Khiemnguyen

Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

(Vũ Ngọc Phan) Hoàng Tích Chu và lối văn cộc của anh

Những năm tôi mới viết văn và viết báo, tôi hay đến nhà in Trung Bắc phố Hàng Bông đệm[1]. Ở nhà in này tôi đã gặp Hoàng Tích Chu, cây bút được anh chị em thanh niên đương thời rất yêu mến. Anh là người đề xướng một lối văn mới, người ta gọi là “văn cộc” hay “văn nhát gừng”.
Trước khi đề cập đến lối văn Hoàng Tích Chu, tôi muốn nói qua về con người anh, vì theo tôi, anh có thể tiêu biểu cho lớp nhà văn trẻ vào cuối thập kỷ 20 sang đầu thập kỷ 30. Anh người làng Phù Lưu thuộc Bắc Ninh (nay thuộc Hà Bắc). Người ta thường nói: “Trai Phù Lưu, gái Đình Bảng”, hai làng giáp nhau, trai và gái đều nổi tiếng tuấn tú, xinh đẹp, tài hoa. Hoàng Tích Chu đã tài hoa lại đẹp trai, nên được nhiều con gái Hà Nội rất chú ý. Anh có đôi mắt sắc và thông minh, tầm vóc vững vàng, hơi to ngang một chút, không cao, không thấp. Anh nói chuyện hấp dẫn, luôn luôn dùng hình tượng, lại hay châm biếm, thỉnh thoảng điểm những tiếng cười giòn giã. Có thể nói Hoàng Tích Chu có phong thái con người Hà Nội thời đó. Người ta đồn rằng cô Phượng Hàng Ngang (nhân vật trong Mồ cô Phượng) là một trong những bạn tình của anh.
Năm tôi mười ba, mười bốn tuổi, ngày ngày đi học qua phố Hàng Ngang, tôi đã được trông thấy cô Phượng, lúc đó, cô vào khoảng hăm hai, hăm ba tuổi. Cô ngồi bán các thứ hàng lụa, xatanh, gấm, vóc tại nhà chồng, nhà này họ Phan. Chồng cô là một “khách lai” vô công rồi nghề, vào loại công tử bột thời bấy giờ. Hắn đi đi lại lại suốt ngày ở cửa hàng để trông kẻ gian, và còn để canh vợ nữa. Cô Phượng người tầm thước, có đôi mắt bồ câu long lanh, với cặp mi cong, đôi lông mày xanh và dài, môi đỏ mọng đầy dục vọng, mũi dọc dừa thanh tú, và đôi má lúm đồng tiền khi cười. Gò má cô hơi cao, ửng hồng, làm cho khuôn mặt trái xoan của cô có sức quyến rũ, giống như nữ diễn viên điện ảnh Marlen Dietrich thời bấy giờ. Cô Phượng ăn mặc rất nền, khi thì chít khăn nhiễu tam giang, khi thì chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa hiên, quẫn lĩnh tía cạp điều thắt lưng quan lục, tất cả những màu sắc ấy ánh lên qua chiếc áo dài vải phin trắng, may sát vào thân hình nở nang. Lối ăn mặc của cô là một lối rất “nền” của phụ nữ Hà Nội thời xưa. Người ta nói: Cô là con người tài hoa, yêu thích văn thơ, trái hẳn với chồng cô là một gã tốt mã, giẻ cùi. Việc cô bỏ chồng và trốn nhà ra đi, ầm ĩ cả Hà Nội vì hồi ấy, thanh niên Thủ đô không ai là không biết cô Phượng Hàng Ngang. Nhưng rồi hồng nhan bạc mệnh, cô đã sớm qua đời! Người thì nội cô bị trúng phong mà chết, người thì nói cô chán đời nên đã quyên sinh. Mồ cô Phượng, tiểu thuyết lãng mạn tiêu cực, nhân vật Phượng là cô Phượng Hàng Ngang này. Cái tên Hoàng Hồ trong giai thoại, trong vè,  trong tiểu thuyết đã ám chỉ vào Hoàng Tích Chu. Cô Phượng và Hoàng Hổ đều là nhân vật chính.
