Khiemnguyen
Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014
"Báo in ko diệt vong mà đang trong giai đoạn mới của vòng đời"
Sau một loạt sự phân tách chưa có tiền lệ của các tập đoàn truyền thông lớn của Mỹ, ngành sản xuất báo in giờ đây đang phải đối mặt với tương lai nhiều chông gai, khi không còn được các công ty mẹ "bơm" tài chính.
Làn sóng chia tách ở các tập đoàn truyền thông diễn ra vào thời điểm các tờ báo/tạp chí đang phải vật lộn để chuyển sang công nghệ kỹ thuật số, và cổ đông của các tập đoàn truyền thông ngày càng "ít cảm tình ra mặt" với loại hình báo in.
Gannett - sở hữu tờ USA Today và hàng chục tờ báo khác - là tập đoàn gần đây nhất thông báo kế hoạch tách hoạt động của mảng báo in và truyền hình thành hai đơn vị riêng biệt, nhằm tăng tính chuyên nghiệp của mỗi đơn vị.
Sự kiện trên diễn ra sau khi Tribute Co. cho các tờ báo Los Angeles Times và Chicago Tribute tách ra khỏi tập đoàn này, cũng như Time Warner để tạp chí Time Inc ra "ở riêng."
Tháng trước, hai công ty truyền thông EW Scripps và Journal Communications sau khi tuyên bố hợp nhất cũng quyết định tách mảng báo giấy ra khỏi công ty, để hoàn toàn tập trung vào mảng truyền hình và truyền thông kỹ thuật số.
Xu hướng trên được cho là bắt đầu vào năm ngoái khi "ông trùm" truyền thông Rupert Murdoch phân tách “đế chế” News Corp của mình thành hai mảng truyền thông-giải trí và xuất bản.
Trước làn sóng hàng loạt các tờ báo in Mỹ liên tục bị tách ra khỏi công ty mẹ, ông Mark Jurkowitz, phó Giám đốc Dự án Báo chí của trung tâm nghiên cứu Pew, cho rằng hành động này giống như tình cảnh “những đứa trẻ bị bố mẹ tống ra khỏi nhà.”
Trong thời kỳ báo giấy mang lại lợi nhuận khổng lồ thì các công ty truyền thông đã nhanh chóng “tóm lấy” mảng này.
Nhưng nay, các mảng khác của truyền thông, chẳng hạn như truyền hình, lại giữ vai trò chi phối lợi nhuận của các hãng truyền thông. Ông Jurkowitz còn cho rằng “dường như thị trường không quan tâm nhiều đến tương lai ngành báo in nữa.”
Chuyên gia tư vấn truyền thông Alan Mutter cho biết, mặc dù nhiều tờ báo in vẫn còn đem lại lợi nhuận trung bình khoảng 16% (cao hơn cả mức lợi nhuận của Walmart hay Amazon) song trong những năm gần đây, tin tức trong lĩnh vực kỹ thuật số đã dần thay thế ngôi vị một thời của báo giấy.
Ông Mutter cho rằng báo giấy ngày càng phụ thuộc vào những tên tuổi trong làng công nghệ như Google, Facebook hay Twitter, để tạo ra số lượng truy cập lớn - nguồn sống đối với các tập đoàn truyền thông.
Ông Dan Kennedy, một giáo sư báo chí tại Đại học Northeastern, cho rằng ngành báo giấy đang phục hồi sau ảnh hưởng tiêu cực từ các thỏa thuận phân tách trước đây.
Ông Kennedy nhận định lợi nhuận ngành báo giấy vẫn còn khá ổn, và nếu thuộc sở hữu của các doanh nghiệp tư nhân không bị nợ nần thì sẽ có chắc chắn sẽ có tờ báo "làm ăn" tốt.
Một số nhà phân tích cho rằng sự tan rã của các tập đoàn truyền thông lớn có thể buộc các nhà xuất bản tìm cách kết nối với độc giả qua mạng trực tuyến.
Theo ông Jurkowitz, vấn đề thực sự với ngành báo giấy không phải là việc giải quyết một “cành cây chết” mà đó là sự thất bại trong việc kiếm tiền từ phương tiện kỹ thuật số ngày nay.
Ngành công nghiệp báo chí đang theo dõi sát những nỗ lực của các tờ báo như New York Times - đang thử nghiệm các kế hoạch truy cập kỹ thuật số mới, và Washington Post - dưới thời chủ sở hữu mới Jeff Bezos đã nâng lượng độc giả trực tuyến lên mức cao kỷ lục.
Giáo sư Kennedy cho rằng dù báo in có thể hoạt động sinh lời và là một phần quan trọng của cộng đồng, nhưng vẫn không thể đáp ứng được kỳ vọng của Phố Wall về tốc độ phát triển.
Tuy nhiên, ông Kennedy cũng nhấn mạnh việc các chủ sở hữu tư nhân vẫn có thể tiếp tục phát triển công việc kinh doanh và báo in cần phải đầu tư đáng kể để chuyển đổi sang công nghệ kỹ thuật số trong những năm tới.
Ông Peter Copeland, cựu biên tập viên của Scripps Howard News Service và hiện là một nhà tư vấn truyền thông, nhận định tách báo giấy khỏi các công ty mẹ đa truyền thông là xu hướng hợp lý và nhìn chung là tích cực đối với báo giấy.
Ông nhấn mạnh rằng sẽ tốt hơn khi báo in và truyền hình được tách biệt, vì chúng không bao giờ kết hợp được với nhau và là những mảng kinh doanh rất khác biệt.
Ông nói: "Tôi nghĩ rằng báo in đang bước vào một thời kỳ mới. Đó không phải là sự diệt vong, nó chỉ là một giai đoạn trong vòng đời của báo in"./.
Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014
Chữ quốc ngữ qua những biển dâu (phần 1)
|
Đoàn Xuân
Kiên
|
Chữ viết ra đời rất muộn màng 80 với tiếng nói của
một dân tộc. Con người đã truyền thông với nhau bằng tiếng nói từ khi họ kết
tập với nhau thành những tập đoàn chung sống. Nhưng chỉ là từ khi một thứ tiếng
nói đã được sử dụng thật thuần thục, sản sinh ra nhu cầu ghi lại những ý tưởng
lời nói của mình, khi ấy, chữ viết mới thật sự ra đời. Thật ra, khó có thể nói
là chữ viết đã ra đời “nhất thành bất biến” như chúng ta thấy ngày nay.
Lịch sử chữ viết đã trải qua bao phen biến đổi, từ
hình thức thắt nút dây như đã được ghi nhận trong một câu ở Kinh Dịch: “Thượng cổ kết thẳng nhi trị...” đến xâu
chuỗi vô số có màu sắc khác nhau như người da đỏ Iroquois, đều là những
hình thức ký hiệu để ghi lại ý tưởng người xưa muốn truyền đạt cho nhau, hoặc
đơn giản là để ghi dấu lại cho nhớ. Những hình thúc đó đều là những dạng mở đầu
cho chữ viết do con người mò mẫm mà có
được. Những hình thức chữ viết bằng hiện vật như vừa nói ở trên là những gì sơ khai nhất của chữ viết.
