thọ Tường... anh ấy đã cùng đi với tôi sang Paris... tôi hiểu... anh ấy khó đi cùng đường chúng ta. Con đường đi của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký có phần gần gũi với Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh muốn xây dựng một chủ nghĩa quốc gia “bắt đầu từ đấu tranh xây dựng văn hoá, [vì] việc này cần thiết hơn đấu tranh chính trị. Không thể đấu tranh chống Pháp mà chỉ cần nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân.
Trương Vĩnh Ký trên mọi phương diện: học thuật, quan điểm cơ bản về văn hóa cũng như chính trị. Khi Trương Vĩnh Ký nói: “Tôi muốn hoàn thành cuốn từ điển Pháp-Việt và muốn dịch cuốn từ điển của Littré ra chữ quốc ngữ”, Trương Minh Ký đã tán đồng hoàn toàn ý kiến của thầy, ông bày tỏ ý nguyện song song ngữ, những bộ từ điển ấy thật cần thiết.
Trương Minh Ký còn là người có tư tưởng duy tân mới mẻ, những tư tưởng mà cho đến lúc ấy Tự Đức vẫn chưa nhìn thấy để cải tạo đất nước:
- Con nghĩ - Trương Minh Ký nói - văn minh Tây Phương có nhiều điều chưa dung hòa được với Đông phương. Nhưng ít ra Tây phương cũng đã trải qua thời kỳ lột xác, vai trò của dân chúng không còn ở địa vị nô lệ như dân nước mình. Và trí thức đã sáng tạo ra kỹ nghệ và kỹ nghệ là cứu cánh của nền văn minh mà nhân loại đang hướng tới, bằng mọi giá. Và vì vậy, con nghĩ, ta không thể không trả giá mà tiếp cận được với nền dân chủ mà Victo Huygô đã trả giá, với nền văn minh mà Châu Âu đã phải trả giá.
Căn cứ những gì Hoàng Lại Giang đã vẽ trong Trương Vĩnh Ký - Bi kịch muôn đời thì hình ảnh của Trương Minh Ký hiện lên rất đẹp đẽ. Ta có thể hình dung về một Trương Vĩnh Ký thứ hai -một con người có ý chí, có quyết tâm, có tư tưởng mới mẻ, có sáng kiến. Quả thật, Trương Minh Ký đã không phụ công lao dạy dỗ của Trương Vĩnh Ký, kế tục xứng đáng sự nghiệp Trương Vĩnh Ký dày công xây dựng.
So với tầm vóc của Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký có thể chỉ được coi là “người học trò nhỏ”. Dù sao, ông không hẳn là bản sao của Trương Vĩnh Ký. Trương Minh Ký khẳng định mình bằng một sự nghiệp văn chương riêng. Sự nghiệp ấy so với người đi trước lẫn người theo sau rất xứng đáng để gọi Trương Minh là một nhà văn hóa lớn của đất Nam Kỳ.
Sự nghiệp sáng tác văn học của Trương Minh Ký
Trương Minh Ký là người có công lao to lớn trong công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ. Bên cạnh việc phiên âm nhiều tác phẩm Pháp, Hán-Nôm ra chữ quốc ngữ, ông còn có một số sáng tác bằng chữ quốc ngữ. Đến nay, việc phổ biến những tác phẩm này vẫn chưa được làm “đến nơi đến chốn.” Có thể kể đến một số sáng tác chính sau:
Vở Tuồng Joseph, do nhà hàng Rey et Curiol in vào năm 1888. Trước đó, vở tuồng này được đăng tải ở Gia Định báo từ ngày 26/4/1887, được diễn lần đầu tại Chợ Lớn ngày 13/7/1887. Đây là vở tuồng đầu tiên của Việt Nam được sáng tác bằng chữ quốc ngữ. Nội dung của vở tuồng được lấy từ Kinh Thánh, được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Trương Minh Ký.
Tác phẩm du ký bằng thơ: Như Tây  nhựt trình được khởi đăng ở Gia Định báo từ ngày 10/4/1888 trong hơn một năm mới hết. Tác phẩm sau này được nhà hàng Rey et Curiol in vào năm 1889. Như Tây nhựt trình gồm 2000 câu thơ song thất lục bát. Năm 1880, Trương Minh Ký dẫn đoàn du học trường Bổn quốc sang Anger du học, trong đó có Diệp Văn Cương (Chủ bút tờ Phan Yên báo) và Nguyễn Trọng Quản (tác giả của cuốn truyện bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta Thẩy Lazaro Phiền). Như Tây nhựt trình kể về hành trình qua châu Âu và Bắc Phi của Trương Minh Ký với những ấn tượng sâu sắc về phong tục, nếp sống xa lạ của người dân bản xứ.
Chư quấc thại hội là cuốn du ký bằng thơ kể về lần làm thông ngôn cho sứ bộ triều đình Huế sang Pháp tham dự hội đấu xảo ở Paris năm 1889. Thiên du ký dài 2000 câu được xuất bản hai lần vào năm 1891 và năm 1896.
Tác phẩm dịch từ văn chương Pháp sang chữ quốc ngữ:
Trương Minh Ký, cái tên cho đến nay dường như vẫn còn khá xa lạ đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam, lại là người đi tiên phong trong công tác dịch thuật tác phẩm văn học Pháp sang chữ quốc ngữ. Trước khi Nguyễn Văn Vĩnh dịch tác phẩm thơ ngụ ngôn của La Fontaine (được nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn ở Hà Nội in năm 1928 (gồm 24 bài) mà bấy lâu nay vẫn được xem là công trình mở đầu cho nền văn học dịch của Việt Nam, thì từ năm 1884, Trương Minh Ký đã công bố những công trình dịch thuật đầu tiên của mình, như Trưyện Phansa diễn ra quốc ngữ (gồm 16 truyện của La Fontaine) và tác phẩm Morceaux Choisis của Pháp ra chữ quốc ngữ.