... Hoàng Tích Chu thấy tôi làm nghề văn, không đi làm công chức, anh rất hoan nghênh. Lúc bấy giờ, anh đã thôi không làm chủ bút Ngọ báo của Bùi Xuân Học và đã cho ra tuần báo Đông Tây, do anh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Báo Đông Tây in ở nhà in Trung Bắc, nên tôi thường gặp anh.
Vào cái thời người ta quan niệm người làm nghề viết phải sống cho phóng khoáng, nghĩa là biết uống rượu, nghiện cà phê, biết ra vào tiệm hút, biết đi hát ả đào và có một vài nhân tình nhân ngãi, thì dưới con mắt anh em làm báo làng văn lúc bấy giờ, tôi quả là một thanh niên ngây thơ, vì tôi không biết gì về những chuyện đó. Một số người đã gọi đùa tôi là: “bê-bê-Nes-lê”[2] và cái tên này Thiết Can mách cho tôi biết.
Hoàng Tích Chu có vốn Hán học; vào buổi chữ Nho đang tàn tạ, anh được kể vào hạng những người có trình độ tam trường[3]; còn về Tây học anh biết sơ sơ tuy anh đã từng sang Pháp, ở Paris khoảng một năm trời. Vào thời Andié Gide chưa ra quyển Reourde LV.R.S.S (Ở Liên bang Xô-viết trở về), nhà văn Pháp này được nhiều thanh niên Việt Nam ưa thích. Một thời gian, đọc Gide trở thành cái “mốt” gần như cái “mốt” mặc áo Lơ Muya của phụ nữ Hà Nội. Theo thời, Hoàng Tích Chu cũng viết một bài về Gide, nhưng anh lại viết lầm tên nhà văn này là Charles Gide một nhà kinh tế học Pháp đương thời, tác giả quyển Economic politique (Chính trị kinh tế học). Tuy vậy, anh rất có năng khiếu về văn. Từ hồi trẻ anh đã viết những bài “biền ngẫu” trên tạp chí Nam phong. Anh dùng loại văn có những câu đối ngắn gọn này, để phê phán những điều tai nghe mắt thấy. Nhưng với nội dung ấy mà viết lối “biền ngẫu” tất nhiên không thành công được. Dùng “bình cũ rượu mới” thì đi đến chỗ gò ép, tối nghĩa. Từ nhỏ dùng lối văn đối nhau, như phú chiêu, kiểu để viết về thời sự, Hoàng Tích Chu đã xếp “bình cũ” lại và dùng “bình mới rượu mới”, với ý nghĩ: Hình thức phải phục vụ đắc lực nội dung. Anh viết một lối văn hết sức ngắn gọn, đương thời người ta gọi là “văn cộc”, “văn nhát gừng” hay “văn Hoàng Tích Chu”.
Trong những năm của thập kỷ 20, quốc văn còn non trẻ, những người viết quốc văn đầu tiên là những người nửa Tây học, nửa Nho học. Lúc đầu, nhà Nho thuần túy viết văn xuôi bằng tiếng dân tộc rất ít. Nếu họ có hứng về quốc văn thì họ làm thơ. Đến khi báo chí quốc văn ra đời, do yêu cầu phải có bài dịch thuật từ các sách Hán văn, mấy ông nhà Nho bắt buộc viết văn xuôi. Gọi là văn, nhưng thật ra các ông cố dịch cho đúng nghĩa, xuôi tai. Câu văn không được trau chuốt, có quá nhiều từ thì, mà, vậy. Người ta đã gọi những thứ văn ấy là “thứ văn thì thì mà mà”, “thứ văn vậy vậy”.
Lối văn Hoàng Tích Chu ra đời tiêu biểu cho tư tưởng phản kháng của những người viết văn trẻ đối với thứ văn “bè ngô bè dừa” của một số nhà Nho mới cầm bút sắt. Vào những năm 1929 - 1930 trên tờ Ngọ báo do Hoàng Tích Chu làm chủ bút, anh viết những bài bàn về thời cuộc với một lối văn hết sức gọn, những từ , từ thì gần bị loại hết.