Tiến lên một bước nữa là
hình thức chữ viết bằng hình vẽ
mà ta còn có thể thấy trong các vản bản cổ khắc trên đá của người cổ Ai Cập từ
hơn 4000 năm trước, hoặc là những hình vẽ trên đồ vật bằng đất nung cùa người
Sumer cũng khoảng thời kì hơn 3000 năm trước.
Hình thức chữ viết biểu ý như còn thấy ở một số chữ Hán đơn giản ban đầu vạch trên
các mai rùa đã có thể gọi là một bước tiến của lịch sử chữ viết. Hình thức phát
triển cao nhất của chữ viết là hình thức ghi
âm mà dấu vết buổi ban đầu là bộ chữ viết của người Phenicie.
Chữ viết ra đời đã góp phần rất lớn vào việc phát triển ngôn ngữ con
người, tạo ra một bước nhảy vọt quan trọng: ghi lại tiếng nói để lưu giữ hoặc
truyền đạt trong không gian rộng hơn
tầm hạn của tiếng nói. Nhưng giữa tiếng nóỉ và chữ viết, không bao giờ có thể tách lìa hoặc thủ tiêu một yếu tố
nào: không thể có chữ viết nếu không tồn tại một tiếng nói trước đó. Tương quan
giữa tiếng nói và chữ viết như vậy là tương quan trưóc - sau, và chữ viết chỉ
có thể xem là những kí hiệu như bao
nhiêu hệ thống kí hiệu khác do con người chế tác để biểu đạt một thứ nội dung
nào đó.
Chữ viết của tiếng Việt
Chữ viết của người Việt chúng ta ra đời từ bao giờ là một câu hỏi chưa
dễ dàng có được câu trả lời rõ ràng.
Chỉ biết rằng, trên các đồ vật bằng đá và bằng đồng của thời kì văn minh
Đông Sơn của dân tộc Lạc Việt, có
những dấu hiệu cho phép ta đặt giả thuyết về dạng chữ viết cổ xưa của dân tộc, trước khi bị bọn
xâm lược nhà Hán thủ tiêu, trong ý đồ đồng hóa dân Lạc Việt. Hệ thống chữ viết
của người Việt nay đã qua nhiều phen thay đổi do những đẩy đưa của lịch sử. Khi
bị Hán tộc thống trị hơn nghìn năm, người Lạc Việt đã trải qua một cuộc giao
lưu văn hóa lớn, mà một trong số những
thành tựu văn hóa mới chính là bộ chữ viết mới được thành hình: chữ nôm. Chữ nôm là một thể hiện ý chí sống còn của tinh thần dân tộc về
mặt ngôn ngữ văn tự; dùng chính những nét viết của chữ Hán để ghi lại tiếng nói
dân tộc, nhà nho Đại Việt đã dõng dạc nói lên ý chí của giống nòi, quyết đạp
bằng những nghiệt ngã của số phận nô lệ để vươn lên độc lập. Những tấm bia cổ
xưa từ đời các vua nhà Lí còn cho thấy những tên gọi các làng xóm hoặc tên
người rất “nôm na”, không thể không có nhu cầu ghi lại bằng một kiểu chữ viết
riêng trong khi mà chữ viết xưa cũ đã tiêu trầm sau hơn nghìn năm ngoại thuộc.
Đến khi người Pháp sang xâm chiếm đất nước ta làm thuộc địa, việc làm đầu
tiên của nhà đương cục là hủy bỏ vị thế của hệ thống giáo dục bằng chữ hán, để thay thế bằng hệ thống chữ quốc ngữ, một hệ thông chữ viết mượn của
bộ chữ cái tiếng La tin. Chữ quốc ngữ cũng như chữ nôm trước đó, chỉ là những
hệ thống chữ viết vay mượn của kẻ mạnh để làm thành công cụ văn hóa dân tộc của
một thời kì nô lệ, trong đó ý thức độc lập tự chủ đã bị trói chặt.
Dù là mượn nét viết của chữ Hán hay của bộ
chữ cái Latin, các hệ thống chữ viết của ta đều có một điểm giống nhau,
là: chữ nôm hay quốc ngữ
đều là hệ thống chữ viết ghi âm, tức là dạng chữ viết ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử chữ viết loài người. Nguyên tắc của loại chữ viết kí ám là “mỗi
âm một kí hiệu”, “nói sao viết vậy”. Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi có những phụ
âm đôi - mà hiện nay một số dân tộc thuộc chủng Indonesien trên cao nguyên miền
Trung hãy còn nói, như: bí, tí, kí, thi
chữ viết đó ghi lại trung thực những âm đó:

Chữ quốc ngữ
Tên gọi hệ thống chữ viết hiện nay đã được
các nhà truyền giáo phương Tây đặt ra từ thế kỉ XVII. Cách gọi này không chính
xác, vì như đã nói, chữ nôm cũng là thứ chữ để ghi tiếng nói nước ta, có đâu
chỉ hệ thống chữ viết Latin mới là của ta (?) (Quốc ngữ: tiếng nói của nước
ta). Chẳng qua đó chỉ là thủ thuật vận động quỉần chúng của các vị thừa sai
nhằm triệt hạ uy tín cũng như địa vị của chữ hán chữ nôm lúc bấy giờ (thế kỉ
XVII).
Chữ quốc ngữ được chế tác từ năm nào, đến nay
vẫn chưa rõ. Chỉ biết rằng, năm 1593 đã có một giáo sĩ Portugal là Diego Aduarte đến đất Quảng Nam và ở đây ba năm. Năm 1615, một giáo sĩ gốc Italy là Busomi đến cửa Hàn (Quảng Nam) giảng đạo
mãi đến năm 1639. Và đầu năm 1625 thì
giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Hội An giảng đạo. Vị thừa sai dòng Tên người Pháp này cùng vị giáo sĩ Italy khác là
Cristoíoro Borri đến đất Việt năm 1618 trước đó đều là những học giả,
nhất là A. de Rhođes, chăm chỉ học
tiếng Việt trong vòng mấy tháng là đã “giảng đạo cho người trong xứ bằng
tiếng của họ được” (Charles Maybon, Hỉstoire
modeme du pays d’Annam (1592-1820). Paris, 1920, p.30). Đấy là những yếu tố con
người và hoàn cảnh cần cho sự ra đời một hệ thống chữ viết tiện lợi cho
việc soạn sách truyền đạo.

(Cf. Đỗ Quang Chính, Lịch sử
chữ quốc ngữ. 1620-1659. Ra khơi, 1972. tr.24-25)
Ròng rã 30 năm liền, chữ quốc ngữ đã được
hoàn chỉnh dần, đến khi A. de Rhodes xuất bản cuốn từ điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Rome, 1651) thì chữ quốc ngữ đã có dạng hoàn chỉnh, nhờ nó tập
đại thành những thành công trước của những giáo sĩ thuộc nhiều giáo đoàn, nhiều
gốc gác khác nhau: có người Ý, có người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, có người Pháp.