Cũng năm 1884, Trương Minh Ký tiếp tục xuất bản những tác phẩm dịch bằng văn xuôi khác nhưng không phải là những tác phẩm của La Fontaine nữa mà tập hợp của nhiều tác giả như: J.Wirth, Schmid, R.Dodsley nhiều nhất là tác phẩm của P. Larousse. Công trình gồm có 12 truyện trong đó có 8 - 9 truyện của P.Larousse. Năm 1885, trên Gia Định báo, Trương Minh Ký khởi đăng tác phẩm Phú bẩn truyện diên ca. Có nhiều người đã nhầm lẫn tác phẩm này là truyện dịch từ truyện thơ Nôm sang chữ quốc ngữ nhưng thực chất đây là tác phẩm được dịch và phóng tác từ văn học Pháp. Trong quá trình dịch tác phẩm, dịch giả đã Việt hóa tên nhân vật: thầy dòng được đổi thành nhà sư, nhà thờ thành ngôi chùa.
Phú bẩn truyện diễn ca đã bị một số nhà nghiên cứu ngộ nhận là của Trương Vĩnh Ký (như Đào Văn Hội, Lê Thanh, Nguyễn Cao Kim, Nguyên Hương, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Sinh Duy và Phạm Long Điền), thậm chí có người còn cho rằng đó là tác phẩm của cả hai người: Trương Vĩnh Ký và Trương Minh Ký (A.Brébion, Trần Văn Giáp...). Cũng có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề: đây là một sáng tác hay là một tác phẩm dịch? Phạm Thế Ngũ, các tác giả của bộ Từ điển văn học, tập II [tr. 26] cho rằng đây là một sáng tác. Đào Văn Hội, Nguyễn Cao Kim lại cho đây là một tác phẩm “sưu tập và phổ thông văn Nôm.” Trần Văn Giàu và một số tác giả khác coi Phú bẩn truyện diên ca là một tác phẩm dịch Pháp văn ra quốc ngữ. H.Cordier, Phạm Việt Tuyền nhận định đây là một bản dịch, phóng tác từ tác phẩm văn xuôi tiếng Pháp ra văn vần quốc ngữ.... Tóm lại, xung quanh tác phẩm tồn tại khá nhiều vấn đề thú vị. Sau này, chính nhà nghiên cứu Băng Giang là người cất công tìm hiểu, chứng minh và đưa ra lời kết luận thuyết phục cuối cùng: Phú bần truyện diễn ca là một bản dịch, phóng tác từ văn xuôi tiếng Pháp ra văn vần quốc ngữ.
Năm 1886, Trương Minh Ký tiếp tục xuất bản những tác phẩm dịch, khoảng 750 truyện ngụ ngôn Tây Phương. Một số tác phẩm được dịch theo lối văn xuôi, một số được chuyển tải thành thơ lục bát cũng tập hợp trong bộ Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ.
Năm 1887, Nhà hàng Rey et Curiol xuất bản cuốn sách chuyện Tê-lê-mặc gặp tinh cờ của Fenelon (1651-1715, tu sĩ và là nhà văn Pháp), bản dịch của Trương Minh Ký. Bản dịch theo thể lục bát đã được khởi đăng ở Gia Định báo số 25, ngày 20/6/1885 và in thành sách năm 1887.
Những tác phẩm dịch từ Hán, Nôm sang chữ quốc ngữ của Trương Minh Ký:
Trị gia cách ngôn khuyến hiếu ca (1895) là tác phẩm dịch những áng văn chương nổi tiếng của Trung Hoa sang chữ quốc ngữ: gổm những tác phẩm có giá trị như Trị gia cách ngôn của Châu Bá Lư, Khuyến hiếu ca của Vương Trung Thơ, Phụ bát phản caHọa sơn thủy ca của Ngô Dung.
Ca từ diễn nghĩa (1896) dịch những áng văn nổi tiếng của Trung Hoa sang chữ quốc ngữ như: Chính khí ca, Liên xướng cung từ, Đường thi, Tô Huệ hồi văn, Hiếu thuận ca.
Vở tuồng Phong thẩn ấp bá khảo, không rõ tác giả là ai, được Trương Minh Ký dịch ra chữ quốc ngữ, xuât bản năm 1896. Tác phẩm lấy tích ở truyện Phong thần sau được dịch ra tiếng Pháp bởi giáo sư M. chéon.
Tuồng Kim Vân Kiều, xuất bản năm 1896, đây là tác phẩm phiên âm từ vở tuồng bằng chữ Nôm của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807-1972). Trương Minh Ký là người đầu tiên phiên âm tuồng Kim Vân Kiều ra chữ quốc ngữ.
Thi pháp nhập môn là cuốn sách dịch từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ. Cuốn sách đưa ra bảng mẫu bằng trắc của từng loại thơ rồi cho ví dụ kèm theo với mục đích hướng dẫn cho những người mới tập làm thơ có thể làm thơ đúng vần, đúng luật. Sách được xuất bản năm 1898.
Sưu tầm văn học:
Câu hát An Nam là cuốn sách sưu tẩm những câu dân ca, ca dao của người Việt.
Ngoài những tác phẩm kể trên, Trương Minh Ký còn là tác giả của nhiều tác phẩm phiên âm, dịch thuật chưa được in thành sách mà chỉ được công bố trên Gia Định báo như: Truyện nhi đồng Francinet (truyện dịch từ văn học Pháp, Gia Định báo bắt đẩu đăng từ số 36 năm 1885), Lục súc tranh công (tác phẩm phiên âm chữ Nôm sang chữ quốc ngữ), Phansa quốc sử diễn ca (lịch sử nước Pháp được phiên dịch thành chữ quốc ngữ dưới hình thức thơ song thất lục bát), Nhị thập tứ hiếu (tác phẩm phiên âm chữ Nôm ra chữ quốc ngữ), Quốc phong (dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ, trích từ Kinh thi), Đại Nam quốc sử diễn ca (phiên âm chữ Nôm ra chữ quốc ngữ), Phưoĩng ngôn ngạn ngữ (tác phẩm sưu tầm).
Trần Hải Yến nhận định: “Với những tư liệu văn học sử hiện có, Trương Minh Ký được coi là người đi tiên phong cà trong dịch văn học Hán-Việt lân văn học Pháp-Việt--một công việc vừa có ý nghĩa khải mông: góp phẩn đưa vào đời sống văn hóa nước nhà những giá trị mới tích cực, lại vừa là sự thể nghiệm rèn luyện khả năng biểu đạt ngôn ngữ viết dân tộc vừa mới hình thành. Chẳng những thế, Trương Minh Ký còn là người đi đầu trong công tái sáng tác văn học bảng chữ quốc ngữ. Nhờ những con người như Trưowng Minh Ký mà thứ chữ Việt được La Tinh hóa dần được phổ biến trong đông đảo công chúng văn học và hướng đến hoàn thiện về nhiều mặt từ vựng, cú pháp, khả năng diễn đạt, chuyển tải hiện thực cuộc sống...”