Đến khi không còn phụ trách tòa soạn Ngọ báo nữa thì trên tuần báo Đông Tây (số ra ngày 29/07/1931) do Hoàng Tích Chu làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, anh phát biểu về lối văn của mình như sau:
“... Tối vốn đã bị cái bả viết văn kéo dài, hàng mười dòng mới hạ được cái chấm dứt câu, hàng hai, ba cột báo vẫn chỉ trọi một ý. Phải có một lối văn khác. Cái lối viết phải làm sao cho gọn, không thừa nhiều lời. Đến khi tìm được nó rồi, tôi liền bắt đầu thực hành bằng những “bài bàn về thời sự”. Tôi định rằng bài nào cũng vậy, chỉ được chiếm một cột báo là nhiều lắm”.
Đó là thời tôi viết cho tờ Ngọ báo năm xưa. Đó cũng là hồi văn Hoàng Tích Chu bắt đầu được một phần độc giả công kích, cũng như một phần độc giả hoan nghênh. Lâu dần nó thành ra một lối mà anh em làm báo như đã nhận một cách vô tâm, vậy.
“…Tôi đến giờ muốn thực hành cái lối văn H.T.C, ra mọi phương diện khác. Viết về cuộc phỏng vấn, viết truyện đoản thiên, tôi thấy dễ xoay cán bút, không tốn công lắm như viết một “bài bàn về thời sự, chỉ trong một cột”, phải chọn từng chữ, phải sửa từng câu. Được một đằng, hỏng một đằng. Đến khi thực hành lối văn ấy vào những bài nghị luận, thì thấy ngay một sự khó khăn trình bày trên mặt giấy.
“Bởi lối văn không cho phép viết dài câu hay thừa nhiều tiếng, nên mỗi khi giãi bày một lý thuyết nào tôi thấy khó xoay xở lắm. Chân muốn bước đi, mà như có một sức gì ngăn cản lại. Trong khi lúng túng về nỗi tiến thoái ấy, tôi lắm khi tự quên rằng bài viết để người đọc, không phải chỉ để một mình xem…”.
Trên đây là những lời thanh minh và cũng là những điều suy nghĩ, cân nhắc của Hoàng Tích Chu. Bài trên đây anh còn viết lối văn bình thường. Cũng trên số báo Đông Tây nói trên (số ra ngày 29/07/1931), anh đăng một bài viết theo lối mới, có đoạn như sau:
Gớm cho năm 1931!
Thế giới đang khổ về nạn kinh tế[4]. Tôi đây cũng chẳng được yên: hai anh thợ sơn để lại bức tường làng cuỗm giấy “con công” theo thằng Cuội; vài ông đại lý tiêu lạm tiền báo tháng, trốn ăn “mắm ngóe” ở xứ Lào. Đã thiệt một bên, tôi nào thấy một bên có lời: nhà in giục nợ, thợ chữ thúc bài, mà... bên nách, một bạn đồng nghiệp cứ nay gãi, mai cào, lắm khi muốn cười lên tiếng khóc.
Còn mong cái sướng về tinh thần.
Này bức thư anh lái lọng gửi đến chiều qua, giấy nhầu bẩn, mực tím phai, nét chữ tháu:
Văn Tôi.
Gái chơi hoang, sao ta cứ đổ tội cho trai quyến rũ? Phùng Đình Mai ưa thịt bóng, sao ta cứ kết án anh lái lọng nhử mồi? Lời Vãn Tôi biện hộ trước tòa Dư luận như đã đến tai các quan tòa Thượng thẩm.
Châu biết Châu có tội, cái tội buôn đồ lậu hẳn pháp luật không dung. Nhưng thứ đồ lậu của Châu, Văn Tôi đã cãi cho nó không đến nỗi hại vệ sinh như giấm rượu, Vitel pha nước.
Châu quả nhiên có công làm lợi nền kinh tế lúc này: tiền giam trong tủ mấy anh giàu bẩn được dịp may đội nón ra đi...
Sốt sắng, Văn Tôi lên tiếng cãi trong số 74, quyết xin cho Châu trắng án. Nhưng Châu có tội. Tòa Thượng thẩm đãi 3 năm tù, đáng lẽ phải 5.