Mỗi người sẽ dựa theo bản sắc tiếng nói của họ mà ghi âm tiếng Việt. Những ưu
điểm và khuyết điểm của chữ quốc ngữ là tùy ở điểm này. Đây là một điều cần
xét đến mỗi khi chúng ta muốn có ý kiến, hoặc là phê bình một kiểu ghi âm nào mà ta cho là “khác thường”. Chữ viết
là những bình đựng tiếng nói, vậy thì giá trị của những cái bình là ở chỗ nó có
chuyên chở tiếng nói một cách rõ ràng chính xác hay không.
Một quyển lịch sử Việt Nam do Thầy giảng Ben to Thiện soạn
bằng chữ quốc ngữ năm 1659 đã chứng tỏ sự trường thành vượt bực của hệ thống chữ viết Latin
trong việc ghi âm tiếng Việt. Chữ viết đã
triệt để theo qui tắc ghi âm, nghĩa là nói sao viết vậy, mỗi kí hiệu chì một âm
thanh. Cách ghi âm của Bento Thiện cũng theo phương pháp trong từ điển A. de
Rhodes, nghĩa là theo phương pháp phiên âm cùa người Portugal khi ghi âm ng thành /ũ/, phiên
âm kiểu Italy khi viết gi, qu, phiên âm kiểu Pháp khi viết k trước e, ê, i và c trước
các
nguyên âm khác... Đó là một ưu điểm nếu nhìn về vẻ đa diện của chữ quốc ngữ về
mặt cấu tạo.
Ngày nay, đọc lại sách của A. de Rhodes để đối chiếu vối những sách ra đời
sau này, sẽ nhận thấy những thay đổi về cách viết của chữ quốc ngữ.
Từ điển Dictionarium Anamitico Latinum do Pigneau de Béhaỉne soạn (1773)
đã không thấy những phụ âm đôi bl và tl nữa, cũng không còn phụ âm cuối. Hai từ
này đã viết như chúng ta ngày nay, nghĩa là trời, trồng. Các từ điển Dictionarium
Anamitico – Latinum của Taberd (Serampore, 1838) hay Dictionnaire Annamite Francais của J.M.
Génibrel (Saigon, 1898), đã kiện toàn thêm
những hình thức viết cho chữ quốc ngữ.
Mặc dù chữ quốc ngữ đã dần dần ổn định về
cách ghi âm, vẫn có những thay đổi nhở nhặt có khi ý thức, có khi vô tình. Chữ
quốc ngữ đã không bao giờ “nhất
thành bất biến” cả.
Trên đường trưởng thành
Đến đầu thế kỉ XX, một học giả Pháp khi nhắc
lại công trình của A. de Rhodes, không tiếc lời ca tung: “Quyển từ vị ấy vẫn là
nền tảng cho các công trình sau này mà chỉ thường là bổ túc cho nó, có khi cũng
làm hỏng nó. Những người biết đi tìm những hiểu biết tinh tường về ngữ âm học ở
sách, cùng là sự tài tình của cách phiên chuyển tiếng Việt mà đến nay đã có thể
thách đố mọi sự công kích.” (L.Finot, B.E.F.F.E.O, 1908, tr. 226). Lời tán tụng
quả là đã đến mức tột đỉnh. Nhưng rồi cũng chính một học giả của Viện Bác cổ ấy,
trong một bài khảo cứu về tiếng Mường ở Sơn Tây, nhân tiện đã nhận định về Từ điển A.de Rhodes như sau: “Phương
pháp ấy (de Rhodee) thực thế chứa nhiêu cái bất
thường mà trong một công cuộc nghiên cứu ngôn ngữ
như thế này sẽ có nguy hại là làm sai lạc kết quả nghiên cứu mà thôi. Vì vậy
chúng tôi... phải loại bớt những cái bất thường và kì quái làm cho nó hợp lí”
(A. Chéon, Note3 sur les Muong de la
province de Son Tay. BEFFEO. t.v, 1905, p.
328).

Hội nghị Nghiên Cứu Viễn Đông 1902 tại Hà Nội
có một ủy Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ do ông Chéon đúng đầu. Phúc trình của Ủy
Ban đúc kết những ý kiến thảo luận trong ba ngày 6 tháng Mười Hai đến 8 tháng
Mười Hai cho ta biết đại cương những đề nghị sửa đổi như sau:
(1). Phải triệt để tôn trọng nguyên tắc: mỗi
chữ một giá trị kí âm thôi. Vì vậy, hoặc phải bỏ chữ g trong gang hay trong gi
bởi lẽ rằng hai chữ cái ở đầu phát âm khác nhau; cũng thế, cá và kẻ phải cùng
một cách viết chữ cái mở đầu;
(2). Về các âm chính (nguyên âm), hệ thống hiện
nay là thỏa đáng, trừ dấu mũ ở trên  có giá trị khác hẳn trong ô và ê, nên tfê nghị thay chữ
ả bằng a’ (có râu bên cạnh) thì hơn. “Uy Ban cũng nghĩ rằng phải bỏ hẳn thói
quen mà vài tác giả vẫn có, trái với phương pháp của de Rhodes, là thay y vào i
trong vài trường hợp (kỹ, lý, mỹ) mà không có một lí do nào chứng minh cho được...”.
(3). Về các âm phụ, Ủy Ban đề nghị thay một số
chữ cái sau đây: c thay cho ch. (Chữ h dùng cho những trường hợp các âm thở, như th, kh).
Nhất loạt thay k vào chỗ của c. Chữ d (bỏ gạch ngang) thay cho đ. Âm /d/ hiện
nay sẽ thay bằng chữ z. Chữ g không mất tính cách âm họng dù là trước các
nguyên âm e, ê, i, vậy thì không thể thêm h trong những trường hợp này. Thay
chữ gi bằng J. Chữ q không khác gì k, vậy phải bỏ và
thay bằng k...
Mặc dù được chuẩn y sau nhiều tranh luận gay gắt giữa hai phe chống đối
nhau, bản đề nghị sửa đổi của Ủy Ban đã được Viện Viễn Đông Bác Cổ thực hiện
trên các trang in của Viện. Trong công chúng và nhà trường vẫn không hiểu biết
gì.
Dự án cải tổ năm 1906
Đến năm 1906, vấn đề
cải cách lại được đặt ra ở Hội nghị của Hội đồng Cải lương học chánh do ông
Nordemann làm chủ tịch. Bản đề nghị của Hội đồng lần này bị công luận đả kích
kịch liệt vì nhiều lí do bên ngoài học thuật. Về sau, L.M. Cadière có nhắc lại
chuyện này như sau: “Xét về mặt khoa học cũng như về mặt thực hành và sư phạm. Dự
án này thật là một cuộc thoái bộ” (Léopold Cadière, Souvẽnỉrs d’un vieỉỉ
aimamitisant. INDOCHINE, số 207, ngày 17.8.1944, tr.19).
Thế là Dự án cải tổ 1906 vĩnh viễn bị chôn vùi.
“QUỐC NGỮ MỚI’ của Nguyễn Văn Vĩnh (1928)
Trên báo Trung Bắc Tân Văn, khoảng cuối năm 1928, nhà văn và cũng là
nhà báo nổi tiếng thời bấy giờ, ông Nguyễn Văn Vĩnh, tung ra lối in chữ quốc
ngữ mới, gọi là Quôcj Ngưu) Moeij.