Trương Minh Ký xứng đáng là một nhà văn hóa lớn, một tác gia lớn của nền văn học Nam Kỳ những năm 1862-1913.
VÀI NÉT VỂ TÁC GIẢ
Tú Nhi sinh năm 1981, tốt nghiệp Thạc sĩ với luận văn: Trưong Minh Ký (1855-1900) và tác phẩm du ký bằng thơ “Chư quấc thại hội.”
Biên khảo nầy là đăng trích một phần bài nghiên cứu luận văn của Tú Nhi. Cô thuộc thế hệ trẻ Việt Nam trong nước đi theo lời khuyên của Trương Vĩnh Ký, thầy của Trương Minh Ký, “Hãy đi đi và hãy trở về, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc cho dân tộc mình”.

Các nhà văn quốc ngữ tiền phong



Những nhà văn quốc ngữ tiên phong là những người đã dùng chữ quốc ngữ để phổ biến văn chương, học thuật trước tiên mà cũng là những người hô hào truyền bá chữ quốc ngữ đến đại chúng vào thời kỳ sơ khai. Những nhà văn tiền phong ấy là Trương Vĩnh Ký, Hình Tịnh Của, Trương Minh Ký, đã sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ.
1. Sự Ðóng Góp Của Các Nhà Văn Tiền Phong.
Trương Vĩnh Ký đáng được người đời tôn vinh lên hàng bác học như người ta đã làm, chính ông là học giả, là nhà văn tiền phong đã nhìn thấy khả năng chữ Quốc ngữ và ông đã phổ biến chữ Quốc ngữ đến quảng đại quần chúng.
Trước ông, chưa có ai làm việc nầy, cho đến thời đại của ông và công việc ông làm, cho thấy chữ Quốc ngữ đã được công chúng dùng đến. Như vậy nó đã được phổ biến chớ không phải chờ đợi đến người Pháp, người Pháp chỉ là kẻ nhúng tay vào cho nó tiến nhanh, ngõ hầu giúp cho việc cai trị của họ được dễ dàng.
Trong phần nầy, trước tiên chúng tôi muốn dành một chỗ xứng đáng cho học giả Trương Vĩnh Ký, vì ông chính là người tiền phong dùng chữ Quốc ngữ và cổ vũ cho phong trào học Quốc ngữ.
Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn ngữ Ðông Phương ở Trường Thông Ngôn ( Collège des Interprètes).
Ngày 16/9/1869, ông được Thống soái Nam Kỳ Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Ðịnh Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến năm 1872, năm nầy ông được thăng Tri Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).
Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy, ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ của ông là Paul Bert sang làm Thống Ðốc Nam Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân khấu chánh trị, một bước phù du mà cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng một thời đã mai một!
Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký không thích con đường chính trị, ông lại thiết tha với nền văn học chữ quốc ngữ, ông có chủ đích quay về sự nghiệp văn chương của mình, khi Paul bert mất, ông không ngần ngại từ bỏ sân khấu chánh trị, trở lại nghề dạy học, viết sách dạy các thứ tiếng Ðông phương, về phương diện nầy, ông là nhà ngôn ngữ học quảng bác, vì ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Ðông phương.
Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Ðại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Ðông phương, chính ở phương diện nầy chúng ta thấy ông là nhà văn hóa, ở sân khấu chánh trị ông mong tạo sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chánh trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước.
b) Huỳnh Tịnh Của (1834-1907)
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Ðốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Ðịnh báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & dOrmay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.
Cách hành văn của ông rất mộc mạc và bình dân, cho đến nay chưa tìm thấy tác phẩm nào ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông cho chúng ta thấy, ông đã chú trọng vào việc điển chế và phổ biến chữ quốc ngữ.
c) Trương Minh Ký (1855-1900)
Trương Minh Ký có biệt hiệu là Thế Tải, ông sanh ngày 23/10/1855 tại Gia Ðịnh, là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn.
Trương Minh Ký không được người ta chú ý nhưng vừa là môn đệ, vừa là người cộng tác thân cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông một chỗ đứng trong các nhà văn tiền phong chữ quốc ngữ.
Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi.
2. Việc thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ của người Pháp
Từ năm 1867, quyển Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký ra đời và trước đó năm 1865 tờ Gia Ðịnh báo được in bằng chữ quốc ngữ, nhà cầm quyền Pháp tại miền Nam đã thấy phương tiện truyền thông bằng chữ quốc ngữ cho người Việt Nam có khả năng thích hợp hơn chữ Pháp, chữ Hán hay chữ Nôm, vì nó dễ học, người Việt nhờ chữ quốc ngữ mà thông hiểu trực tiếp ngôn ngữ của mình. Về điểm nầy chúng ta có thể đọc một đoạn văn trong Gia Ðịnh báo:
Thầy Ký ( Trương Vĩnh Ký ) dạy học, có làm sách mẹo dạy tiếng Lang-sa, có làm ra chữ quốc-ngữ để người ta dễ học, những người ký-lục giỏi cùng siêng-năng sẽ lo mà học chữ quốc-ngữ vì có hai mươi bốn chữ mà viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẽ cũng viết đặng, không phải như chữ ta (8), học già đời mà còn có những chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường (9) đã học đặng chữ quốc-ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết (Gia Định báo, ngày 15/4/1867) (10)
Hơn 10 năm sau, nhà cầm quyền Pháp quyết định dùng chữ quốc ngữ để làm văn tự chánh thức cho miền Nam. Sự việc nầy không phải chánh phủ Pháp muốn khai phá cho dân Việt, mà đây cũng chỉ là một trong những mưu đồ thôn tính Việt Nam.
Nhà cầm quyền Pháp đã ban hành Nghị định số 82 ngày 6/4/1878, nội dung như sau:
Ðiều thứ 1: Kể từ ngày 01/01/1882 tất cả văn kiện chính thức, nghị định, quyết nghị, sự vụ lệnh, án lệnh, chỉ thị và các văn kiện khác đều sẽ viết, ký và công bố bằng chữ La-tinh.
