Khiemnguyen
Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014
Tài liệu của bác tuyệt quá! LIKE bác.
Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014
Vô cùng thương tiếc nhà văn Tô Hoài
Có lẽ người ảnh hưởng đến phong cách viết của tôi nhiều nhất ko phải ai khác mà chính là nhà văn Tô Hoài. Với nhiều người, dấu ấn với cụ Tô là tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký, tôi cũng ko phải là ngoại lệ, nhưng sâu sắc nhất với tôi là từ khi co Cát bụi chân ai, hình như từ năm 1996 thì phải. Đo là một thiên truyện về những tháng năm đi và viết của Cụ và người bạn chí thiết Nguyễn Tuân. Một thiên truyện dằng dặc không đầu không cuối, chuyện nọ cuốn lấy chuyện kia, lối viết này dường như không giống ai. Có ai đo gọi là phong cách kể chuyện mà không có chuyện, lối viết ngôn tại ý ngoại cái xác chữ thì như chật hẹp mà ý tứ bao la vô cùng. Nếu lần theo những sự kiện gắn liền với nền văn học cách mạng của chúng ta từ sau năm 1945, đặc biệt là từ sau năm 1954 thì dễ dàng hiểu được lý do vì sao cụ Tô lại có lối viết tuyệt vời đến thế. Kể chuyện mà như ko kể, lối viết như nói, mộc mạc mà sâu sắc... là lối viết an toàn nhất cho một cây viết đại thụ.

Sau này, khi đi sâu vào nghiên cứu về lối viết tản văn, có thể về lý thuyết thể tài chưa hẳn đã đay đu hoặc chưa có sự tập hợp hoàn chỉnh, nhưng đọc văn của cụ Tô, nhất là qua phong cách viết tự sự của ông đa giúp tôi có những bài học vô cùng quý báu. Rất tiếc là lúc đó cụ đa cao tuổi, dự định thực hiện một cuộc phỏng vấn có tính chất chuyên môn đã ko thể thực hiện đuoc. Rất tiếc cho tôi và cho cả chúng ta.
Năm 1959, cụ Tô đã có cuốn sách Một số kinh nghiệm viết văn của tôi do Nhà xuất bản Văn học phát hành. Một cuốn sách rất quý dành cho ai yêu mến văn phong cụ và cũng là những bài học rất tốt cho những ai muốn theo nghiệp cầm bút.
Xin thứ lỗi vì những chữ sai chính tả trong bài viết này do lỗi font của ipad. Ai có nhu cầu tham khảo cuốn sách của cụ Tô, xin đe lại email tôi sẽ chia sẻ.
Viết vào ngày được tin nhà văn Tô Hoài về với thế giới người hiền.
Vô cùng thương tiếc!
90 năm tác giả "Dế mèn" Tô Hoài
Đoàn Minh Tuấn
I/ Hàn sĩ đỏ:
Những ngày đầu xuân năm 2009 tôi và GS. Nguyễn Xuân Đào đến thăm và mừng thọ bác Tô Hoài.
Nhà bác ở ngoại ô Nghĩa Đô nhưng có phòng văn trên căn gác xếp ở đường Đoàn Nhữ Hài vừa là phòng ngủ vừa là phòng làm việc; Mấy kệ sách gỗ tạp, sách nhiều đã võng xuống. Một chiếc bàn con thấp, một ghế dựa và giường cá nhân. Khi viết mệt, suy tư thì ngồi dựa trên ghế, mệt nữa thì nằm dài. Bác là cây bút chuyên nghiệp có thể sống về nghề viết văn được. Nhưng không, mỗi khi có “lộc” lại chiêu đãi bạn bè. Anh em trong giới cần bác chi viện một cách vô tư “không hoàn lại”, bác chẳng giàu đâu là Hàn sĩ đỏ. Bác vừa qua một cuộc nhập viện 2008 “thập tử nhất sinh” phải cấp cứu ở bệnh viện Việt Pháp, tốn đến hàng triệu đồng một ngày. Tôi an ủi cháu Hà “của thiên trả địa”. Cháu Hà con gái đầu Tô Hoài bảo tôi: Sao chú lại nói thế!
Tôi bảo: Thì trời cho lộc mấy chục triệu đồng bán sách Công ty Văn hóa Phương Nam để trả viện phí cứu bố vậy! Của đi thay người mà!.
Mùa xuân 1955, tập kết ra Hà Nội, tôi chỉ biết bác nhưng chưa tiếp xúc lần nào, sau qua nhà văn Nguyễn Tuân, tôi hay “điếu đóm” cho nên Nguyễn Tuân giới thiệu. Rồi dần dà “nắng mưa thì nước năng đầy”, bác thương mến tôi. Tôi cũng “lếu láo” tháp tùng với bác đi đó đi đây từ biên giới đến làng quê, công trường, xí nghiệp, kể cả nước ngoài. Tôi đã cùng bác đi Phom Pênh 1979 vừa giải phóng được mấy ngày, cùng gặp bác ở Moscou, Tasken và trên tàu bay đi hàng chục ngàn cây số trên đường lữ hành từ Calcuta qua NewDhéli về Hà Nội. Tô Hoài không những viết khỏe mà đi cũng khỏe. Không vậy làm sao có ngòi bút cường tráng và hàng 180 tác phẩm ưu ái cuộc đời đến thế!.
Có một lần vào mùa xuân,Cam-pu-chia vừa giải phóng, đánh đuổi bọn Pôn Pốt. Bác và tôi được một Công ty giao thông cầu đường mời đi Campuchia. Lúc bấy giờ bác kiêm Tổng biên tập Người Hà Nội, tờ văn nghệ lớn Thủ đô. Họ cho chúng tôi một chiếc xe tã quá. Xe màu vàng mấy anh chị em công nhân làm đường cùng đi. Tôi bàn với bác: “Hay ta từ chối vậy!”. Nhưng Tô Hoài bảo: Cứ đi, các anh chị là người làm đường lao động chính, ta là lao động phụ ăn theo, sao lại đòi hỏi!. Vì mình là nhà báo chỉ đi để lấy tài liệu thôi mà! Tôi có ý định thì cứ đi nhưng đổi xe khác, ít nhất là xe Com-măng-ca. Bác bảo: Thôi, đừng quấy rầy… sang Công Pông Chàm mới hay ý đồ của công ty: Vì đi bằng Com-măng-ca thì bị bắn, bởi tàn quân của bọn Pôn Pốt. Còn đi xe làm đường rách tã của ta hắn biết là xe thợ cầu đường không có gì quan trọng nên không phục kích. Com-măng-ca là xe chỉ huy mà! Về sau chúng tôi mới hiểu “âm mưu” Công ty cầu đường là muốn bảo vệ Tô Hoài, nhưng lúc đầu không dám nói ra, vì nói ra hành quân sẽ lo ngại và giảm “quân uy” chăng?