Việc đề xướng kiểu chữ mới này không nhằm mục đích ngôn ngữ như những lần
trước, mà chỉ có tính vụ thực tế làm ăn của một ông nhà báo. Chẳng là: ông chủ
báo muốn cải cách công việc in báo của mình bằng một dàn máy in kiểu tân kì
nhưng lại không có những con chữ Việt. Thế là đổi sáu dấu giọng bằng con chữ
cái, thay những chữ cái riêng của hệ thống chữ viết đang dùng nhưng không có
trong bộ chữ của tây (như là ă, đ, ư...) bằng một con chữ nào đó tùy
tiện chứ không dựa trên sự chính xác về ngữ âm.
Dự định của Nguyễn Văn Vĩnh không thành, chỉ vì ông chỉ nghĩ đến ý đồ
riêng tư chứ không dựa vào chính hệ thống chữ quốc ngữ nhìn từ khía cạnh học
thuật.
Theo chân ông, sau này còn một số người khác, lại muốn sửa đổi chữ quốc
ngữ theo ý đồ riêng và ý thích riêng của họ. Đó là trường hợp Vi Huyền Đắc
(Việt tự), Phạm Xuân Thái (Việt Ngữ Cải Cách). Những “công trình” nói trên đều
mua vui chốc lát cho giới học thuật, rồi tan vào lãng quên một cách không
thương tiếc.
Hội nghị thống nhất ngôn ngữ (1956)
Đại hội Văn hóa toàn quốc năm 1956 có một Ủy ban Ngôn ngữ, cũng kiến
nghị một chương trình sửa đổi một số cách viết chữ quốc ngữ. Có nhiều nhà
chuyên môn về ngôn ngữ tham gia soạn thảo dự án. Nhưng rồi cũng không có lí
thay đổi suốt bao nhiêu năm trời. Chương trình Giáo dục tiếng Việt ở miền Nam vẫn chỉ
nhắc nhở suông vài câu rằng chính tả cần dựa theo Việt Nam Tự Điển do Hội Khai
Trí Tiến Đức soạn (1931).
Nội dung của đề án cải tổ chữ quốc ngữ cũng chỉ xoay quanh những nét
căn bản đă được khởi xướng từ Bản đề nghị của Ủy ban Cải cách năm 1902, dĩ
nhiên là với những lí luận khúc chiết hơn. Nhưng, sở dĩ đề án của ủy ban Ngôn
ngữ lần này vẫn rơi vào lãng quên là vì thiếu kế hoạch phối hợp giữa giới văn
hóa và nhà trường. Tất cả mọi sửa đổi chỉ có thể thực hiện được là qua báo chí
và trường học. Nhưng các nhà văn hóa lúc bấy giờ không tự tin lắm vào chương
trình cải tổ của họ, cho nên vẽ ra trên giấy tờ để tự an ủi lương tâm. Rồi
thôi.
Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ (1959)
Tại Hà Nội, một hội nghị cải tiến chữ quốc ngữ được tổ chức năm 1959
với dự định là đẩy mạnh việc cải tiến chữ quốc ngữ cho thêm phù hợp với thực
trạng tiếng nói của chúng ta hiện nay, đồng thời sửa lại những chỗ không chính
xác trong lốì ghi âm hiện hành. Thật ra, trong Đề Cương Văn Hóa (1943), Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng đã đề ra mục
tiêu cải cách chữ quốc ngữ và xem đó là “một việc phải làm”, “một nhiệm vụ cần
kíp”. Các nhà khoa học ngôn ngữ miền Bắc lúc bấy giờ cũng chia sẻ vói Ủy ban 1902
về những cải tổ có ý nghĩa.
Nhưng rồi, cũng như Hội nghị 1956 ở Sài Gòn, mọi bàn cãi sôi nổi rồi cũng lại
ngủ yên trên giấy tờ, vì cho rằng “tình hình chưa thuận tiện”, nên nhiệm vụ cải
tiến chữ quốc ngữ phải gác lại.
Như đã nói trên, nội dung của những kết luận Hội
nghị 1959 không đi xa hơn những đề nghị của Ủy Ban 1902, nghĩa là cũng dựa trên
cơ sở ngữ âm học để thể hiện nguyên tắc “nói sao viết vậy” hay là “mỗi âm được ghi lại bằng một kí hiệu”.
“Chữ và văn Việt khoa học”
của Nguyễn Bạt Tụy (1959)
Là một ngưòi nghiên cứu ngữ âm học tiếng Việt,
Nguyễn Bạt Tụy là một tác giả đã có nhiều cống hiến về mặt này. Năm 1949, ông
viết sách Chữ và Văn Việt Khoa Học, nội
dung là trình bày những gì ông tìm tòi được về mặt âm vị học tiếng Việt,
rồi qua đó đưa ra một bản đề nghị sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ mà ông cho
rằng hợp lí và khoa học.
Nguyên tắc chung của quan điểm Nguyễn Bạt Tụy là dựa
trên nguyên tắc âm vị học để ghi âm tiếng Việt. Từ đó, ông phân tích hệ thống
đơn vị âm thanh tiếng Việt và các lối tổ hợp âm thanh của nó. Kết quả là tác
giả phất hiện hệ thống các âm vị có nhiều nét khác vối những gì xưa nay cứ yên
trí là đúng đắn, nay cần phải sửa lạỉ. Từ đó sẽ phải dẫn đến một việc chính yếu
của sách là đưa ra một bản đề nghị thay đổi cách viết chữ quốc ngữ theo ông là
chính xác với nguyên tắc ngữ âm học.
Bản đề nghị của Nguyễn Bạt Tụy rất triệt để, vì hoàn
toàn dựa trên nguyên tắc ghi âm, lại dựa ở
trên một số phát kiến quan trọng và mới mẻ. Đó là nguyên nhân tại sao cho đến
nay công chúng và các chính quyền tiếp nhau ở Việt Nam không thừa nhận nó. Lại nửa,
tác giả lại là người nhiệt tình đốì với tiếng mẹ đẻ, nhiệt tình đến mức độ quá
khích, thể hiện ở lối chế tác những thuật ngữ mới. Nhưng vượt lên trên những
điểm này, quan điểm của Nguyễn Bạt Tụy có rất nhiều giá trị
tham khảo cho bất cứ một công trình nghiên cứu ngữ âm tiếng
Việt.