Ðiều thứ 2: Cũng kể từ ngày ấy, sẽ không được ban cho bất cứ một bổ nhiệm nào, một thăng cấp nào trong hàng nhơn viên phủ, huyện và tổng, cho bất cứ là ai mà không đủ sức viết công văn bằng Quốc ngữ.
Ðiều thứ 3: Cũng kể từ ngày ấy và dĩ chí ngày 01/01/1886, hương thân nào cũng được miễn thuế thân, hương hào nào cũng chỉ đóng phân nữa thuế thân và biện lại nào cũng được miễn sưu, nếu họ đủ sức viết công văn bằng Quốc ngữ.
Ðiều thứ 4: Kể từ ngày 01/01/1886, không ai được lãnh các nhiệm vụ trên đây, nếu không biết Quốc ngữ đàng hoàng.
Tuy nhiên, biện pháp nầy chỉ được miễn cho những người nào trước thời gian đó đã được chú ý vì họ sốt sắn và lương thiện trong lúc thi hành các nhiệm vụ ấy.
Thống đốc Nam Kỳ
Lafont (11)
Nghị định 82 nầy chỉ nhằm bó buộc và khuyến khích những người làm việc cho Pháp từ cấp huyện, tổng và làng xã, là cấp thừa hành để giúp cho công cuộc cai trị của họ được dễ dàng, thuế vụ không bị thất thu.
Như vậy chúng ta thấy rõ Nghị định 82 đã thúc đẩy cho việc sử dụng chữ quốc ngữ trở nên chánh thức tại Miền Nam.
3. Kết Luận.
Thời kỳ chữ quốc ngữ phát triển chính là thời kỳ nầy trong tiến trình hình thành của nó. Cho đến nay, chúng ta biết Gia Ðịnh báo là một sản phẩm đầu tiên sử dụng chữ quốc ngữ, nhằm phổ biến nghị định, tin tức... thuộc về nhà cầm quyền chủ trương, còn quyển Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký có chủ đích phổ biến chữ quốc ngữ cho người Việt, rồi sau đó, trên Gia Ðịnh báo ngoài Trương Vĩnh Ký làm Chánh Tổng Tài còn có sự cộng tác của Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký đã dùng nó làm phương tiện phổ biến chữ quốc ngữ đến đại chúng.
Trương Vĩnh Ký là nhà thông thái, quảng bác ngữ học nhưng ông hành văn rất giản dị, bình dân, viết cũng y như câu nói. Ðến Huỳnh Tịnh Của và Trương Minh Ký lời văn cũng bình dị nhưng câu văn lại nhẹ nhàng hơn. Tuy Trương Minh Ký ít người biết đến, nhưng ông là người cộng tác gắn bó với Trương Vĩnh Ký trên Gia Ðịnh báo và Thông Loại Khóa Trình, còn Huỳnh Tịnh Của được nhiều người biết đến nhờ quyển Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị của ông.
Các nhà văn tiền phong kể trên rất có công trong việc truyền bá chữ quốc ngữ vào thời kỳ phôi thai, nhờ đó đến đầu thế kỷ thứ hai mươi, văn học quốc ngữ miền Nam cũng tiên phong trong các bộ môn văn học.
Tôn vinh những nhà văn quốc ngữ tiên phong miền Nam như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký bởi sự nghiệp văn học của họ và nhiệt tâm truyền bá chữ quốc ngữ vào thời buổi sơ khai, đáng cho chúng ta ngưỡng vọng. Và nhờ họ mà Văn học Việt Nam sau nầy phát triển nhanh chóng khắp mọi miền đất nước.
                                                                 Huỳnh Ái Tòng
Ghi chú:
(1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang 30-32
(2) Chúng tôi dùng chữ trong ngoặc thay cho chữ Hán.
(3) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa chánh tả, xống: sống
(4) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite.
(5) Không ghi năm tháng.
(6) Chép nguyên văn.
(7) Có lẽ thợ nhà in đã bỏ sót mất một đoạn: Từ Thức gặp lại Giáng Hương ở cõi tiên, được tác hợp thành vợ chồng.
(8) Chữ Nôm
(9) Tôn Thọ Tường
(10) Nguyễn bá thế, Tôn Thọ Tường, Tân Việt. Sàigòn 1957 trang 29
(11) Bản dịch của nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát.

Quan niệm của một số cây bút văn xuôi cuối thế kỷ XIX



                                                                                                  Cao Thị Hảo
Nói đến quan niệm về văn xuôi quốc ngữ giai đoạn cuối XIX, người ta thường chú ý đến vai trò tiên phong của Trương Vĩnh Ký. Thanh Lãng cho rằng, với sự xuất hiện những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký “một quan niệm viết truyện mới ra đời” với cốt truyện “đơn sơ, giản dị”, và “lối văn bình dị, mộc mạc, quê mùa, trơn tuột như lời nói”(1). Cách hành văn nôm na như lời nói thường của Sĩ Tải được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm, có tác giả coi đó là “một quan niệm văn học mang tính cách tân của Trương Vĩnh Ký”(2), thậm chí là một đặc điểm “có ý nghĩa xác định một phương diện trong quan niệm nghệ thuật của văn xuôi tự sự buổi đầu”(3).
 Đặc điểm đầu tiên trong quan niệm về văn xuôi tự sự quốc ngữ là việc đưa ngôn ngữ đời thường vào sáng tác văn chương. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX trong khi thể loại văn vần vẫn đang chi phối thói quen thưởng thức văn học của số đông độc giả thì Trương Vĩnh Ký đã đưa ra một chủ trương hết sức mới mẻ về sáng tác văn chương, thể hiện rõ qua lời phát biểu ở đầu sách Chuyện đời xưa (1866) trong lần in lại (4).