II/ Chuyện đời, chuyện văn:
Những đêm dài trên các chuyến công tác, Tô Hoài kể cho tôi nghe bao chuyện làm báo viết văn ở Hà Nội trước cách mạng tháng Tám. Hồi ấy nhà văn, nhà báo còn ít lắm; nếu tòa soạn đặt bài thì trả nhuận bút rất cao, còn nếu mình gửi bài đến họ sử dụng được thì không trả nhuận bút, mà còn chẳng gửi báo hiếu nữa. Vì lý do là anh yêu cầu tòa soạn đăng mà!
Mỗi tờ báo, mỗi cuốn sách phải nộp lưu chiểu bốn nơi: Thứ nhất thư viện Hà Nội rồi Huế, rồi Sài Gòn và đến thư viện Paris . Cho nên chiến tranh những số báo mất thì Sài Gòn hoặc Paris cũng tìm được.
Ngày trước các nhà báo cách mạng trong phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương ra báo công khai; bọn mật thám Pháp phát hiện có bài vở bất lợi cho chúng thì chúng đưa ra tòa hoặc nhẹ thì tịch thu số báo ấy!. Mà tịch thu thì báo lỗ không có tài chánh để ra số khác. Chúng nó chế tài bằng cách ấy, chỉ vài tờ báo như Nam Phong, Đông Pháp thì bọn mật thám Pháp bỏ tiền ra in… Tô Hoài là một nhà văn lão luyện ở Hà Nội, ngõ ngách, phong tục, tập quán bác am hiểu tường tận. Cuốn sách Chuyện cũ Hà Nội gần 300 trang, ông viết từ phố mới, phố xưa, cho đến 36 phố phường, việc bắt rượu, tiếng rao đêm, thuế thân, thịt chó, đến trèo me, trèo sấu, rồi đào rượu, đào hát, đến bắt chuột, bẫy chim, chơi chim, rồi tàu điện đêm, đi phu mộ, chết đói… nghĩa là thượng vàng hạ cám Tô Hoài đều đưa được vào trang viết của mình. Trong chuyện Mừng ngày giáp tết: Thuở niên thiếu gia cảnh nhà bác Tô Hoài đói kém, sợ nhất là cảnh đòi nợ, không có tiền trả, chủ nợ lấy đồ đạc khuân bát hương đi. Nhà bà nội không có tiền, trong nhà không có gì đáng giá nửa hào, thì có gì mà xiết, mà trừ nợ được. Bà nội chỉ dúi vào tay người đòi nợ vài xu uống nước đi tàu điện về đỡ phải cảnh đòi nợ ngày tết dông cả năm.
Có lần có bạn đọc hỏi: Ông viết Chuyện cũ Hà Nội có mục đích gì?
Tô Hoài nghĩ suy và đáp:
- Hà Nội: Thủ đô nghìn năm của đất nước. Nơi chung đúc tinh hoa của cả nước. Mọi sự việc xảy ra ở đây đều mang tính cách tiêu biểu và điển hình văn hóa, chính trị, xã hội từng thời kỳ. Những chuyện cũ viết hầu hết khi nước ta còn bị thực dân Pháp đô hộ… Hà Nội: lầm than và quyết liệt thuở ấy, để lớp trẻ sau này có dịp so sánh đối chiếu với cuộc sống hôm nay.
Tô Hoài rất giản dị và chân tình. Một nhà văn lớn cỡ Tô Hoài, sự nghiệp văn chương dẫu tôi có ca vài vạn từ cũng chẳng thêm được cái gì, chỉ có một lần nhà thơ Xuân Diệu cùng đi Vĩnh Linh với tôi trong những ngày chiến tranh hạn chế “vùng cán xoong” đã nói với tôi: “Cung cách của Tô Hoài là cung cách của nhà văn lớn – mặc dầu Xuân Diệu thường ít khen ai – lớn thì phải có tác phẩm nhiều tất nhiên cả về số lượng và chất lượng. Tô Hoài đạt cả hai tiêu chuẩn đó!. Có người viết rấr giỏi nhưng chưa lớn, vì tác phẩm quá ít. Có thể đó là nhà văn tài hoa, nhà văn nổi tiếng nhưng chưa gọi là lớn”. Còn Nguyễn Tuân thì bảo: “Tô Hoài là một người có ý chí mạnh mẽ, đã viết cái gì thì không chịu bỏ dở, viết kỳ được mới thôi. Xem ra tác phẩm của anh ta tính theo đầu sách thì vô địch nhất nước đấy!”.
Có một lần ở nước ngoài, tôi và Tô Hoài gặp nhau.
Năm ấy mùa đông đầy tuyết trắng. Vào đầu xuân Quý Hợi (1983) tôi đi làm phim trao đổi văn hóa ở Bratislava về Liên Xô, còn bác Tô Hoài họp Hội nghị các nhà văn Á Phi Alger về; hai anh em tình cờ gặp nhau ở ga bay Maxơva, khi chuyến bay về Hà Nội, tôi đọc cho bác nghe câu “Dân ca” : “Tô Hoài và Nguyễn Đình Thi/ Hể đi thực tế thì đi nước ngoài/ Nguyễn Đình Thi cùng Tô Hoài/ Hể đi thực tế nước ngoài thì đi/ Bác cười bảo rằng thì 15 nước Cộng hòa thuộc Liên Xô, khi dịch “Dế mèn” thì Hội Nhà văn các nước ấy lại mời đích danh mình sang chơi, còn mình là phó Chủ tịch Nhà văn Á – Phi thì bạn bè 2 Châu lục đó lại mời mình qua lại đó thôi. Hôm nay (1983) găp bác là tình cờ trên chuyến bay của hãng hàng không Aêrô-phơlốt vừa thử đường bay Nội Bài, đến Taskent là thủ đô Udơbêkistan, máy bay “nhõng nhẽo” trục trặc xăng nhớt thế nào chưa cất cánh được, phải nằm chờ với bác ở Taskent để kiểm tra lại ngót hai ngày đêm.
Taskent có một sân ga đồ sộ vùng Trung Á – cầu hàng không cho Apganistan, cho cả vùng Irak, Iran và các nước Đông Dương – nhộn nhịp lạ thường, cứ vài ba phút là máy bay lên xuống, ầm ầm vang động suốt đêm ngày. Chao ôi! Tết nhất sắp tới rồi mà chúng tôi vẫn lang thang “đất khách quê người”. Tôi cũng từ ăn tết ở Trường Sơn thời chống Mỹ, nhưng đó nhiệm vụ chiến đấu, còn đây lại phải ăn chực, nằm chờ ở hải ngoại… hai anh em vẫn uống Cognac, cụng ly chào xuân. Các quan chức ngoại giao Tây có, ta có của nhiều nước đi trên máy bay, các nhà báo, thương gia… trên chuyến bay trắc trở này phải tức và “ghen” vì máy bay không cất cánh được mà chúng tôi vẫn cười vui và uống rượu tì tì. Có cậu nhà báo Thổ Nhĩ Kỳ tên là Hanurít nói tiếng Pháp ngồi cạnh tôi ngạc nhiên hỏi:
- Các vị mua vé hạng nhất à?
- Đâu có, bạn mua cho, có lẽ không?
- Thế sao ghế các vị có rượu uống.
Tôi đưa chai Ararát ra mời:
- Tết dân tộc của chúng tôi mà, các bạn Nga tặng. Nếu giờ này về nhà rồi thì tưng bừng hơn… Xin mời bạn.
Anh bạn Thổ Nhĩ Kỳ hiểu ra, cười vui và chúc mừng tết của chúng tôi, nhưng anh bạn lại thắc mắc;
- Acmêni nước cộng hòa của Liên bang Xô-viết cũ – dùng nhãn hiệu Ararát là không ổn đâu. Thấy tôi hơi khó hiểu anh giải thích thêm – vì Ararát là dãy núi biên giới chung của hai nước: Thổ Nhĩ Kỳ và Acmêni lại dùng cho nhãn rượu của mình là không được đâu?
Một anh bạn Franxoa người Pháp gốc Phi xen vào nói đùa vui:
- Vậy cớ sao mặt trăng là chung của nhân loại, tại sao Turquie (Thổ Nhĩ Kỳ) các anh lại lấy làm biểu trưng cho lá cờ của mình. Bộ các anh “bành trướng” à?.
Những người biết tiếng Pháp dịch lại cho các bạn ngồi đợi máy bay lại cười vui, quên bớt nhọc nhằn. Mới đây nhà văn Tô Hoài photo cho tôi một đoạn ghi chép sổ tay ngày trước ở Taskent.
III/ Nhật ký đường xa.
“Vào chỗ đoạn ở sân bay – lù lù gặp Đoàn Minh Tuấn. Sự lạ diệu kỳ! IL86 có 300 chỗ ngồi, chỉ có hơn 100 người đi. Bay đúng giờ ở Moscou(*) 5 giờ, tới Taskent 8 giờ tối. Lên nghĩ rồi xuống đi, máy bay bò ra lại lùi vào, báo lại trục trặc không bay được”.
Bữa ấy chúng tôi mang quà tết về nhà, nên hành lý của Tô Hoài và tôi có nặng thêm năm, bảy cân. Nếu phải trả thì có đến 30USD. Cô Rima và Inia ra tiễn nói thế nào ấy, cô phiên dịch lại là: Cô cân hành lý nói các nhà văn thừa vài cân bản thảo, tôi không phải tính thêm cước làm gì! Tô Hoài hôn Rima hai lần, trả ơn
--------------------------------------
(*) Moscou, Tô Hoài dùng theo tiếng Pháp tức là Max-cơ-va.
việc không trả cước phí. (Đoạn nhật ký ngày Tết ở Taskent trên Tô Hoài ghi chú là tư liệu “bán” cho tôi để viết bài Tết) và Tô Hoài còn ghi:
“Cả đêm ngày ngồi vớ vẫn trên phòng đợi. Hết rượu rồi, mua không có gì – vì chưa tới giờ bán – Đêm Taskent nhớ lại những chuyến đi trước, xa lắm rồi. Đêm ở khách sạn chính phủ nghe gà gáy phía này. Thế là ở lại đợi. An cả hai bữa. Mua được vài trăm gam Vôtka – tiêu chuẩn hai người. Vì lúc bấy giờ ở Nga cấm rượu. Họ bảo tối nay 10 giờ 40 bay được. Nhưng rồi phải đến sáng sau”.
Cũng may là tết xa nhà “tha hương ngộ cố tri” chứ không thì biết làm gì cho hết thời hạn chờ đợi. Hành khách đều phản ứng cho nên hãng hàng không phải đưa khách vào thành phố, ai muốn nghỉ khách sạn thì nghỉ, ai muốn tham quan, mua sắm thì đi. Bác Tô Hoài đã ở đây rồi, nên chỉ mình tôi đi thăm các thắng cảnh và di tích quanh quẩn gần thủ đô. Đây là một thành phố mới, mới hoàn toàn. Sau trận động đất cách đó vài thập niên gần như chỉ còn gạch vụn. Cả 15 nước cộng hòa của Liên Xô lúc ấy dồn sức người, sức của xây dựng lại. Cho nên nhà cửa, trụ sở, lâu đài đồ sộ hơn, quy hoạch đường sá rộng rãi thẳng tắp cây xanh.
Mùa xuân các công viên hoa, cỏ mơn mởn. Tôi dừng lại ở một cửa hàng bách hóa gần công viên, tuyết vẫn mơ màng bay ngập cả lối đi, tranh thủ còn ít đồng rúp mua rượu sâm nhung, pho-mát, nho khô… về làm quà tết. Mua cho bác nguyễn Tuân được một chai Ararát – giá tiền bằng mua một chiếc quạt tai voi và một bàn là. Thế là về nhà các bạn nói vui tết này bác nguyễn uống một cái quạt nhắm với bàn là Liên Xô vào bụng rồi đó!
Đi dạo trên phố Taskent mùa xuân có cảm giác như mình đi kề miệng núi lửa và các dòng nham thạch chảy ngọ nguậy dưới chân mình. Vẫn có ấn tượng động đất mùa xuân năm nào!
Hôm sau lại lên máy bay. Đã có bia và rượu vang, với lại có chai rượu sâm dự trữ, nên không lo gì nữa. Những tưởng máy bay sẽ dừng lại ở Carachi (Pakistan) như mọi khi, nào ngờ lại về Tân Đêli (New Dhéli- An Độ) có lẽ thời tiết, hay ốc vít máy bay trục trặc mà cô nàng tóc bạch kim khổng lồ “ngúng nguẩy” không như dự định của chuyến bay lúc ban đầu.
Ôi, tết tha phương trên dặm dài, lữ thứ càng nhớ nước nhớ nhà như thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc.
Tôi và bác Tô Hoài lai rai và chuyện trò trong cơ say ngây ngất của mùa xuân, máy bay đến Nội Bài lúc nào không hay biết… và xa xa phía Bắc Ninh, Đình Bảng tiếng trống hội hè đầu xuân vọng lại trong cảnh đầm ấm ở quê nhà.
Hôm ở Maxcơva Tô Hoài tâm sự với tôi:
“Ngày trước còn trẻ mình là tỷ phú về thời gian, nay mình tiết kiệm từng đồng xu nhỏ: Vì thế, ông có cả một pho tác phẩm đồ sộ gấp đôi tuổi mình, hơn một trăm tám mươi cuốn vừa truyện dài, bút ký, tạp văn, tự truyện, phê bình văn học, kịch bản phim… chưa nhà văn nào trên đất nước ta có sự nghiệp sáng tác đồ sộ như vậy! Ông là con ong thợ cần cù gầy mật, là trai biển ứa máu ra kết thành ngọc trai. Từ cuốn sách tiêu biểu Dế mèn Phiêu lưu ký đến cuốn tiểu thuyết lịch sử mới đây Quê nhà viết về Cao Bá Quát từ cuốn Cát bụi chân ai đến Chiều chiều hơn 60 năm cầm bút, nhà văn Tô Hoài đã hiến dâng cho nền văn học nước nhà những tác phẩm để đời.
x
IV/ Quota thời gian:
Trước Cách mạng tháng Tám, ông vừa viết văn vừa tham gia các phong trào hoạt động xã hội. Thời kỳ tiền khởi nghĩa, Tô Hoài sớm gia nhập Hội văn hóa Cứu quốc, viết báo bí mật tuyên truyền cách mạng.