Ủy Ban Điển Chế Văn Tự (1973)
Bước vào những năm 1970, tại Sài Gòn có một cơ quan tên là Hội Đồng Văn
Hóa Giáo Dục được tổ chức ra làm công việc vạch hướng và cố vấn cho hoạt động
khoa học của Bộ Văn Hóa Giáo Dục lúc bấy giờ. Mục tiêu nhằm đến thì to tát,
tiếc thay, với thành phần già cỗi nặng óc hành chính hơn là tinh thần năng động
của những nhà hoạt động và nghiên cứu, Hội đồng đã trở thành một văn phòng cố
vấn lạc lõng. Về địa hạt ngôn ngữ, một ủy Ban Điển Chế Văn Tự được ra đời để
làm công việc bị bỏ dở từ bao lâu nay: cảỉ tiến chữ quổc ngữ. Thật ra, Ủy ban
có nhiệm vụ cụ thể lúc bấy giờ là điển chế danh từ khoa học mà thành tích nổi
bật là sự ra đời một Nội San Danh Từ Chuyên Môn nhằm phổ biến những công trình
soạn thảo danh từ các khoa học chuyên ngành. Tiểu ban Chính Tả củng đả bàn cãi
về những nguyên tắc chính tả và sửa đổi cách viết. Các tập Chương Trình Giáo
Dục, một văn kiện hướng dẫn việc dạy và học tại nhà trường phổ thông, đều nhấn
mạnh việc sử dụng Việt Nam Tự Điển của Khai Trí Tiến Đức cùng với Việt Ngữ
Chánh Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ. Một Bố vị trong Tiểu Ban là thầy dạy học tại cơ sở
Đại học nên có một số ảnh hưởng nào đó đối với thế hệ nhà trường trẻ
trung. Ngoại giả, công chúng không hề theo dõi để mà có thể có một ý kiến
nghiêm chỉnh về một việc làm chính đáng.
Chữ quốc ngữ qua những biển dâu (phần 2)
|
Đoàn Xuân
Kiên
|
Sau 1975
Những dự đoán cải tổ trước kia ở hai miền Nam, Bắc đều không có yếu tố thuận
lợi về mặt công chúng. Sau 1975, vai trò chuẩn hóa tiếng Vỉệt, giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt được đặt ra
toàn diện. Theo đã làm việc đó, một
số Từ điển, chủ yếu là song ngữ, đã ra đời.
Dường như có cả một công trình biên soạn Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ
chủ biên. Tiếng Việt trong hoàn cảnh thuận lợi nhiều mặt như thế tất yếu là
phải phát triển, vì hội đủ những yếu tố cần thỉết cho một cuộc vận động xã hội:
tổ chức chỉ đạo, công chứng, cơ quan công cụ. Thành hay bại giờ đây là tùy
thuộc ở đảm lược của chính những con người ở hải ngoại, chưa thể có những điều
kiện thuận lợi như thế. Nhưng những nhu cầu của tập thể người Việt ở hải ngoại
về mặt ngôn ngữ lại đòi hòi sự quan tâm đúng mức của mọi người để công việc duy trì ngôn ngữ và văn
hóa dân tộc có những nền móng ổn định và vững chắc. Thế mà, không có
được những tổ chức chuyên môn có thể góp phần vào công việc lớn lao này. Đây là
một thử thách lớn cho mọi người. Không trừ một ai.
Ngày nay, có một số không nhờ người Việt ở hải ngoại. Nhu cầu về lâu về
dài của cộng đồng người Việt là làm sao duy trì ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Từ
đó đặt ra công việc dạy và học tiếng mẹ đẻ bên cạnh những công việc khác. Dạy
những gì và dạy ra sao, là những câu hỏi mà mỗi thầy giáo và mỗi bậc cha mẹ
thường vẫn phải đặt ra để tự soi đường cho việc mình làm; vì đến nay hầu như
chưa có nhiều công trình đầu tư suy nghĩ cho cái công việc nặng nhọc này.
Chỉ giới hạn trong phạm vi rất nhỏ hẹp thôi, là vấn đề dạy chữ quốc
ngữ, cũng đã có nhiều việc phải bàn. Chẳng hạn, khi cô giáo dạy trẻ rằng đọc là
/á/. Nhưng
khi cô
ghép vần với n /n/, cô đọc là /á-n -) ăn/, cháu bé sẽ ngẩn ngơ, vì không hiểu
sao không thây dấu sắc /7 nữa. Nó cứ đinh ninh là /á-n --) án/ chứ. Trực giác
của cô giáo và của cháu bé đều không sai, chỉ có qui ước của kí hiệu ở đây
không chính xác. Ví dụ khác nữa: các cháu được dạy ng đọc là /ngờ/ nên cứ yên
trí là nghề nghiệp đúng chính tả, như là ngọc ngà vậy thôi, vì cùng có âm /ng/ ở
đầu tiếng...
Những cái “yên trí” như vậy đều có trong mỗi đứa trẻ con trong mỗi
người Việt ở mọi thế hệ. Các bậc
cha mẹ có thể nhìn ngược xa về những ngày thơ ấu của mình để làm chứng cho kẻ
viết bài này. Chúng ta đâu có lỗi! Chúng ta chi bị hệ thống chữ viết “lõm”
chúng ta mà thôi, mà nguyên do chỉ là vì sự bất nhất trong nguyên tắc mà chính
những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đặt định: dùng chữ cái Latin để ghi các âm
theo nguyên tắc mỗi âm một kí hiệu.
Những vướng víu như thế sẽ dễ thông qua nếu ta vẫn còn hằng ngày hít
thở ngôn ngữ của mình ở quê nhà. Nhưng đối với trẻ con đang từng ngày bị lôi
kéo xa khỏi cộng đồng ngôn ngữ dân tộc, những vướng víu như vậy sẽ nổi lên rất
rõ, có thể đến mức gây thành ấn tượng không hay ho gì cho tiếng nói và chữ viết
dân tộc. Trong trí trẻ luôn luôn có khuynh hướng đối chiếu ngôn ngữ khi nói và
viết tiếng mẹ đẻ, vì chúng đã có một khuôn mẫu ngôn ngữ khác, khuôn mẫu ngôn
ngữ Ân - Âu cũng dùng hệ thống chữ cái Latin.
Tất cả những yếu tố tâm lí và xã hội ngôn ngữ học nói đến ở trên đều
tác động vào việc học tiếng mẹ đẻ của trẻ Việt song ngữ trong cộng đồng hải ngoại hiện
nay và mai sau.
Nhiệm vụ của chúng ta là làm giảm nhẹ những thứ hành lí nặng nề không
cần thiết cho công việc dạy và học tiếng Việt ở ngoài nước. Từ đó, đặt ra việc
nhìn trở lại những gì chúng ta đang có: hiện tình chữ quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ hiện nay gồm có 29 chữ cái mượn từ hệ thống chữ cái Latin
có thay đổi chút ít để phù hợp với nét vẻ riêng của tiếng Việt; trong đó 17 chữ
cái dùng để ghi phụ âm, 12 chữ cái để ghi nguyên âm. Ngoài ra còn có 5 dấu để
ghi giọng cao thấp của nguyên âm. Không kể đến hệ thống chữ viết cổ của dân tộc
nay chỉ còn dấu vết rời rạc trên một số di chỉ khảo cổ, hay chỉ so với hệ thống
chữ nôm vốn cũng theo nguyên tắc kí âm mà ta mượn nét viết của chữ hán, phải
nhận rằng chữ quốc ngữ đơn giản và tiện lợi hơn nhiều lắm, và cũng là một hệ
thống được tạo lập rất có khoa học so với tình trạng khoa ngữ học ở thế kỉ XVIII
- XIX. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chữ quốc ngữ đã rất hoàn hảo, bất
khả xâm phạm. Sự thay đổi của bộ mặt chữ quốc ngữ trong vòng một thế kì từ khỉ
Từ điển de Rhodes ra đòi cho đến khi Pigneau de Béhaine soạn Từ điển cùa ông đả
chứng tỏ rằng các nhà hoạt động ngôn ngữ đã không quá bảo thủ hoặc hănh tiến
đến mức liều lĩnh cố chấp. Huống chỉ, ba trăm năm qua, nhiều tiến bộ về mặt học
hỏi song song với sự đổi thay tự nhiên của tiếng Việt, đã khiến cho những niềm
tin cũ nay trỏ nên đáng nghi ngờ, cần
phải dành nhiều công sức của nhiều giới có thiện chí.