 Trương Vĩnh Ký khi sử dụng ngôn ngữ đời thường vào văn chương xuất phát từ mục đích xã hội hóa chữ quốc ngữ, phổ cập chữ quốc ngữ trong quần chúng nhân dân. Nhưng chính trong công việc đó ông đã trở thành người đầu tiên khởi xướng cho việc đưa ngôn ngữ đời thường vào tác phẩm văn chương, đặt ra một lối viết mới bằng “tiếng An Nam ròng”, ngôn ngữ nôm na như lời nói thường, khác với lối viết đương thời (vốn viết bằng văn biền ngẫu và văn vần). Cũng cần lưu ý rằng ở vào thời điểm Trương Vĩnh Ký sáng tác, những lời “nôm na” “trơn tuột như lời nói” ấy “ai cũng cho là dễ dàng đã được gọi là “văn” đâu”(5). Thậm chí có những tác phẩm Trương Vĩnh Ký viết bằng văn xuôi nhưng khi đăng báo người ta lại diễn ra văn vần. Chẳng hạn trường hợp Kiếp phong trần (1882) và Bất cượng chớ cượng làm chi (1885) được Trần Hữu Hạnh diễn ra thơ lục bát đăng trên Miscellanées, số 10/11/1889 (6).
 Một số sưu tầm và sáng tác của Trương Vĩnh Ký (Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi, Kiếp phong trần, Bất cượng chớ cượng làm chi…) đã được viết và diễn đạt theo hình thức văn xuôi, có tính thông tục và hướng đến tiếp cận với ngôn ngữ đời sống hằng ngày. Chuyện đời xưa mặc dù không có gì mới mẻ, gồm 74 truyện được tác giả sưu tầm, “góp nhóp trộn trạo” từ những truyền thuyết, truyện kể bình dân có trong dân gian nhưng đáng chú ý là tác giả lại chủ trương viết bằng một hình thức ngôn ngữ mới: chữ quốc ngữ (chứ không phải chữ Nôm, chữ Hán hay chữ Pháp) và cách hành văn mới: lối văn khẩu ngữ dễ đọc dễ hiểu. Tác phẩm Kiếp phong trần (1882) được viết với một giọng văn nôm na, bình dân đặc biệt tác giả đã sử dụng hình thức đối đáp giữa hai nhân vật Trương Chí Đại và Lê Hảo Học khiến người đọc dễ liên tưởng đến hình thức của kịch nói hiện đại sau này. Cũng có khi tác giả sử dụng một ngôn ngữ nôm đã khá xuôi tai và rõ nghĩa để viết du khảo (7). Văn phong của Trương Vĩnh Ký đã mờ nhạt bóng dáng của “chi hồ giả dã”, câu văn dường như trong sáng, gãy gọn, rõ nghĩa hơn và rất ít từ Hán Việt.
 Nếu như Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên khởi xướng lối viết văn xuôi nôm na, đời thường qua công việc sưu tầm, biên khảo và viết du ký thì Nguyễn Trọng Quản là người đầu tiên đưa lời nói thường vào sáng tác văn chương. Trong Truyện thầy Lazarô Phiền (viết 1886 xuất bản 1887) - một tác phẩm được coi là áng văn xuôi quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam - tác giả đã hoàn toàn đoạn tuyệt với lối văn biền ngẫu sóng đôi bổng trầm, đăng đối trong văn học cổ điển. Đây là một quan niệm rất mới về sáng tác văn chương. Quan niệm này được Nguyễn Trọng Quản tuyên bố một cách rõ ràng trong Lời tựa viết tại Khánh Hội tháng 12 năm 1886(8).
 Nhìn từ góc độ thể loại những Lời tựa luôn có một “ý nghĩa đặc biệt quan trọng” (9). Nó như những tín hiệu chỉ dẫn cho người đọc khi tiếp xúc với một thể loại mới so với thói quen thưởng thức của số đông độc giả. Và theo như Bakhtin thì chính những tín hiệu chỉ dẫn này đã “phản ánh sâu sắc và trung thực” cuộc đấu tranh của những thể loại mới - biện minh cho sự ra đời của nó trong khi trước nó chưa hề xuất hiện những hiện tượng tương tự. Chính những lời đầu sách này khẳng định và thừa nhận vị trí của thể loại mới trong văn học - cái vị trí mà các thể loại khác không thể so sánh được. Do đó qua Lời tựa này chúng ta đọc được tham vọng của Nguyễn Trọng Quản, phải chăng ông muốn xây dựng và cổ vũ mọi người cùng xây dựng một nền văn chương viết bằng “tiếng thường mọi người hằng nói” mà Truyện thầy Lazarô Phiền có lẽ mới chỉ là một thí nghiệm đầu tiên? Cả thiên truyện trên dưới khoảng 30 trang mà người đọc không hề bắt gặp một câu văn biền ngẫu. Tác giả đã sử dụng hoàn toàn ngôn ngữ đời thường rất xuôi tai, rõ nghĩa.
 Giai đoạn cuối thế kỷ XIX việc sử dụng ngôn ngữ đời thường nôm na để sáng tác văn chương đã trở thành một quan niệm trong ý thức của một số tác giả mà người khởi xướng là Trương Vĩnh Ký và được đẩy cao ở Nguyễn Trọng Quản. Sở dĩ có chủ trương viết văn xuôi bằng lời nói thường, nôm na một mặt là do mục đích xã hội hóa chữ quốc ngữ mà mọi người đều dễ nhận thấy(10). Theo chúng tôi còn một lí do lịch sử nữa quyết định tới việc sử dụng ngôn ngữ này. Bởi khi tiếp xúc với văn xuôi quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ XIX người đọc thường bắt gặp một hiện tượng tên riêng của các tác giả được ghép với tên thánh đó là Pétrus Ký, Paulus Của hay P.J.B Nguyễn Trọng Quản… Điều này cho thấy nguồn gốc xuất thân của họ giống nhau: là những người công giáo. Chính nguồn gốc xuất thân này là một lợi thế của họ (so với các tác giả có xuất thân từ Nho giáo vốn được đào tạo trong cái nôi của văn chương cử tử) trong việc sáng tác bằng ngôn ngữ đời thường. Bởi ở vào thời điểm đó khi đại đa số người thưởng thức và sáng tác chỉ biết đến văn vần hay văn biền ngẫu thì trong các giáo đoàn Ki tô đã sớm có sự “bột phát của một nền văn xuôi dễ dãi, đơn sơ gồm tiếng nói hàng ngày, ít chữ nho, không có điển tích” (11). Là những người công giáo, các tác giả này đã được sống, đào tạo trong một môi trường văn chương phi truyền thống - văn học phương Tây, cụ thể là văn học Pháp, hơn nữa lại được tiếp xúc và thừa hưởng nền văn xuôi Thiên chúa giáo đã phát triển và có những thành tựu nhất định tồn tại 3 thế kỷ trong các giáo đoàn, giáo dân Ki tô và sớm làm quen với lối viết “chuyện kể” - một lối văn dễ dãi, bình dân, nôm na, ai nghe cũng hiểu ngay của nền văn xuôi Nôm công giáo có từ những thế kỷ trước với một loạt những tác phẩm về sự tích của các ông thánh như: Truyện các thánh của Jéronimo Maiorica (1646), Sách thánh của Dominique Martigia (1848), Quan quang Nam Việt của Pierre Marie Gendreau Đông (1902), Sách truyện các thánh của Joseph Marie Bigorlet Kính (1905) (12), và “gần 500 truyện nôm do Majoria biên soạn tại Kẻ Rum, Nghệ An” (thế kỷ XVII) (13). Có lẽ nền văn chương tôn giáo này đã tạo “cơ sở vững chãi” cho sự ưu thắng của chữ quốc ngữ trên con đường sáng tác văn xuôi. Và mầm mống của một nền văn xuôi sử dụng ngôn ngữ đời thường cũng được khởi phát từ đây qua những trí thức công giáo tiếp xúc sớm với văn học phương Tây.
 Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng ngôn ngữ nôm na như lời nói thường mà các tác giả cuối thế kỷ XIX này sử dụng chưa đạt được tính nghệ thuật cao, thậm chí có nhà nghiên cứu còn coi sáng tác của Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của là “văn ghi chép khẩu ngữ”(14). Nhưng chúng ta cũng không thể không ghi nhận sự xuất hiện của một chủ trương, một quan niệm mới về cách viết (đã được thí nghiệm và có thành công). Điều này đã phần nào khẳng định sự ưu thế của văn xuôi quốc ngữ - một nền văn xuôi lấy ngôn ngữ đời thường làm nền tảng.
 Văn chương cần hướng đến những vấn đề của đời sống thực tại với những con người đời thường là đặc điểm nổi bật thứ hai trong quan niệm văn học của các tác giả văn xuôi quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ XIX.
 Vấn đề phản ánh hiện thực, đời sống thực tại là một trong những tiêu chí để khu biệt văn xuôi hiện đại với cổ điển. Bakhtin đã dùng tiêu chí hướng đến hiện tại của tiểu thuyết để khu biệt nó với thể loại sử thi vốn chỉ hướng đến quá khứ và lịch sử. Trong quan niệm sáng tác của các tác giả giai đoạn cuối thế kỷ XIX chúng ta cũng ghi nhận một xu hướng chú ý đến thực tại với những con người đời thường mang tính hiện thực.
 Trong buổi đầu sáng tác bằng chữ quốc ngữ, hai ông Trương, Huỳnh dường như đã lặp lại những bước đi của các tác giả văn xuôi chữ Hán trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong công việc sưu tầm, “góp nhóp trộn trạo” chuyện dân gian của các tác giả Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của (Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, Chuyện giải buồn) ta như gặp lại bóng dáng của Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh - Kiều Phú, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ trong việc sưu tầm hiệu đính ghi chép những chuyện kỳ lạ, huyền ảo trong dân gian (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục). Tuy nhiên nhìn vào văn phẩm mà hai tác giả này sưu tầm, ghi chép chúng ta thấy họ ưu tiên số lượng cho các tác phẩm phản ánh những quan hệ trong cuộc sống đời thường hàng ngày của những con người bình thường. Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của gồm 112 truyện thì có tới 70 truyện được dịch từ Liêu trai chí dị, nhưng tác giả lại chủ tâm chọn dịch những chuyện phản ánh con người đời thường và các mối quan hệ của họ trong cuộc sống trần tục (Chuyện voi, Chuyện tên Ất, Chuyện tên Giáp, Địa ngục miền dương gian...) chứ không phải những chuyện hồ ly, thư sinh, mộng mị mang nhiều yếu tố kỳ lạ chiếm phần lớn trong kho truyện Liêu trai chí dị.
 Không chỉ chọn lọc những truyện dân gian, Trương Vĩnh Ký bắt đầu có khái niệm về sự quan sát thực tế và ghi chép thực tế được biểu hiện qua tập du kí Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi 1876 (1881). Ở đây tác giả đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong dịp ra Bắc hơn một tháng trời. Với con mắt của nhà khoa học người viết đã “quan sát, đón bắt, ghi nhận thay cho cái máy ảnh” (15) một cách chi tiết, cụ thể, sinh động hành trình chuyến đi theo thời gian, địa điểm thực tế qua các vùng đất Hải Dương, Hải Phòng, đặc biệt là Hà Nội với những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Những trang du kí này đã phơi bày một hiện thực nhiều màu sắc qua sự quan sát mô tả thực tế của tác giả. Tất nhiên ở giai đoạn đầu này chúng ta phải thừa nhận “mô tả ở mức đơn sơ nhất, ít gia công tư duy nhất cũng đã là mới, cũng đã là phá vỡ khuôn sáo” (16).
 Trong tác phẩm Kiếp phong trần (1882) Trương Vĩnh Ký đã để nhân vật tự do bộc lộ những cảm xúc cá nhân của mình (những suy nghĩ về nhân tình thế thái, cách đối nhân xử thế, nhận thức về lẽ phải, trái ở đời...). Phải chăng đây cũng là một cách tự do bày tỏ suy nghĩ cá nhân của người viết - một trong những nội dung vốn xuất hiện rất hạn chế trong các hình thức văn học cũ nhưng lại khá phổ biến trong sáng tác văn xuôi hiện đại? Những câu hỏi đầy tính tò mò của nhân vật Lê Hảo Học và suy nghĩ rút ra từ trải nghiệm cuộc sống thực tế của nhân vật Trương Chí Đại tạo cho người đọc hứng thú mới, cảm xúc mới, suy nghĩ mới về kiếp người, cuộc sống, thực tế xã hội khác hẳn với quan niệm trước đây. Điều khiến người đọc hứng thú là những bài học kinh nghiệm quý giá đó được rút ra từ chính sự quan sát, trải nghiệm thực tế cuộc sống của nhân vật đã từng “được học hành thông kim bác cổ, lại thêm châu lưu khắp miền khắp xứ, điều nghe thấy rộng lắm, từng trải việc đời” (17) chứ không đơn thuần là bài học giáo lý khô khan học theo những gương trung thần hiếu nghĩa trong truyền thống.