Ngày nay Châu là tù. Cái thời giờ ngồi tù, Châu dùng để sửa lỗi theo phải, hay trái lại, dùng để nghĩ thêm mưu kế lừa đời một cách diệu hơn.
Trên hai dốc ấy, Văn Tôi nên liệu cho Châu bước xuống bên nào?
Muôn độ ơn lòng.
Nhà pha (quên ngày) 1931, Lái Lọng
Chúng ta nhận thấy những câu rất ngắn. Có câu chỉ có hai tù, ba từ, bốn tù. Không có một từ thì nào, từ  được dùng, cũng dùng một riêng. Các bài viết theo lối trên, tác giả đểu ký “Văn Tôi” ở dưới. Thể “Văn Tôi” ấy, thể văn buổi đầu của riêng Hoàng Tích Chu ấy, đã được một số nhà viết báo trẻ thừa nhận và viết theo. Dương Mậu Ngọc (tức Ngọc Thỏ tức Nhị Lang), Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bính, Phùng Tất Đắc, Tchya[5] đều viết lối văn Hoàng Tích Chu trên Ngọ báo, Đông Tây, Việt báo, Nhật Tân, Tân Việt Nam và cả trên tờ Trung Bắc nữa.
Trên phụ trương báo Trung lập ở Sài Gòn (1931) trong bài nghị luận phải viết thế nào? có đoạn hoan nghênh lối văn Hoàng Tích Chu như sau:
Trong văn Quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật nó biệt hẳn ra một lối, đủ mà kêu được là “lối văn Hoàng Tích Chu”: sự ấy trong làng văn ta hình như đã công nhận một cách vô tâm rồi. Chẳng luận lối văn ấy ông Chu sáng tạo ra hay bắt chước của ai, nội một cái biệt lập ra một nhà được như thế, cũng khá gọi là tay hào kiệt trong làng văn vậy”.
Mạnh dạn sửa đổi hình thức câu văn, làm cho văn xuôi được trau chuốt, xứng với cái tên của nó, không còn bị coi thường, nôm na, cha mách qué, chống cái bệnh lê thê, dài dòng, không biết chấm câu, là rất đáng hoan nghênh, nhưng coi đó là “biệt lập ra một nhà” là nói quá đáng. Người viết văn gọn gàng và chấm câu rành mạch đầu tiên, phải kể Phạm Duy Tốn. Ông Tốn viết không nhiều, chỉ để lại vài truyện ngắn, nhưng văn ông đã ảnh hưởng đến lớp trẻ. Trong tạp chí Nam phong (số 18, tháng 12/1918), truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn có đoạn:
“Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào, thở không ra hơi:
- Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi.
Ngài quay mặt vào, lại hỏi thày đề:
- Thày bốc quân gì thế?
- Dạ bẩm con chưa bốc.
- Thì bốc chứ!
Cách đây gần 70 năm mà những cầu văn trên đây tưởng như mới viết ngày nay. Hoàng Tích Chu là người đã nhìn thấy trong văn học hình thức phải đáp ứng nội dung, phải phục vụ đắc lực biểu hiện tư tưởng tình cảm của tác giả. Đó là cái nhìn rất đúng của anh. Còn những từ thì từ  vốn có ý nghĩa và hiệu lực của nó. Đoạn văn trên đây của Phạm Duy Tốn từ thì trong câu: “Thì bốc chứ!” có ý nghĩa thúc giục phải làm ngay. Chỉ dùng không đúng chỗ, câu văn mới hóa rườm rà.
Viết văn xuôi, cần phải cân nhắc, nhưng chưa đến nỗi phải cân nhắc bằng thơ. Trong Truyện Kiều, tác phẩm văn vần bậc nhất của ta xưa và nay, Nguyễn Du đã dùng những từ thì, từ  rất đúng chỗ, muốn tước đi cũng không được.