Dù giữ nhiệm vụ quan trọng như lãnh đạo văn nghệ, tham luận ở nghị trường quốc hội hoặc diễn đàn quốc tế, khi bàn bạc công việc ở tổ dân phố, đều đầy trách nhiệm. Bên ngoài, ông có vẻ nhạt nhẽo với mọi người, nhưng kỳ thực, tâm hồn ông rất sôi nổi và trẻ trung. Ông thường bảo:”Đối với các bạn viết, bạn đọc trẻ, mình rất sẵn sàng cả ngày nói chuyện”.
Đi tàu xe, ở khách sạn, xuống đồng ruộng, đâu đâu ông cũng lật sổ tay ghi chép, không bao giờ phí thì giờ và ở đâu ông cũng viết được, kể cả nằm bệnh viện, đi tham quan nước ngoài!.
Tô Hoài sống rất chân tình. Có người lại nói: “Ông ấy là đương kim vô địch Bắc Hà”. Cuộc đời của Tô Hoài, có thể nói, gắn bó với Hà Nội từ thuở thiếu niên cho đến bây giờ, đã “Mười năm khúc khích cười Đỗ Phủ”(*).
Nhân dịp đầu hè 2010 Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội Kỷ niệm 90 năm sinh Tô Hoài, tôi điện thoại xin chúc nhà văn Tô Hoài sức khỏe như con thiên lý mã để còn hiến dâng cho đời tâm huyết của mình với văn học nghệ thuật./.
* Câu đối: của GS Trần Văn Giàu khi 80 tuổi.
Vũ Bằng: Báo Trung Bắc và con người Nguyễn Văn Vĩnh
Báo “Nhựt Tân” sống lây lất, Tạ Đình Bính, Phùng Bảo Thạch rút đi rồi, tôi vì anh hùng tính cũng theo luôn họ, để cho lớp khác lên thay. Nhưng tôi cũng không thất nghiệp lâu. Nguyễn Doãn Vượng, thấy tôi viết thiên phóng sự “Một đêm trăng với năm bông hoa tàn”, cho là được, vận động để tôi vào làm Trung Bắc Tân Văn (lúc đó vừa được ông Nguyễn Văn Vĩnh trao lại cho ông Nguyễn Văn Luận là chú, mà cũng là dưỡng phụ của anh). Ông Vĩnh làm báo “An nam Nouveau” (lúc đó có Hy Tống trợ bút). Tôi có lúc đến đầu phố Hàng Gai (tòa báo “Annam Nouveau”), có lúc đến nhà in Trung Bắc Tân Văn (ở giữa phố Hàng Bông, chỗ rẽ ra Nhà Thương Phủ Doãn). Vì là giai đoạn quá độ giữa chủ nhiệm cũ và chủ nhiệm mới, báo cứ nhùng nhà nhùng nhằng không ra thế nào. Riêng tôi không biết làm gì, mỗi ngày cứ đến bơ bơ cái mặt ra xem báo, rồi ngồi ngắm hết người nọ đến người kia. Thư ký tòa soạn Trung Bắc lúc đó là Dương Phượng Dực; trợ bút thường trực có Sở Bảo Doãn Kế Thiện, Tam Hữu Mai Đăng Đệ, Nguyễn Đỗ Mục, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Nhị Lang Dương Mầu Ngọc... Và tôi bắt đầu sống trong một thế giới mới, vì tất cả cụ chủ bút, trợ bút (trừ Dương Mầu Ngọc) đều mặc quần áo Việt, khăn đóng áo dài, đi giày Đức Mậu, răng đen, có cụ còn búi tóc củ hành to bằng cái nấm rơm. Nổi bật nhất và tân tiến nhất là ông Nguyễn Văn Vĩnh, lúc nào cũng đội cái “cát cô lô nhân” ở trên đầu không chịu bỏ ra, kể cả những khi viết bài, tiếp khách. Tôi chưa thấy ai nói to, cười to như thế. Bất cứ chuyện làm ăn hay đùa giỡn, ông cứ nói bô bô lên, gặp ai cũng cười, nói một câu chuyện hay bắt tay. Tôi làm Trung Bắc được chừng hơn một tháng, ông không biết tôi là ai hết. Ông chào tôi rồi niềm nở, bắt tay và hỏi tôi trong khóa họp tuần trước, nghị viện có gì mới lạ không. Thì ra ông tưởng tôi là nghị sĩ đến thăm nhà báo!
Chính nhờ được gần gũi các cụ, tôi học thêm được ít chữ nho trong thời đó. nói là học chữ nho cho oai, chớ thực ra bao nhiêu chữ học được lúc lên mười, mười một tuổi, tôi đã trả lại hết cho các bực thánh hiền ngay khi cắp sách học “a b c dắt dê đi ‘a”. Học chữ nho đây là tôi muốn nói học mót chữ nho. Có những chữ học dớ da dớ dẩn, hoặc nghe lỏm được, mà suốt đời tôi không quên. Đại khái như chữ kích thích, cụ Sở Bảo chữa là khích thích; nói ảo mộng là sai, chính ra phải nói là
“huyễn mộng”; chia buồn với nhà người ta có đàn bà qua đời thì phải viết “Xin cầu chúc cho hương hồn bà (hay cụ) phiêu diêu nơi cực lạc”, nhưng nếu là đàn ông mà viết như thế, người ta cười cho thối óc, phải viết là “cầu chúc cho linh hồn ông” hay “anh hồn” ông... mới đúng.
Có một chữ mà cụ Tú Nguyễn Đỗ Mục bảo tôi, nhưng đến bây giờ tôi vẫn bán tín bán nghi, không biết sai hay đúng. Chữ đó là công nhận. Theo cụ Tú Mục, một người chỉ có thể nói là nhận, thừa nhận, và chỉ khi nào có nhiều người mới có thể dùng chữ công nhận mà thôi, ý giả muốn hiểu rằng chữ công đây chỉ một số đồng (như công cộng). Nhưng một số đông khác cho rằng nói như thế là hiểu sai chữ công, công nhận cũng như công động, công tâm, công bằng; công nhận tức là nhận một cách thực tâm, nhận một cách đầy thiện ý.