 Qua những ghi chép và sáng tác bằng văn xuôi quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của chúng tôi nhận thấy các tác giả bắt đầu quan tâm đến vấn đề nhận thức, mô tả, phản ánh hiện thực mà không chỉ là hướng đạo nêu gương như trong văn học truyền thống. Cách lựa chọn đề tài cũng khác trước, không đề cao những nhân vật phi thường anh hùng liệt nữ hay ca ngợi những gương trung hiếu tiết liệt vốn ngự trị hàng ngàn năm trên văn đàn mà thiết thực gần gũi với đời sống hơn, có khi chỉ là những câu chuyện đơn sơ dí dỏm thường có trước mắt ta; có khi được lượm lặt trong những truyện dân gian của Việt Nam hoặc Trung Quốc thường được kể trong đám bình dân để giải trí hoặc những chuyện mắt thấy tai nghe ở xứ người trong những dịp du ngoạn được tác giả kể lại mua vui cho độc giả hay đơn giản chỉ là muốn bày tỏ một thái độ của cá nhân trước cuộc đời... Tóm lại đó là những vấn đề có ý nghĩa đời sống thường ngày.
 Trong Truyện thầy Lazarô Phiền vấn đề phản ánh hiện thực mô tả cuộc sống bình thường với những con người đời thường đã được Nguyễn Trọng Quản quan tâm một cách đặc biệt. Tác giả không chỉ dụng ý đặt nhân vật người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, xưng tôi nhằm tạo cho người đọc cảm giác như đang được tiếp xúc với người thực, việc thực mà còn quan tâm tới cách tạo dựng tình tiết cốt truyện để tăng tính hiện thực của tác phẩm. Đáng chú ý hơn cả là việc Nguyễn Trọng Quản đã sử dụng nhiều mốc thời gian rất cụ thể chi tiết (18).
 Chính việc kê khai ngày tháng một cách cụ thể chi tiết như “một bản khai lí lịch” này, đặc biệt là thời điểm câu chuyện kết thúc (năm 1885) chỉ trước thời điểm tác giả viết (năm 1886) có một năm tạo cho người đọc cảm giác như đang được chứng kiến một câu chuyện có thật vừa mới xảy ra trong cuộc sống như vẫn đang hiện hữu đâu đây và còn rất nóng hổi. Đồng thời sức nặng của việc phản ánh hiện thực càng được thuyết phục khi tác giả đưa ra hai chú thích rất cụ thể. Chú thích thứ nhất nói về ngôi nhà thờ của những kẻ tử đạo được dựng lên ở Bà Rịa khiến người đọc có cảm giác câu chuyện xảy ra ở thời hiện tại rất gần với mình vì được tiếp xúc với một địa điểm có thật trong thực tế, ai cũng biết. Chú thích thứ hai, khi nghe thầy Phiền kể về sự kiện cấm đạo tại Biên Hòa, nhân vật người kể chuyện cũng xen cảm nghĩ của mình vào như xác nhận thêm một lần nữa sự chính xác trong lời kể của nhân vật (19). Ở đây chú thích là một dụng ý nghệ thuật của tác giả.
 Nguyễn Trọng Quản khi xây dựng cốt truyện là muốn cho người đọc cảm nhận đây là một “truyện có thực”, “xảy ra trước mắt” với những nhân vật, sự kiện của thời hiện tại chứ không phải là những truyện xưa tích cũ được đem ra kể lại. Có thể nói tính hiện thực, thời sự của tác phẩm được đẩy lên mức cao. Đây là một minh chứng thuyết phục cho quan niệm sáng tác văn chương hướng về đời sống thực, với những con người thực và “sự thường có trước mắt ta” mà tác giả đã tuyên bố trong lời Tựa mở đầu thiên truyện (20).
 Một đặc điểm nữa chúng tôi muốn nói đến trong quan niệm văn học của một số trí thức viết văn xuôi quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ XIX là hướng đến người đọc bình dân, bước đầu chú ý đến thị hiếu của người thưởng thức.
 Là những trí thức cộng tác với người Pháp, Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của phải thực hiện sứ mệnh của mình theo những chính sách, nghị định của nhà nước bảo hộ đó là: xã hội hóa chữ quốc ngữ, phổ biến chữ quốc ngữ trong quần chúng nhân dân. Nhưng chính trong công việc đó hai ông đã có điều kiện để gieo hạt và ươm mầm cho một quan niệm mới về văn học. Nhìn từ góc độ xã hội, có thể nói nhiệm vụ xã hội hóa chữ quốc ngữ là la bàn định hướng cho Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của chú ý đến việc lựa chọn những tác phẩm văn học phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ - đạo đức của đông đảo người đọc. Nhưng việc lựa chọn những tác phẩm này cũng chứng tỏ thị hiếu của số đông độc giả trong xã hội là nhu cầu giải trí, mua vui cũng bắt đầu được người sáng tác quan tâm. Điều này đã ít nhiều đánh dấu bước thay đổi trong cách nghĩ, cách quan niệm về văn chương của những người sáng tác. Không kể một loạt những tác phẩm được dịch ra quốc ngữ rất phổ biến trong dân gian như Lục súc tranh công, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên... Trương Vĩnh Ký đã chọn lọc, “lựa nhón” những truyện “hay và có ích” trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam còn Huỳnh Tịnh Của thì ngoài việc ghi chép những truyện kể trong dân gian còn chọn dịch những truyện ngắn trong Liêu trai chí dị vốn rất quen thuộc và phổ biến đối với tầng lớp bình dân.