Tuy rằng những từ  và thì bị loại trừ một cách quá đáng trong lối “văn cộc”, nhưng phải thừa nhận rằng lối văn Hoàng Tích Chu đã ảnh hưởng đến một số người viết văn trẻ vào những năm 30 của thế kỷ này. Một số người đã bỏ hết những từ mà, thì; còn một số người, trong đó có tôi, tuy không viết lối văn Hoàng Tích Chu, nhưng cũng đâm dè dặt trong khi dùng những từ thì, từ mà... Có một thời gian phong trào viết văn cộc đã dẫn người ta đến viết quốc văn theo lối văn Tây, không biết rằng văn phạm mỗi nước một khác. Viết lôi thôi, rườm rà, không biết chấm câu là rất dở, nhưng cắt xén câu văn nhiều quá, bỏ hết những từ thì, từ mà, không hiểu tác dụng của những từ ấy, làm cho câu văn tối nghĩa, đó là điều mà tính chất trong sáng của tiếng Việt không bao giờ dung thứ.
Tôi vào Quảng Nam năm 1932, một cụ nhà Nho rất hay thơ Nôm, nói với tôi: “Tôi vẫn đọc bài anh viết trên báo, không kể nội dung phải cái câu văn của anh Tây quá”. Lời nhận xét ấy làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều, viết văn mà “Tây quá” thì còn đâu là tính dân tộc! Ấy là mình chưa hẳn viết lối “văn cộc”. Tôi đã cố gắng tìm tính hài hòa, cố gắng dùng chữ thật Nôm, cùng lắm mới phải dùng những Hán Việt, cố gắng khi viết thì nghĩ đến người đọc, để ai cũng có thể hiểu ngay những ý mình muốn trình bày, những tư tưởng tình cảm mình muốn thể hiện.
Tiếng Việt của ta là một thứ tiếng trong sáng, đó là phương châm mà tôi phải nhớ trong khi viết.
Vào những năm 31, 32 Hoàng Tích Chu cũng đã tự thấy phải thay đổi lối viết của minh: Viết văn cộc không đạt hết ý, nhưng phải tránh không sa vào “lối văn thì thì mà mà” và “lối văn vậy vậy”. Anh đã nói với tôi như thế.
Tôi đang trông đợi xem lối viết cần phân của anh về như thế nào, thì thốt nhiên tờ Đông Tây của anh bị thực dân Pháp rút giấy phép.
Một buổi trưa hè năm 1932, tôi đã trông thấy bọn mật thám vừa Tây vừa ta xông vào nhà in Trung Bắc tịch thu những tờ báo Đông Tây còn chưa ráo mực. Chỉ vì số báo ấy đăng một bài thơ nhan đề là: “Cái chày”, ám chỉ tên tổng đốc Thái Bình họ Vi đã dùng chày để tra tấn, đánh giập đầu gối những người chính trị phạm.
Không còn báo để viết, Hoàng Tích Chu rất buồn. Mùa thu năm 1932, anh xuống chơi với tôi ở Thái Hà mặt buồn rười rượi, không còn vui tính như trước nữa. Mấy tháng sau, anh ốm nặng. Tôi đến thăm anh ở phố Lê Lợi (nay là phố Bà Triệu). Anh còn rất tỉnh, nghe tiếng tôi nói, anh nhận ra ngay, nhưng hai con mắt sắc sảo của anh lúc ấy đã phải che bằng hai mảnh the đen, vì anh rất sợ ánh sáng. Ngày 25 tháng Giêng năm 1933 tức ngày 29 tháng Chạp ta, anh mất, để thương, để tiếc cho nhiều bạn trẻ trong làng văn, làng báo Việt Nam lúc bấy giờ./.
                                                                                                 Vũ Ngọc Phan




[1] Nhà in Trung Bắc, ngoài việc in Trung Bắc tân văn và Annam Nouveau của Nguyễn Văn Vĩnh, còn in nhiều sách báo khác, nên nhiều nhà văn, nhà báo thường đến nhà in này.

[2] Quảng cáo của hãng sữa Nestlé có vẽ một em bé chừng một tuổi rất bụ bẫm ngồi bên hộp sữa.

[3] Tức vào được kỳ thứ 3 tại khoa thi hương Nam Định (trường Nam) rồi mới hỏng.
[4] Ở Đông Dương hồi bấy giờ có cái nạn mà thực dân Pháp gọi là Khủng hoảng vì không bán được gạo.
[5] Nghĩa là: tôi chẳng yêu ai (chắp chữ đầu), biệt hiệu của Đái Đức Tuấn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét