ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU CỦA BÁO CHÍ HỌC
|
(Phần 2)
|
Qua hơn mười năm làm đào tạo người làm
báo ở Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường
Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn) có thể rút ra nhận định như sau:
-
Sinh
viên được đào tạo ở trường, khi mới tốt nghiệp tỏ ra rất lúng túng
trong việc thu thập và xử lý thông tin.
-
Sản phẩm báo chí
của họ mang tính sáng tác nhiều hơn là dựa vào sự kiện có thật do họ khai thác được.
-
Khi có đủ tư liệu cần thiết họ có thể hoàn
thành văn bản tác phẩm
báo chí rẩt
nhanh.
Từ đây chứng ta có thể thấy được những khiếm khuyết của công tác đào tạo hiện nay. Trừ phần lý thuyết xây
dựng văn bản tác phẩm, ngành báo chí học còn để lại quá
nhiều lỗ hổng
trong tri thức của học
viên. Vậy thì việc san lấp các lỗ hổng đó cần được thục hiện ra sao? Đây là công việc cần làm của công tác đào tạo.
Mực đích của
báo chí học là gây ảnh hương, tác động tới công tác thực hành báo chí để làm cho nó phát triển
nhanh hơn, chắc chắn
hơn và ngày càng sâu sắc
hơn. Hiệu quà của sự tác động
này là rất khác nhau, tùy thuộc vào chỗ nó được vận dụng vào lĩnh
vực nào. Nếu không thì sẽ có nguy cơ là đặt hy vọng phi
thực tế vào tầm quan trọng mang tính thực tiễn của báo chí học. Do đó, chúng ta phải tìm
hiểu kỹ hơn công việc của báo chí học,
phải trả lời được các câu hỏi sau đây:
- Hệ thống các
phương tiện thông tin tạo ra các điều kiện gì cho
nghề báo? (các nguyên tắc).
- Những áp lực
nào mà thể chế truyền đặt ra cho nghề báo (cơ cấu).
-
Những
nội dung được sản xuất trong hệ thống báo chí thực tiễn tạo nên kết
quả gì và
tác động như thế nào? (chức năng).
- Những kỳ vọng gì được đặt ra cho những
người làm trong hệ thống báo chí? (vai trò, địa vị).
Cần phải nghiên cứu các
nguyên tắc, cơ cấu, chức năng và vai trò của hệ thống các phương tiện thông tin để xác định xem cái gì là
biểu hiện đặc trưng
của nghề báo, tức là cái gì là yếu tố cần thiết nhất để có thể cung cấp những bức tranh
hiện thực của đời sống xà hội theo những điều kiện và nguyên tắc trên đây.
Hiện nay ở
nước ta rõ ràng là báo chí học còn thiếu
vắng các công trình nghiên cứu về những vấn đề này, cho nên trong công tác đào tạo phóng viên và cả công tác đào tạo ờ trình độ sau đại học còn để một
mảng trống về báo chí học.
Chúng ta thử mô
hình hoá những điều vừa
bàn luận trên đây:
Mô hình này được biếu thị
bằng những hình tròn
(hay vuông) xung quanh người phóng viên. Người phóng viên ở giữa với tư cách là người tạo ra những thông tin thời sự. Đế
rõ hơn, ta có thể dùng phép ẩn dụ
để so sánh hệ thống báo
chí với một củ hành tây. Mô hình củ hành tây dẫn chúng ta đến một cách sắp xếp có hệ thống - nó là nền tảng cho một bảng liệt kê những đóng góp có tính
khoa học đối với ngành Báo chí học.
Vòng tròn ngoài cùng là những quy
tắc mà hệ thống các phương tiện thông tin chịu ảnh hưởng trực tiếp như điều kiện khung có tính
xã hội,
nền tảng
lịch sử và pháp lý, các biện pháp của chính sách truyền thông và cả các tiêu chuẩn đạo
đức và tiêu chuẩn nghề nghiệp đối vớỉ hoạt động báo chí.
Vòng tròn thứ hai thể
hiện cơ cấu của nghề báo mà trước hết là những yếu tố tạo nên sức ép đối với
các cơ quan báo chí, sức ép này có sự tác
động khác nhau đối với các bộ phận riêng rẽ. Đó là những sức ép về kinh tế,
chính trị, tổ chức và
kỹ thuật. Sức ép chính trị thường tác động gián tiếp thông qua các mối liên quan
về kinh tế và tổ chức.