Trong tình trạng hiện nay của chữ quốc ngữ, hay nói đúng hơn, hiện
trạng của chữ quốc ngữ trong vòng một trăm năm trở lại đây - tính từ thời điểm
những bộ từ điển Taberd, Legrand deLa Lừaye (1877), Génibrel (1898), Bonet
(1899) xuất bản, có thể thấy nhiêu vấn đề cần đặt ra thảo luận. Chúng tôi tạm
qui về hai nhóm vấn đề:
(1). Những sự thay đổi tự nhiên qua thời gian khiến cho chữ viết không
còn ghi đúng nội dung âm thanh tiếng nói;
(2). Những hiện tượng đi lạc ra ngoài nguyên tắc “mỗi kí hỉệu chuyên chở
một đơn vị âm thanh của ngôn ngữ”.
Chữ quốc ngữ qua thời gian
Cuốn từ điển của de Rhodes có một phần biên soạn về ngữ pháp tiếng Việt, có tựa là
Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratỉo (Sơ lược về tiếng An nam hay tiếng Đàng
Ngoài), chính là một tập ngữ pháp Việt Nam vào thời kì này. Chương I: “Về các chữ và vần cấu tạo nên
tiếng nói” có đoạn nói về chữ D như sau:
“Chữ D ở Đàng Ngoài đọc
giống y như chữ D ở tiếng Latin.
Tuy nhiên cũng có vài khác biệt: khi chữ D có chữ E dính liền mà khổng đọc rời
chữ E ấy, như chữ Dea chẳng hạn. Còn khi không có E thì hoàn toàn đọc như D của
chúng ta, như tiếng Da...” (Ibidem).
So sánh với đoạn nói về chữ Gi, ta thấy ông chỉ dẫn cách đọc Gi tương
tự như lốì đọc gi ở tiếng Ý. Kiểu nói phân biệt /d/ và /gi/ này đã dần biến
mất, mà có khuynh hướng đồng hóa cả hai thành /z/ ở tiếng Bắc, và m ở tiếng Trung, Nam. Nhưng chữ viết
vẫn không đổi thay theo. Hình thức viết gi và d hiện nay vẫn là theo mẫu mực
của thế kỉ XVII.
Nếu không dựa vào lịch sử phát âm như thế, khó có thể hiểu tại sao lại
viết giản dị mà không thể viết là dản
dị được.
Hiện tượng chữ PH cũng đáng chú ý. Từ điển A. de Rhodes ghi rằng: “Thực
ra tiếng xứ này không, bao giờ có p đứng đầu các chữ như đã nói ở phần nghiên
cứu chữ F. Chỉ có PH, đọc giống như phi của Hy Lạp” (Ibidem). Ngược lên đoạn
nói về chữ F, ta thấy chỉ dẫn như sau: “F - hay đúng hơn, PH - vì khi đọc nó,
không tách hai môi như khi đọc F của ta. Khi phát âm chữ này, môi cử động rất
nhẹ và hơi rít cũng chỉ qua loa” (Ibidem).
Maspéro cắt nghĩa rõ thêm rằng ph là một âm môi hơn là âm môi răng như
ngày nay. Âm này đã thay đổi từ bao giờ không rõ, nhưng rõ ràng là âm /h/ trong
tổ hợp /ph/ ngày nay không còn bật hơi như ngày xưa; thảng hoặc chỉ còn một vài
nơi hoặc vài cá nhân nói giọng cổ đó mà thôi (Xem Maspéro, Etud.es sur la phonétiquehistorique de ỉa
langue annamite; les initiales. BEFFEO, n.l, p. 46). Nói cách khác, ngày
nay, âm PH phát âm như âm F của người phương Tây, chứ không bật hơi khi mở hai
môi như ngày xưa A. de Rhodes đã ghi nhận.
Tưởng cũng cần nói thêm là de Rhodea và các vị chế tác chữ quốc ngữ đã
có dụng ý thêm chữ h trong các trường hợp th, kh, ph là để chỉ tính cách bật
hơi thở của những âm này; cho đến nay, tính cách này đã mất đi ở ph, và giám nhẹ ỏ kỷ.
Trên đây là những sự kiện nhặt ra được từ chính nội thản tiếng Việt để
so sánh với chữ viết theo hệ thống chữ cái Latin. Những đổi thay này là tự
nhiên thôi, không miễn trừ ngôn ngữ nào cả. Cũng chẳng phải vì tiếng nói đổi
thay là chữ viết cũng phải sửa đổi theo ngay. Dù sao, thói quen của tập thể
người sử dụng ngôn ngữ vẫn mạnh hơn ý muốn của thiểu số nhà khoa học. Qui luật
của ngôn ngữ là: tập quán của đám
đông quyết định sự tồn tại của một hiện tượng ngôn ngữ. Cho nên, các hiện tượng
đổi thay qua thời gian được đề cập ở đây chỉ có ý nghĩa nói lên tính cách động
của tiếng nói qua thời gian, chứ không phải ngôn ngữ luôn luôn “nhất thành bất
biến”.
Những hiện tượng lạc ra ngoài nguyên tắc âm
vị học
Bộ chữ cái La tin dùng để ghi âm tiếng Việt tất nhiên là cũng theo
nguyên tắc chung của mọi hệ thống chữ viết ghi âm: mỗi chữ cái là một kí hiệu
ghi lại một âm thanh. Thế nhưng trong chữ quốc ngữ của chúng ta, không phải lúc
nào cũng có sự trùng khít giữa chữ cái và nội dung các âm thanh. Và đây chính
là nguyên do làm nảy ra các sáng kiến cải tổ chữ quốc ngữ một cách có ý thức do
các nhà ngôn ngữ đề xướng.
Trước hết là hiện tượng c, k, qu.
Từ điển de Rhodes ghi chú rằng: “Chữ c
chỉ d vị trí đầu các tiếng có nguyên âm a, o, ơ, u, ư; còn trước các nguyên âm ê
và i chứng ta dùng k hoặc s (sic)”. Ở đoạn nói về âm k, tác giả viết: “k chỉ
đứng với nguyên âm ê và i, chẳng hạn: ke 10...” (Cf. Brevis Declaratio. Ibidem).
Tại sao lại có hiện tượng đó? Không phải tiếng Việt đọc âm /k/ khác
nhau trước hai loại nguyên âm này, mà chính là các nhà chế tác chữ quốc ngữ đã
đem áp dụng thông lệ chính tả của Pháp đặt vào tiếng Việt. Nhưng âm /ky trong
tiếng Pháp lại không có chúm môi trước nguyên âm, cho nên phải mượn QU trong
tiếng Latin và đọc y như ở
trong tiếng Latin vậy. Đây là một thói quen của một số giáo sĩ phương Tây đặt để lên tiếng
Việt mà không có lí do thỏa đáng nào cả.