Chuyện giải buồn (1885) của Huỳnh Tịnh Của ngoài một số truyện rút ra từ kho tàng văn học dân gian dân tộc (Anh em ruột tranh gia tài, Ăn mày xin vàng nén, Phật đổ mồ hôi, Mua cua...) còn phần lớn được chuyển dịch từ Liêu trai chí dị (Chí khí cao, Đông Phương Sóc, Chuyện Ký viên, Ông Tơ bà Nguyệt, Quân mồ hóng, Chuyện Trang Tử....) nhưng tác giả đã có một chủ trương rõ ràng là chọn dịch những truyện gần gũi với quan niệm đạo đức - thẩm mĩ của dân gian về nhân quả, ca ngợi cái thiện, phê phán cái ác hơn là những gì cao siêu, bác học xa lạ với đông đảo công chúng. Điều này thể hiện rõ ý thức hướng đến đối tượng tiếp nhận rộng rãi là người đọc bình dân. Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký hầu hết là các chuyện khôi hài hoặc có tính cách khôi hài, chỉ nêu tên chuyện cũng đủ thấy điều đó như: Chàng rể bắt chước cha vợ, Thằng cha nhảy cà tứng, Hai anh sợ vợ, Thằng chồng khờ…
Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã rất có ý thức trong việc hướng đến kết hợp cái hay, cái có ích, tính phổ biến và dễ tiếp nhận để phù hợp với tâm lý, thị hiếu của độc giả bình dân. Các tác giả đã chú ý đến đối tượng tiếp nhận là đông đảo bạn đọc bình dân và nhu cầu thưởng thức văn học của họ là giải trí, mua vui. Tính giải trí, mua vui được đề cao và đặt lên hàng đầu. Chính cái ý thức hướng đến độc giả, chú ý đến thị hiếu người đọc của các tác giả này đã hàm chứa một quan niệm khác trước về sáng tác văn chương. Văn chương không phải để cho một số ít người có học thù tạc, mạn đàm, ngâm ngợi “khi chén rượu lúc cuộc cờ” mà phải hướng đến đông đảo quần chúng, hướng đến đời thường, thỏa mãn thị hiếu của số đông người thưởng thức. Ngay cả Nguyễn Trọng Quản khi viết Truyện thày Larazô Phiền (1887) cũng có mục đích “trước là làm cho trẻ con ham vui mà tập đọc” và “kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì đặng giải buồn một giây” (21).
Giai đoạn này Trương Minh Ký bên cạnh việc dịch hàng loạt tác phẩm của phương Tây ra văn vần đã dịch một số tác phẩm sang hình thức văn xuôi quốc ngữ như: Truyện Phan sa diễn ra quốc ngữ - 1884 (dịch 16 truyện ngụ ngôn của Laphôngten và 12 truyện của các tác giả phương Tây khác - trong đó chủ yếu là truyện ngụ ngôn). Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ - 1886 (dịch 150 truyện ngụ ngôn của Laphôngten dưới hình thức văn xuôi và văn vần). Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết những truyện dịch của Trương Minh Ký đều là truyện ngụ ngôn. Là một trí thức cộng tác với Pháp, Trương Minh Ký có điều kiện tiếp xúc sớm và nhiều với văn học Pháp và phương Tây nhưng trong cái kho tàng đồ sộ và phong phú của nhân loại ấy những tác phẩm được họ Trương quan tâm đầu tiên để chuyển dịch sang chữ quốc ngữ lại là truyện ngụ ngôn. Tác giả đã chú ý tới đối tượng tiếp nhận và thị hiếu của đông đảo độc giả bình dân mà món ăn ưa thích và phù hợp hơn cả đối với họ là những truyện ngụ ngôn có nội dung mang đậm tính giải trí, bình dân, trong đó gửi gắm những bài học luân lí nhẹ nhàng, dí dỏm, gần gũi với đời sống thường ngày. Điều này chứng tỏ việc chọn dịch tác phẩm của Trương Minh Ký là có chủ ý: hướng tới đối tượng thưởng thức là đông đảo độc giả bình dân.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, qua những ghi chép, sưu tầm, sáng tác bằng văn xuôi quốc ngữ của các tác giả Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký, có thể nhận thấy những dấu hiệu của nền văn học mới bắt đầu manh nha qua những đột phá về quan niệm sáng tác - quan niệm văn xuôi viết bằng ngôn ngữ đời thường, hướng về những vấn đề của đời sống thực tại và chú ý tới đối tượng thưởng thức là những người bình dân. Quan niệm này rất mới mẻ và khác trước, nó tiệm cận với quan niệm sáng tác theo khuynh hướng tả thực được du nhập từ phương Tây. Nhưng ngay sau đó xu hướng sáng tác này không được phát huy ở Nam Bộ mà phải đến những năm 20 của thế kỷ sau mới xuất hiện ở Bắc Bộ và trở thành một khuynh hướng chủ đạo của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
*
1, 11. Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Nxb Trình Bày, Sài Gòn, quyển Hạ, 1867, tr.31, 25.
2. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Văn học hiện đại Việt Nam bước khởi đầu quan trọng ở Sài Gòn - Nam Bộ, Tạp chí Văn học số 3-2000, tr.35.
3, 12. Nguyễn Huệ Chi, Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu, Tạp chí Văn học số 5-2002, tr.14, 13.
4. P.J.B Trương Vĩnh Ký, Chuyện đời xưa, Bản in lại của nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1962, tr.2.
5. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998, tr.29.
6, 15. Bằng Giang, Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký, Nxb Văn học, Hà Nội, 1993, tr.44.
7. P.J.B Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi - 1876, bản in nhà hàng C. Guilland et Martinon, 1881.
8, 19, 20, 21. Cao Xuân Mỹ (sưu tầm và tuyển chọn), Truyện dài đầu tiên và tuyển tập các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, 1998, tr.16, 27, 17.
9. M.Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, 1992, tr.30.
10. Nguyễn Văn Hiệu, Văn chương quốc ngữ Nam Bộ nhìn từ quá trình xã hội hóa chữ quốc ngữ, Tạp chí Văn học số 5-2002, tr.21-28.
13. Dẫn theo Lại Văn Hùng, Truyện ngắn nhìn trong nguồn mạch, Tạp chí Văn học số 2-2001, tr.70.
14, 16. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr.284, 26.
17. P.J.B Trương Vĩnh Ký, Kiếp phong trần, Bản in nhà hàng C. Guilland et Martinon, 1882.
18. Hoàng Dũng, Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản - những đóng góp vào kỹ thuật hư cấu (fiction) trong văn học Việt Nam in trong sách Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch sử do Trần Đình Sử chủ biên, Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2003, tr.302, 303.