Vòng tròn thứ ba thể
hiện chức năng, nhiệm vụ của nghề báo. Điều này nói về những thành tựu và khả năng tác
động của hệ thống báo chí: các phóng viên dựa vào nguổn tư liệu nào, họ bắt đầu với nguồn thông tin nào và lệ thuộc vào
chúng ở mức độ nào? Bài báo dựa
theo khuôn mẫu nào,
có hình
thức diễn đạt
nào và được tác giả vận dụng như thế nào? Theo nguyên tắc nào để
phóng viên có thể viết bản tin về các sự kiện? Thực tế được tái tạo trong
tác phẩm báo chí mang đặc điểm gì? Các sàn phẩm báo chí mang lại kết quả gì?
Một câu hỏi trung tâm trong mối liên hệ với hiệu quả của báo chí là ảnh hưởng
của báo chí đối với
suy nghĩ, quan điểm và hành vi của công chúng và tác động ngược trở lạỉ đốỉ với sự
xuất hiện của bài báo như thế nào?
Vòng tròn trong cùng nói về cá nhân nguời
làm báo. Rốt
cuộc, trong
việc tái tạo hiện thực, người làm báo bị bao bọc trong các mối quan hệ với
nguyên tắc, cơ
cấu và trách nhiệm, mỗi thứ ấn định hành vi của họ là một cấp độ nào đó. Hành vi của người làm báo luôn
luôn giao động trong khuôn khổ nhất định của những điều kiện truyền thông hiện đại.
Khuôn khổ đó dựa
trên
những điều kiện
lịch sử luôn luôn
đổi mới. Đẻ tài và chù đề trong công việc của người làm báo là các kiểu vai trò lập thể (stereo) và các khuôn mẫu liên
quan, những đặc điểm của chúng và các quan điểm, thái độ, và cuối cùng là việc chuyên môn hoá và xã hội
hoá của những người làm báo.
Những yếu tố
xác định hành vi của nghề báo có thể tách ra để phân tích một cách có hệ thống và để chỉ ra cho các cơ quan đào tạo người
làm báo thấy được rằng cần trang bị cho học viên những loại kiến thức gì. Công
việc này đặt ra cho báo chí học một loạt vấn đề. Trước hết phải xác định được
những môn học cơ bản và những môn học bổ trợ mà tính hệ thống đặt ra. Bởi vì
cùng với những quy tắc, cơ cấu, vai trò và nhiệm vụ của báo chí là những lĩnh
vực khoa học khác được vận dụng trong hoạt động thực hành báo chí. Ví dụ như
khi giải quyết những công việc mang tính quy phạm, nhà báo phải sử dụng đến
những kiến thức pháp luật, lịch sử và triết học, đối với những vấn đề thuộc cơ
cấu là kinh tế học,
khoa học truyền thông, xã hội học và cả tin học nữa; đối với phạm trù chức năng là xã hội
học trong một phạm vi đặc biệt, khoa học truyền thông và tâm lý học xã hội; đối
với vai trò, vị
trí là xã hội học và khoa học truyền thông. Chúng ta hiểu bộ môn hỗ trợ như
những phần tri thức trung gian, có nghĩa là luôn luôn có sự bổ sung và rơi rụng
do những giới hạn về năng lực và thẩm quyển của các nhà nghiên cứu riêng rẽ.
Thực tiễn
ngành Báo chí học cũng có giới hạn. Có thể nói tới sự khác biệt giữa hệ thống khoa học và hệ thống ứng dụng. Vấn đề là
báo chí học tạo ra
sự kích thích cho báo chí thực tiễn. Nhưng thực tiễn báo chí lại chỉ có thể là một phần của báo
chí học trong tư cách là lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu khi về cơ bản nó có thể nắm bắt (nhận thức) và giới thiệu được.
Cho nên ở đây có thể nói là đang tổn tại một thực tiễn của thực tiễn: thành phần nhạy cảm của hành vi báo chí trong các cơ quan thông tin đại chúng được giới thiệu qua việc
xã hội hoá. Trong khuôn khổ của báo chí học, nó có thể là đốì tượng của những phân
tích khoa học, nhưng rất
hạn chế./.
|
Nguyenbuikhiem@gmail.com
|
Bài này tự nghiên cứu hay của tác giả nào vậy anh?
Trả lờiXóaBài này tôi nhặt nhạnh được trên Internet, gom về đây làm tài liệu chung cho mọi người thôi. Muốn trích dẫn cũng ok, nhưng phải dẫn nguồn chính thức.
Trả lờiXóa