Mặc dù vậy, thầy cô giáo tiếng Việt vẫn cứ phải
gọi đó là “qui tắc” để nhắc nhờ học sinh viết cho đúng “nguyên tắc”.
Trường hợp g(h), ng(h) cũng là một lệ ngoại. Hiện tượng thêm h trước
các nguyên âm E, E, I, là ảnh hưởng của lối chính tả Latin chứ không có lí do
tự nội thân tiếng việt. Âm /h/ trong trường hợp này không có cơ sở vững chắc
như kh, ph, thu.
Hiện tượng GI được nhắc đến trên đây cũng là một trường hợp đi lạc ra
ngoài nguyên tắc âm vị học nữa. GI là cách chính tả của tiếng Ý, mượn để chỉ
một âm tắc xốt ở vào thời de Rhodes. Gỉ, như vậy, chỉ là một kí hiệu chỉ một âm
đầu, kết hợp với một nguyên âm nào đó mới thành một tiếng: gi-à, gi-ỏ, gi-ề,
gi-iết.
Thế nhưng khi ghép với nguyên âm I, GI lại mất I: g (i) - i -) gi. Đây là sự vi phạm
nguyên tắc âm vị học, vì g(i) giờ đây đồng hóa với một âm khác là g / g(h) nhưng
lại đọc khác hoàn toàn.
Cũng theo qui ước âm vị học, tất cả các nguyên âm đều được phát âm ở
bậc thang âm ngang: a, ỉ, o, u...đều đọc là /a/, m, /o/, /u/. Nhưng khi đọc đến những nguyên âm ngắn của a và d,
người ta phát âm thành một âm có bậc thang âm rất cao, ở bậc dấu sắc. Sự lẫn
lộn nhỏ này đã dẫn đến một nhầm lẫn lớn khác: làm mờ sự đối xứng giữa nguyên âm
dài và nguyên âm ngắn ở tiếng Việt. Nói cách khác, â và a không phải là
hai âm khác nhau mà chỉ là một âm dài và một âm ngắn mà thôi, tương tự như cặp ơ và â vậy. Có nhận ra sự đối lập này
mới cắt nghĩa thấu đáo tại sao có một sự phân bố đồng đều giữa chúng khi kết
hợp với các âm cuối y, u, ch, nh. Theo cách viết hiện nay thì ta nghĩ những
nguyên âm trong ay, au, ach, anh là những
nguyên âm
dài, nhưng thực ra đó chính là những âm a ngắn, còn những âm a dài thường phân
bố kết hợp với những âm cuối trên dưói dạng viết sau: ai, ao, ac, ang.
Trong cách viết chữ quốc ngữ hiện nay, có hiện tượng bất nhất khi viết i
và y. De Rhodes ghi chú như sau
về cách viết hai chữ này ở thời ông: “Tiếng xứ này chỉ dùng chữ I làm nguyên
âm, vì chữ I phụ âm được thay bằng chữ G (sic). Muốn tránh lẫn lộn, ta dùng I ở
giữa hay ở cuối tiếng: biết, bỉ. Cũng cần chú ý là ta dùng âm Y ở cuối tiếng
khi nào có nguyên âm kép (sic) cần phải đọc tách biệt: Éy (ấy), nhưng phải dùng
I khi nào nguyên âm kép không đọc tách rời, ví dụ chữ Ai. Để tránh dùng nhiều dấu hiệu trên một chữ, ta không đánh hai
dấu chấm trên chữ I. Chỉ cần nhớ với nhau rằng viết Y ở sau một nguyên âm không
phải để đọc thêm một vần tách biệt mà chỉ có ý phân biệt vần như trong cây và cai. Ta cũng dùng Y trước một
số nguyên âm nhưng cũng không xem là phụ âm bao giờ, chẳng hạn Yéo (tức là yêu), Ya (tức là
ia)” (Ibidem).
Nguyên tắc này được áp dụng chặt chẽ trong bản thảo của Bento Thiện
(1659) cho đến những tự vị của Génibrel (1898) và của Hội Khai Trí Tiến Đức
(1931).
Có thể nêu ra “qui tắc” chung vè
cách viết I và Y như sau:
Chỉ viết Y trong những trường hợp sau đây:
(a). Ở đầu một tiếng và sau đó có âm Ê; ví dụ: yên, yêu, yết.
(b). Ở sau âm chúm môi /u/ (ngoại trừ khi viết với qu). Ví dụ: uy, tuy,
khuya, chuyện...
(c). Ở sau qu nhưng theo sau đó có Ê hoặc NH. Ví dụ: quyền, quyết,
quỳnh.
(d). Sau âm ngắn của /a/ (tức là sau chữ A) và âm ngắn của /d/ (tức là
chữ A). Ví dụ: may, mây, đây, đây.
(đ). Đứng độc lập thành một tiếng. Ví dụ: Y, Ý. Tuy vậy, trong khi
chúng ta viết ỷ (lai), thì sự thiên vị trong tâm lí ngôn ngữ đã tạo nên thói
quen viết: (âm) ỉ, (ầm) ĩ, (đi) ỉa theo đúng nguyên tắc âm vị học. Cũng tâm lí thiên lệch
đó khiến chúng ta viết lý, yêu với niềm tin rằng vẻ thẩm mĩ của chữ y sẽ tạo ấn
tượng “tốt đẹp” mà tự thân chữ viết không hề mang lại.
Chi viết I trong những trường hợp sau đây:
(a). Ở phần âm chính của vần. Ví dụ: bí, chim, đi, hí, k!t kim, lì, lính, sĩ, tỉ, tím, vì, vịnh...
Theo qui tắc này thì sau qu chính là phần âm chính của tiếng, vậy phải viết với
ỉ: quí, quít, quỉ, (hoa) quì.
(b). Sau một nguyên âm làm âm chính, hay là trong những trường hợp I là
một bán nguyên âm. Ví dụ: ngùi, đói, người,
cải, hòi, chuối, hỏi, trai.
Trong một số sách báo tiếng Việt, chúng ta có thể lượm lặt rất nhiêu
kiểu viết bất nhất về chữ I và Y. Dường như người viết chỉ theo trực cảm hoặc
theo thói quen (có thể đúng mà cũng có thể sai), nên chỉ có hiện tương tên người
là Sĩ được viết thành Sỹ hoặc ngược lại, tị (nạn) lại cũng có thể viết thành tỵ
(nạn)...
Dựa theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, chúng tôi nhận thấy có thể
ta có những trường hợp sau đây viết lẫn lộn I thành Y: sau các âm khởi đầu m,
t, 1, k, qu, h. Nếu bảo rằng phải viết tiếng hán Việt theo cách khác, e là
không chính đáng, vì chữ viết kí âm không bao giờ “chia hán/nôm” mà chỉ quan
tâm đến việc ghi âm sao cho đúng như khi ngưòi nói phát âm ra. Vì thế, không có
lí do gì để phân biệt mỹ (thuật), với (bánh) mì, hoặc là phân biệt (biệt) ly
với 11 tỉ, lấy lí do là một bên viết với y vì là từ hán việt, bên kia viết với
ỉ vì là một từ nôm na. Vả lại, thật là khó chấp nhận sự kiện cho rằng có thể cả
hai cách viết ỉ và y đi kèm với những âm khởi đầu m, t, 1, k, qu, h đều được
coi là đúng, là hợp cách như một tác giả đã ghi nhận (L.Thompson, A Vietnamese Grammar. Seattle, 1965, tr. 65).