Đại khái, tôi học lỏm chữ nho của các cụ như thế đó. Tôi không dám nói rằng cái túi chữ nho đó giúp ích cho tôi một phần nào trong đời làm báo của tôi sau này, nhưng tôi thấy có một cái lợi hiển nhiên là từ khi biết chữ nho phiền toái thế, tôi rợn tóc gáy và mỗi khi phải dùng chữ nho trong câu văn, tôi hết sức thận trọng, vì chỉ sợ dùng lầm thì thiên hạ cười... bằng thích!
Mà không thận trọng như thế cũng không được. Vì lúc bấy giờ, viết một bài văn, viết một cái tin, thực có phần khó khăn vất vả hơn là đi vào Ba Thục. Bài viết rồi phải đưa cho Dương Phượng Dực sửa đổi câu văn, xóa bỏ những đoạn thừa, hay thêm mắm thêm muối rồi chuyển sang cho cụ Tú Mục hay Sở Bảo Doãn Kế Thiện xem lại văn có hay không, và chữ dùng có “đắt” không; sau cùng, chuyển lên cho “cụ chủ nhiệm”, lúc ấy còn là ông Vĩnh. Nhưng ông Vĩnh là một người lắm công nhiều việc - chỉ riêng việc ngồi nghe điện thoại và tiếp khách cũng đã mất nhiều thì giờ lắm rồi - nên ông Vĩnh ít xem.
Vả chăng lúc ấy, ông Vĩnh còn thì giờ đâu mà để ý đến tờ Trung Bắc Tân Văn nữa! Phần thì lo nợ, phần lại bận viết bài cho báo “Annam Nouveau” phần lại do dàn xếp câu chuyện gia đình, phần lại lo chống Phạm Quỳnh,
“chơi” lại thực dân Pháp, ông Vĩnh chỉ cho chỉ thị cũng đã không đủ thời giờ rồi; nói chi đến chuyện xem lại một bài “phông” ngán như cơm nguội của Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, một truyện khôi hài cù bảy ngày không cười của Hi Đình Nguyễn Văn Tôi, Sơn Phong Bùi Đức Long, hoặc một cái tin xe cán chết người... “nhưng đưa vào bệnh viện nhờ bác sĩ khám xét thì cũng không lấy gì làm nặng lắm”.
Đến đây, tôi không thể không nhớ lại cái tài viết báo của ông Nguyễn Văn Vĩnh. Không phải nói, ai cũng biết ông Vĩnh là một nhà học nhiều biết rộng, vấn đề gì cũng biết. Điểm đó không phải là một điểm đặc biệt, vì chung quanh ông cũng có nhiều người tài ba như thế. Nhưng khác một điều là những người kia thì không ứng dụng được cái biết của mình làm lợi ích cho người khác.
Đằng này ông Vĩnh học và hành ngay. Phải nói ngay, thời ấy, ông đã có một ý thức về nghề báo và những bài xã thuyết hay, ý nghĩa, được người đời đương thời lưu ý đều ký là Tân Nam Tử (biệt hiệu của ông Nguyễn Văn Vĩnh) và đăng ở Đông Dương Tạp Chí, Trung Bắc Tân Văn lẫn Annam Nouveau.
Tuy nhiên, đặc điểm của Nguyễn Văn Vĩnh không phải ở chỗ đó. Hiện nay, chúng ta thấy có những tiểu thuyết gia viết một lúc bốn, năm, tiểu thuyết cho bốn, năm báo khác nhau, hoặc những tay kiếm tiền có hạng như Kim Dung, viết sáu bảy truyện chưởng một lúc; những người ấy, ta phải nhận là có tài, nhưng dù sao các bản thảo đều chỉ thuộc về một loại như nhau: tiểu thuyết hẳn, ký sự hẳn, chưởng hẳn hay khôi hài hẳn... Tóm lại, tức là cùng một thể văn. Đến Nguyễn Văn Vĩnh thì khác hẳn. Tôi nhớ có một lần Nguyễn Văn Vĩnh bị mấy nhà Ngân hàng thúc nợ dữ quá, dọa tịch thu gia sản. Trong khi ấy thì nhân viên nhà báo, mấy tháng không có tiền, bỏ bê công việc; đã thế hai bà lại xích mích, làm tình làm tội ông; ấy là chưa kể mấy ông con, quen lối sống như con Tây, đòi hết thứ này thứ nọ, để ăn chơi phè phỡn. Đặt địa vị một người thường thì gặp bao nhiêu cảnh “bí rì rì” đó cùng một lúc, người ta dễ điên đầu. Ông Nguyễn Văn Vĩnh hơn nhiều người khác ở chỗ không liều mà cũng không lì. Dù hoàn cảnh gay gắt đến chừng nào, ông cũng phớt tỉnh; chỉ khi nào vắng vẻ, ông mới thở hắt ra. Có lẽ trong tất cả bạn bè, bác sĩ Tụng, một trong những người bạn già lâu đời nhất của ông Vĩnh còn lại cho đến ngày nay, còn hầu hết đều qui tiên cả rồi, là người được ông Vĩnh cởi mở nỗi lòng nhiều nhất.
Theo chỗ biết của tôi, bác sĩ Tụng không những chạy tiền cho ông Vĩnh (lúc đó ông Tụng còn là nhân viên đắc lực của Sai Gòn Ngân hàng), mà còn lo dàn xếp cả chuyện gia đình cho ông Vĩnh, điều giải các cuộc tranh chấp giữa bà cả và bà hai. Ông Vĩnh làm việc như con trâu cày, không mấy khi muốn phiền người khác. Có một lần, tôi đã được mục kích một cảnh như sau: không biết giận gia đình gì đó, ông lên một căn gác nằm khoèo, nhờ ông Tụng mua cho một mẹt bún chả ăn trừ cơm, rồi viết luôn một lúc một bài xã thuyết cho Annam Nouveau, thảo một thư cho Toàn quyền Pháp đưa xuống dưới nhà đánh máy luôn, dịch miệng “Têlêmac phiêu lưu
ký” cho Đông lĩnh Dương Phượng Dực ngồi ám tả, trong khi chính ông lại quay sang nói chuyện với ông Tụng về chuyện thống sứ Pháp “có ý muốn giúp ông tiền bất cứ lúc nào, bao nhiêu cũng được”, miễn là ông tạm gác ý kiến đả kích Pháp và ngưng chống nhà vua".
Thú thực cho đến bây giờ, tôi sợ nhiều người nhưng chưa sợ gì như sợ cái tài viết của Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi được biết tài viết của Vương Quang Nhường lúc theo Thủ tướng Tâm ra Hà Nội, hút rồi, ngồi gác chân lên ghế, quay sang bên phải đọc một bài diễn văn chữ Pháp, quay sang bên trái đọc một bài diễn văn chữ Việt để cho Thủ tướng Tâm đọc, nhân một buổi lễ khánh thành. Đem so sánh, tôi vẫn nghiêng về Nguyễn Văn Vĩnh nhiều hơn, và cho mãi đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa thấy có ai viết báo nhiều loại khác nhau một cách tài tình và nghĩa lý như ông Vĩnh.
Ông viết tin, viết xã thuyết, làm thơ, khảo cứu, phóng sự (Volonté Indochinoise) và dịch tiểu thuyết thì quả không chê được. Nhiều cụ bỉnh bút báo Trung Bắc kể chuyện cho tôi rằng ông Vĩnh, về truyện dịch, đắc ý nhất cuốn “Ba người ngự lâm pháo thủ”. Nhưng một bạn chí thân của ông, từng sống những giây phút gay cấn nhất đời với ông, vốn biết rõ về đời công và đời tư ông hơn ai hết, quả quyết là không có truyện nào ông vừa ý mà lại để công phu dịch thuật như truyện “Mai Nương lệ cốt”. Hầu hết các bài báo, truyện dịch của ông Vĩnh, đều do bạn hữu hay thư ký thân tín chép theo lời ông đọc; chép xong, ít khi ông đọc lại, bảo đưa xuống nhà in xếp chữ luôn. Riêng có bản dịch “Mai Nương lệ cốt” là do chính tay ông viết, mà viết xong, ông không đưa cho nhà in xếp chữ ngay, lại đưa cho cụ Tụng “bình” lại và cùng tìm những danh từ thích đáng hơn hay tình tứ hơn, nếu cần. Mỗi kỳ dịch như thế gồm chừng bảy, tám hay mười lăm trang chữ viết; đăng báo gần hết, lại dịch tiếp. Nhưng lần nào cũng vậy, dịch xong, bình xong rồi, ông cũng bảo Tư Đạt sang Gia Lâm đưa cho bà Suzanne đọc trước. Thành thử truyện “Mai Nương lệ cốt”, tuy ông Vĩnh không nói ra, chính là cuốn truyện dịch mà ông để tâm nhiều nhất, cuốn truyện dịch gọt giũa công phu nhất.
Đây không phải là một thiên chép về đời tình ái của ông Vĩnh, nên tôi không ghi lại những băn khoăn, buồn phiền của ông Vĩnh đối với mấy bà, cũng như vấn đề con cái của ông. Nhưng có thể nói rằng đời công cũng như đời tư của ông Nguyễn Văn Vĩnh là cả một cuộc vật lộn lao đao, hào hứng, lên xuống như nước thủy triều, bị bao nhiêu day dứt, nào là Tây, nào là tiền, nào là con, nào là vợ, nhưng không một lúc nào ông chịu ngồi yên, một mặt cứ đối phó, cứ giải quyết, mà một mặt, cứ lo chiến đấu, chống áp bức và bóc lột.
Nói đến ông Vĩnh, người ta thường nhớ ngay đến loạt bài đả kích chủ trương quân chủ của Phạm Quỳnh theo sát với Tây, mà hầu hết đều quên rằng chiến dịch làm cho từ Bắc vào Nam sôi nổi, hăng say, chiến dịch khích động lòng yêu nước của toàn dân lúc ấy, chiến dịch làm cho Pháp giựt mình, vì không ngờ ông Vĩnh lại được dân chúng tin yêu đến thế, chính là chiến dịch “tẩy chay Hoa kiều”. Theo chỗ hiểu biết của tôi do các bậc đàn anh tâm sự, ông Vĩnh lúc ấy chỉ viết có một bài báo, kêu gọi lòng ái quốc của đồng bào mà cả nước vùng lên tẩy chay Hoa kiều rầm rộ. Bài báo ấy ký một bút tự của ông Nguyễn Văn Vĩnh mà ít người được biết: Quan Thành. Bút tự này, ông chỉ ký dưới những bài báo đấu tranh, còn bút tự Tân Nam Tử thì dùng cho bất cứ bài nào đề cập đến vấn đề xã hội, văn hóa hay chánh trị. Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, anh của Nguyễn Tiến Lãng, đồng thời là anh vợ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, khi đó là người tán đồng ý kiến bài báo này nhất, và cũng là người đã phổ biến ý kiến bài báo đó, chỉ huy công cuộc bài Hoa. Các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Buồm ở Hà Nội là những đường phố có nhiều người Hoa kiều sinh sống, bị tê liệt về thương mãi trong nhiều ngày. Không ngày nào không có những vụ đổ vỡ phá phách.
Vì vấn đề ngoại giao, mà cũng vì vấn đề an ninh nữa, phủ Toàn quyền phải yêu cầu ông Nguyễn Văn Vĩnh ngưng loạt bài ấy lại và đe dọa nếu ông Vĩnh không chịu thì không những đóng cửa báo mà lại có nhiều cách để buộc các nhà ngân hàng đòi nợ ông Vĩnh, làm cho ông phá sản.
Những lời đe dọa ấy, khi thì sỗ sàng, khi thì mềm dẻo của nhà cầm quyền Pháp hồi đó, kéo dài không ngớt trong suốt cuộc đời ông Vĩnh, có khi làm cho ông Vĩnh tạm yên giai đoạn, nhưng có khi làm cho ông nức lòng chiến đấu hơn; thà là chịu khổ sở, thiếu thốn, hiểm nghèo, chớ không chịu vị tình người Pháp hay vì tiền của họ mà thay đổi lập trường, chí hướng.
Người ta kể chuyện rằng ông Vĩnh mở chiến dịch bài Hoa như thế, thực ra không phải do Hoa kiều ở Bắc, bởi vì dù sao Hoa kiều ở Bắc cũng không lũng đoạn kinh tế của Việt Nam như ở miền Nam, nhưng chính là vì Hoa kiều ở Nam làm mưa làm gió ác liệt quá, không còn coi người Việt Nam ra gì. Chính vì thế, cụ Nguyễn Phan Long và cụ Bùi Quang Chiêu là hai người đặc biệt tán thưởng ý kiến nêu ra trong bài báo ký tên Quan Thành, nhưng tại sao lúc đó Nguyễn Phan Long không họa theo Quan Thành mở rộng chiến dịch bài Hoa vào Nam Việt thì nhiều người không được rõ. Có người bảo là tại lý do muốn phát động một chiến dịch như thế, không thể dùng Pháp ngữ, ít phổ biến trong dân gian; mà cụ Nguyễn Phan Long, một học giả người Nam, một anh tài của đất nước, lại không sử dụng được Việt ngữ tài tình như Pháp ngữ.
Thú thực, làm bỉnh bút ở tờ Trung Bắc, dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Văn Vĩnh, nhiều người lấy làm hãnh diện, chớ không phải chỉ riêng tôi. Đáng kể nhất là tất cả các anh em trong nhà báo đều kính yêu ông; người chân chính thì yêu ông vì tài ba đức độ, còn những người quay quắt cũng yêu vì ông rất rộng rãi về tiền nong, dù biết là họ ăn cắp, bóc lột ông hay đâm vào sau lưng ông, ông cũng coi là thường, tha thứ hết, và không hề giận dỗi hay phiền trách.
Trong suốt cuộc đời làm báo, tôi học được nhiều nhất trong thời gian ngắn ngủi này. Ngắn ngủi vì chỉ vỏn vẹn được ít lâu, thì vì vấn đề tiền nong, công nợ, ông Vĩnh gán tờ Trung Bắc Tân Văn cho ông Nguyễn Văn Luận. Lãnh tờ Trung Bắc, ông Luận vẫn giữ nguyên nhân viên cũ; nhưng quyết định “tiêm một sinh khí mới” cho tờ báo. Trước hết, ông muốn cho mục xã thuyết trẻ hơn một chút nên đem vụ này ra bàn với các cụ Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, nhưng các cụ già khó tính lắm, chưa bàn, các cụ đã cáo ốm xin nghỉ làm.
Duy còn ba cụ via là Sở Bảo Doãn Kế Thiện, Đông Lĩnh Dương Phượng Dực và Nguyễn Đỗ Mục ở lại làm chơi lừng khừng. Trong ê kíp “cũ mà mới” còn lại Dương Mầu Ngọc tức Ngọc Thỏ, tôi và một phóng viên “khăn đóng áo dài” là Nguyễn Văn Bân, bây giờ cũng đã quá cố rồi.
Sang chủ nhân mới và nhờ tân chủ nhiệm tiêm sinh lực mới, tờ Trung Bắc Tân Văn cũng không chạy hơn được bao nhiêu. Cụ Nguyễn Văn Luận tuyển thêm người là cụ Mai Đăng Đệ chia nhau với tôi viết “phim hàng
ngày” ký một tên chung là Lẩn Thẩn Tiên Sinh; ngoài ra, mua thêm truyện của những nhà văn trẻ như Nguyễn Dân Giám (tức tác giả truyện “Dưới Rặng Thông”, lúc ấy mới ở Pháp về), và Lê Văn Trương (mới ở Nam Vang buôn hột xoàn Xiêm về). Cuốn bản thảo đầu tiên của Dân Giám, tác giả “Dưới Rặng Thông” sau này, là “Sóng Gió Thái Bình Dương”; còn bản thảo đầu tiên của Trương là “Những cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích”.
Lúc ấy, Nguyễn Tuân là phóng viên Trung Bắc ở Thanh Hóa.
Bổn phận tôi là phải đọc những truyện đó để phúc trình lên chủ nhiệm. Ông Luận đeo kính trắng, vuốt râu bên này một cái, vuốt râu bên kia một cái, tợp một tợp rượu, chép miệng thở dài (tại sao ông cứ thở dài, tôi không tài nào hiểu nổi) rồi bảo: “Ừ, đăng được thì đăng!”. Thế là đăng báo. Ngoài công việc, hai ba ngày tôi phải viết một cái “phim” đỡ cho cụ cử Đệ, ra tòa lấy tin tòa án, làm phóng viên thể thao, phụ trách trang “Chiếu Bóng”. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu châm ngôn của cụ Lỗ Thư (bút hiệu của cụ Luận) thường ban ra để dạy nghề báo cho kẻ hậu sinh: “Làm báo phải như con dao pha. Bất cứ cái gì cũng phải viết được, mà viết nhanh, thiếu mục gì là mình có bài điền vào luôn, không anh nào bắt bí được mình!”.
Những lời ấy là khuôn vàng thước ngọc cho tôi. Tôi nỗ lực học hỏi và tập viết đủ mọi mặt. Ngoài ra, tôi lại còn đi xa hơn nữa là xông vào nhà in để học hỏi xếp chữ thế nào, kiểu chữ này kêu là gì, cái “tác qua” là cái gì, lên khuôn ra sao, các dấu sửa épreuve thế nào, máy chạy tốt xấu ra sao... vì theo lời các bậc đàn anh, làm báo không thể nào không biết nhà in; nhà in và nhà báo như cá với nước, như răng với môi, môi hở thì răng lạnh...
Lập thân tối hạ thị văn chương?
Trương Thái Du
Mở đầu bài báo “Quan niệm của tôi đối với văn chương”[1], Phan Bội Châu đã trích và dịch hai tác giả:
Tùy Viên:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương”.
[Công ở non sông thiêng tấc dạ
Thân nhờ bút mực quá hèn trai]
Minh Nhân:
“Văn chương thiên cổ sự
Đắc thất thốn tâm tư”.
[Văn chương việc nghìn đời
Hay dở chỉ lòng biết]
Tiếp theo ông đặt dấu hỏi: “Xem hai câu ấy thì bảo văn chương là một việc có giá trị hay không?”. Sau mấy trang viết trải lòng, dẫn giải từ Hạ Vũ, Tả Truyện, Kinh Dịch tới Phật, Chúa, Kha Luân Bố, và mô tả sơ nét bối cảnh xã hội Việt Nam nửa thuộc địa nửa phong kiến đầy tăm tối ngột ngạt, cụ Phan kết luận: “Chúng ta chẳng nói đến văn chương còn nói gì? Nếu không thèm nói văn chương thì xin hỏi, ngoài việc văn chương thì có gì là chúng ta làm được? Lại như một hạng người không biết văn chương là cái gì, thì tôi không muốn bàn nói tới. Lập miệng thân cho thạo, anh võ là mình nuôi xác thịt cho no, ngựa trâu thây kệ. Nếu chỉ hạng người như thế mà ta còn nói văn chương với họ làm gì, nhưng há có lẽ đâu hai mươi lăm triệu đồng bào tai thông mắt sáng, hơn bốn nghìn năm tổ quốc sông lớn nguồn xa, mà không có người biết nghe văn chương ư? Vậy nên chúng ta phải cố học cho ra nghề văn chương”.
*
Gần đây tôi có đọc tâm sự mở (public) trên blog của một nhà thơ nổi tiếng, một chuẩn mực thành danh bằng thi ca. Nhà thơ bảo ông bà dạy “Lập thân tối hạ thị văn chương” mà ông quên! Tôi tìm câu “ông bà dạy” này trên internet và nhận thấy nó phổ biến khá rộng rãi trong xã hội Việt Nam , hay được các nhà văn nhà thơ trích dẫn với hàm ý: Đừng dại dột dấn bước, ao ước lập thân bằng văn nghiệp. Nó rất hạ đẳng, tàn nhẫn, bạc bẽo và đầy tai tiếng. Hơn hết văn chương không thể nuôi sống một con người.
Thật là kỳ lạ! Cụ Phan Bội Châu dạy một đằng, xã hội (ở góc độ nào đó) lại tiếp thu một nẻo. Cụ đưa ra, dẫn dịch hai nhận định trái ngược nhau về văn chương của nền Nho học Trung Quốc để thuyết phục đồng bào mình về giá trị vĩnh cửu của văn chương. Than ôi, lớp lớp hậu sinh chỉ ghi lòng tạc dạ thứ “âm ảnh” minh họa, thế thì nghĩa làm sao?