Thật ra, khi chúng ta viết Lý, Kỹ, Mỹ với y, ta đả chọn thói quen và
trực cảm chủ quan hơn là dựa trên chính dữ kiện ngôn ngữ để viết chữ quốc ngữ.
Có lẽ vì thế mà Việt Nam Tự Điển (1931) của hội Khai Trí Tiến Đức - một công
trình đồ sộ của các học giả có trình độ làm việc cao, ra đời cùng một thời với
Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh - đã không theo thói quen này.
Hiện tượng bất nhất nói trên đã diễn ra từ thời kì nào? De Rhodes và
những nhà sáng chế chữ quốc ngữ xem ra rất tách bạch về cách dùng chữ này - như
lời dẫn trong sách của ông đã cho thấy. Đến những từ điển Huỳnh Tịnh Của
(1895-6) hay là của Génibrel (1898) thì đã có dấu hiệu của sự phân hóa giữa hai
qui tắc: các ông vẫn viết I ở phần chính: huình, quình, Huịch, huiên, nhưng
cũng có những chỗ viết, huyên, khuyên, truyền, ly... nghĩa là bắt đầu vào “qui tắc”
của cách viết Y mà chúng tôi vừa nêu ở một đoạn trên. Ta thấy rõ có sự lẫn lộn
I là nguyên âm chính với Y là bán nguyên âm hay nguyên âm phụ.
Đến những năm đầu thế kỉ XX thì sự lẫn lộn đã trở nên phổ biến: Đào Duy
Anh soạn Hán Việt Từ Điển thì chuộng y khi viết với m, 4, 1, k, qu, h. Từ điển
của Khai Trí Tiến Đức thì nhất loạt theo qui tắc mà chúng tôi nêu ở trên. Uy
tín của hai bộ từ điển đã kéo theo sự phân hóa về chính tả sau đó. Tuy nhiên,
trong nhà trường, qui định chính tả đả được minh thị trong các ấn bản Chương
Trình Trung Học do Bộ Giáo Dục xuất bản hằng năm, rằng phải theo qui tắc viết
của Việt Nam Tự Điển. Tuy thế, dường như nhà trường phổ thông không thiết tha
gì với chính tả, và dường như không mấy ai để ý quyển từ điển này đã viết chữ
quốc ngữ ra sao! Có người còn nói liều rằng quyển từ điển này đã lạc hậu rồi.
Phải, sẽ phải quên nó đi thôi nếu quả thật là nó đã bị vượt bỏ. Nhưng mà cho
đến nay vẫn chưa có bộ từ điển nào thật có phương pháp nghiêm túc trong lối
chọn mục từ, giải nghĩa, và dẫn chứng văn liệu chính xác như nó. Đó là điều
đáng buồn chung cho những ai thích sự tiến bộ (Chúng tôi không nghĩ là chiêu
dày của bộ từ điển Lê Văn Đức đã đủ để được tôn là bộ từ điển có giá trị về
mặt phương pháp cùng nội dung biên soạn).
Trở lại hiện tượng I và Y, có thể nói là hiện tượng lẫn lộn này tương
đối mới mẻ so với lịch sử 300 năm của chữ quốc ngữ. Có thể tạm xác định mốc
những năm đầu thế kỉ XX. Vả chăng, Bản đề nghị của Ủy Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ
(1902) đã xác nhận giả thuyết này.
Một hiện tượng khác cũng cần để ý
là tiếng Việt có đến 4 con chữ dùng để viết hai bán nguyên âm: /w/ được ghi bằng o và u, /y/ được ghi bằng i và y:
hòa/hào, mùa/màu, mai/may... Nguyên tắc âm vị học lại một lần nữa bị vi phạm.
Hãy lấy cặp mai/may làm tì dụ: sự khác biệt giữa hai tiếng này không
nằm ỏ i/y mà chính là ỏ hai âm a. Một đàng, a được đọc dài, một đàng âm a đọc
ngắn; vậy để cho chính xác, phải ghi
hai âm a đó. Nhưng thói quen đã ghi như vậy.
Tưởng cũng cần nhắc lại hiện tượng h ghi trong nh và ch. Hai phụ âm nh
và ch chỉ là mượn kiểu ghi âm của tiếng
Bồ, hoàn toàn không có hiện tượng bật hơi thở như trong bộ ba ph, kh,
th. Mặc dù ngày nay h đã mất tính cách bật hơi trong ph và giảm nhẹ trong kh,
nhưng chữ quốc ngữ vẫn không vì thế mà đổi theo.
Trở lên là những vấn đề đặt ra cho ngưòỉ Việt khi suy nghĩ về việc giảng dạy tiếng Việt cho con em ở một
thời kì mà những hiểu biết về ngôn ngữ cho phép chúng ta rút ngắn những kiểu
làm việc, giảm thiểu những thừa thãi vô ích. Trong ý nghĩa đó, bao nhiêu cố
gắng của các thế hệ nghiên cứu tiếng Việt không có nghĩa là làm phiền toái sự
việc, mà ngược lại là những nỗ lực để nhìn sự vật một cách chính xác hơn. Thế
tại sao, từ 1902 đến nay, những gắng công của các thế hệ nghiên cứu đều chưa
thành công trong việc làm cho chữ quốc ngữ thêm chính xác? Chúng tôi không nghĩ
là trách nhiệm thuộc về họ, mà là ở nhà trường. Nhà trường Việt Nam trước đây
đã không làm đúng phần việc của nó trong sự gìn giữ chữ quốc ngữ được ngày một
tinh giản.
Bài viết này không đặt vấn đề sửa đổi chữ quốc ngữ. Việc đó để dành cho
những cơ quan có thẩm quyền về
sau này. Dụng ý duy nhất của người viết là phân tích một vài khía cạnh của chữ
quốc ngữ để mong nhận ra dáng vẻ sống động của hệ thống chữ viết Latin này
trong dọc dài lịch sử chữ viết dân tộc. Chữ quốc ngữ đã trải qua nhiều thay đổi từ nhiều thế hệ, do công phu
của những người sử dụng ban đầu - mà không nghi ngờ gì nữa - đều là những người
có trình độ hiểu biết rành rẽ về nó.
Trong tình trạng hiện nay, thiếu một tổ chức thẩm quyền, việc sử dụng
chữ viết đang chịu một thách đố của qui luật phát triển tự nhiên. Dạy tiếng mẹ
đẻ trong hoàn cảnh đó thật là phức tạp. Những ghi chú trên đây chỉ nhằm tìm một
chỗ dựa cho việc soạn thảo bài giảng tiếng Việt cho thế hệ trẻ mà không vương
vấn giữa những phiền toái không cần thiết - trong nhiều trường hợp chỉ là làm
mất vẻ trong sáng của tiếng nói và chữ viết./.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)