Trở lại với phần dịch ý của Phan Bội Châu, ta thấy hai từ “trúc bạch” và “văn chương” được ông chuyển ngữ thành “công ở non sông” và “bút mực”. Như vậy có thể xác định cụ Phan muốn hiểu “trúc bạch” là sự nghiệp lớn mà Tùy Viên luôn nghiền ngẫm trong lòng (tấc dạ). Bài báo của cụ Phan cũng nhắc đến “tam bất hủ” chép nơi Tả Truyện, theo thứ tự là lập đức, lập công và lập ngôn. Lập ngôn ở đây tức là viết văn. Lập công, cụ Phan dẫn trường hợp Hạ Vũ trị thủy, Quang Trung đại phá Mãn Thanh.
Rõ ràng Phan Bội Châu có phần đồng cảm trong cách dịch này, xuất phát từ chính sự nghiệp cách mạng vẻ vang nhưng gián đoạn của cụ? Cụ đến với hai câu thơ Tùy Viên bằng ít nhiều riêng tư sâu kín chăng? Cụ đã chuyển cho hậu thế một ý niệm nhưng vẫn có thể bàn thảo thêm, từ chính nội hàm ngữ nghĩa của thi từ Tùy Viên.
Tôi thử đọc “trúc bạch” khác đi, theo đúng từ điển, nó chỉ các loại sách cổ bằng thẻ trúc hoặc lụa thô. Giả thử Tùy Viên nghiền ngẫm văn chương của thánh nhân và giá trị lớn lao trong ấy ở mỗi bữa ăn, chứ không phải nghiền ngẫm lập công, thứ được đặt cao hơn lập ngôn (văn chương), sẽ khiến ta nhận ra một Tùy Viên khác hẳn cụ Phan mà không vô lối một chút nào. Nói cho cùng, đa nghĩa trong những ý thơ chưa bao giờ xa lạ với người thưởng lãm.
*
Trước khi đi sâu vào ngữ nghĩa, tôi đã có thao tác kiểm tra văn bản học đơn giản nhất là tìm trên internet câu “Lập thân tối hạ thị văn chương” bằng Hán tự. Điều bất ngờ là có vẻ cụ Phan Bội Châu đã sửa thơ Tùy Viên, sửa thơ Đỗ Phủ. Cụ chỉ nhớ ang áng và dùng những từ gần gũi với từ gốc? Cũng không nên loại trừ một hai yếu tố kỹ thuật như lỗi bản khắc in ấn nội địa Việt Nam , hoặc lệch pha của đường biên viễn không gian Hán văn.
Tùy Viên tiên sinh hay Viên Mai (1716-1798) người Chiết Giang, năm Càn Long thứ 4 (1739) ông đỗ tiến sĩ và vào làm ở Hàn lâm viện Thanh triều. Trong sự nghiệp văn chương vẻ vang đương thời của mình ông từng chủ trì Càn Long thi đàm và trước tác nhiều tác phẩm như Tùy Viên thi thoại, Tiểu thương sơn phòng văn tập, Tiểu thương sơn phòng thi tập… Nguyên văn hai câu thơ của Tùy Viên (làm năm mười ba tuổi) là:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập danh tối tiểu thị văn chương
Ta thấy câu thứ hai có hai từ khác với trích dẫn của cụ Phan Bội Châu là danh/thân, tiểu/hạ. Ngoài ra hai câu thơ cụ Phan chú của Minh Nhân thì lại là hai câu đầu bài Cảm Tác của Đỗ Phủ, chỉ khác một chữ Tư:
Văn chương thiên cổ sự
Đắc thất thốn tâm tri
Tác giả giai thù liệt
Danh thanh khởi lãng thuỳ
Khi kiểm tra tần số xuất hiện của hai câu chữ Hán “Lập danh tối tiểu thị văn chương” và “Văn chương thiên cổ sự” trên mạng, tôi thấy câu thứ nhất chỉ có 11 trang ghi nhận rất sơ sài, cực ít luận bình so với 696 trang của câu thứ hai. Điều đó nói lên Viên Mai quá nhỏ bé trước Đỗ Phủ chăng? Hay lời cảm thán của Viên Mai mang tính cá nhân, không có giá trị đại chúng phổ thông, không phải chân lý thường hằng tại quê hương ông? Ngược lại, câu tiếng Việt “Lập thân tối hạ thị văn chương” của Phan Bội Châu xuất hiện 123 lần, và “Văn chương thiên cổ sự” chỉ 51 lần.
Bản thân tôi thiên về cách hiểu mang tính cá nhân của Viên Mai: Mỗi bữa (ăn) không quên nghiền (ngẫm) sách vở (thánh hiền) / Lập danh bằng văn chương là một con đường hẹp (vì thánh nhân từ xưa đã có những trước tác mà ta phải cúi đầu thẹn thùng bởi bất tài). Do đó hai câu thơ của Viên Mai ngoài việc khiêm nhường tự trách mình, còn dung chứa lòng kính trọng tiền bối và di sản quá khứ. Logic này từng hiện hữu trong giai thoại Đường thi: Lý Bạch thăm Hoàng Hạc Lâu định đề thơ nhưng thấy tích cũ của Thôi Hiệu đành vứt bút ngửa mặt than: Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc / Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu. (Trước mắt có phong cảnh đẹp mà không làm thơ nổi. Vì đã có trứ tác Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu cao vời vợi rồi).
*
Có không sự tiến chuyển một câu thơ Hán của Viên Mai, qua nhà “biên tập” hữu ý hoặc vô tình Phan Bội Châu, để thành ngạn ngữ/cách ngôn Việt Nam hiện đại, trên cơ sở thực tế đáng buồn của môi trường văn học cũng như văn giới mấy chục năm trở lại đây? Đất nước chúng ta hôm nay, có lẽ không tồn tại người viết một cách chuyên nghiệp, ít nhất là ở tiêu chí sống tốt và làm giàu được bằng văn chương (như Mỹ, Anh và cả Trung Quốc chẳng hạn). Đã xuất hiện những khái niệm rất kêu và lạ tai như cổ vũ văn hóa đọc, xây dựng thị trường văn học, vận động rèn giũa trau dồi lực lượng tác giả. Nó dường như phi chuẩn với truyền thống vì cụ Phan từng tha thiết “Văn chương thiên cổ sự”, đau đời thoát tục, giáo dục khai sáng như các tiền bối Khổng, Mạnh. Tuy vậy nếu nhìn văn học rộng hơn thế, đời thường đi một chút, thì động thái trên rất cần thiết cho xã hội trên con đường hòa nhập đại đồng nhân loại.
Việt Nam đang chuyển mình, khi nền văn minh đô thị bước đầu hoàn bị, chắc chắn nó sẽ tự xem xét và điều chỉnh mọi riềng mối trong đó có văn học. Tôi hoàn toàn tin tưởng một ngày không xa nữa, cái gì của Viên Mai sẽ được ngôn ngữ Việt Nam trả lại cho Viên Mai.
Thảo Điền 12-2008
[1] Theo báo Đông Phương ngày 28-10-1931, in lại trong “Thơ văn Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế (1926-1940)”, NXB Thuận Hóa 1988, trang 315 đến 319.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)