Khiemnguyen

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Tản Đà và sự hình thành loại hình ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời



“Đọc Tản Đà, ta thấy ông hiện lên mồn một trước hết không chỉ là một nhà thơ mà ông còn là hay chính là một nhà báo đầy bản lĩnh và tâm huyết, một nhà văn xuôi sắc sảo, một cây bút viễn tưởng tài hoa, một nhà biên khảo tận tụy và thận trọng” [51, 26, tập 1]
Nhận định trên của nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã tổng kết Tản Đà với
rất nhiều tư cách khác nhau: nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà biên khảo…Tuy nhiên, xưa nay, người ta vốn chỉ nhắc nhiều tới Tản Đà với vai trò của nhà thơ, nhà văn, đề cao ông là thi sỹ mở đầu cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Còn một Tản Đà - nhà báo thì có phần ít được nhắc tới hoặc chưa đánh giá
đúng mức vai trò của báo chí trong sự nghiệp của Tản Đà. Trên thực tế, có
nhìn nhận sự nghiệp sáng tác của Tản Đà một cách đầy đủ và thấu đáo mới
hiểu được những nỗ lực và tâm huyết của Tản Đà dành cho báo chí - cụ thể và
điển hình nhất là An Nam tạp chí - nơi ông gửi gắm tâm huyết của cả cuộc đời
mình
. Không ngẫu nhiên mà An Nam tạp chí đình bản rồi lại tải bản tới 6 lần
và mỗi lần tái bản, ông lại có một bài cảm tác, thể hiện niềm tin và hi vọng
vào sứ mệnh của tờ báo.
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Tản Đà là người đầu tiên đưa ra quan
niệm “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”, tức coi viết văn, làm báo như một
nghề (theo cái nghĩa là một công việc để người ta có thể làm và nhờ đó mà
tồn tại) - điều này chưa từng xảy ra ở xã hội Việt Nam trước đó
. Ông hăm hở
bước vào địa hạt báo chí với biết bao dự định cách tân, đổi mới. Nhiều bài
báo của ông có tính thời sự cao và mang đậm hơi thở của cuộc sống - hai đặc
điểm quan trọng và không thể thiếu của báo chí
. Đặt sự nghiệp làm báo của
Tản Đà trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mới nhận thấy hết những nỗ lực của
một nhà Nho trong việc dùng báo chí để tự khẳng định mình, hay nói cách khác là dùng việc viết văn, làm báo để xác lập vị trí của mình một cách đường
hoàng, đĩnh đạc. Với hành động đó, Tản Đà đã mạnh bạo và dũng cảm chứng
minh một cách hùng hồn rằng: văn chương không phải chỉ để ngâm ngợi cho
khuây hay “mua vui cũng được một vài trống canh” như trong quan niệm của
các nhà Nho xưa mà còn có thể là một “công cụ” để kiếm sống
. Người ta có
thể dựa vào nó để đường hoàng nhận những phần nhuận bút (từ những bài báo
hay những cuốn sách được xuất bản). Trước đây, các nhà Nho dù là những
quan lại hay thầy đồ, ẩn sĩ thì cũng thường chỉ tìm đến với văn chương như
một cách để giải khuây hay bày tỏ nỗi lòng, chứ ít ai coi đó là một cách để
kiếm sống
. Văn chương và cuộc sống vì thế, bỗng trở thành hai phạm trù
riêng biệt và khó lòng hòa hợp. Người ta coi văn chương là cái gì đó tách biệt
hẳn và vượt ra những bon chen của cuộc sống thường nhật, bởi thế, nó chỉ có
thể là những gì thuộc về đời sống tinh thần chứ không thể gắn với gánh nặng
áo cơm, với những lo toan vật chất bộn bề. Bởi thế, hành động “đem văn
chương đi bán phố phường” hay “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” mang
vẻ ngoài của một sự ngông nghênh, bất cần và dường như khác người ấy thực
chất đã chứa đựng trong nó mầm mống của một quan niệm hoàn toàn mới mẻ
so với truyền thống. Hay nói cách khác, chính là một sự phá rào, vượt ra khỏi
những quan niệm thông thường lúc bấy giờ để tạo tiền đề cho sự hình thành
một xu hướng tất yếu: viết văn, làm báo theo hướng chuyên nghiệp, cũng
đồng nghĩa với việc hình thành một đội ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp
.
Khái niệm “chuyên nghiệp” ở đây không phải chỉ là một sự thể hiện về trình
độ mà còn là cách thức, là tuân theo sự vận động của cơ chế thị trường với
những ngặt nghèo và quy luật cạnh tranh tất yếu. Lẽ dĩ nhiên, đã là sáng tác
để đi bán thì không thể không nói tới vai trò của người mua, ở đây chính là
đội ngũ độc giả đông đảo thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Từ đây hình thành
một mối liên hệ chặt chẽ giữa người sáng tác và người tiếp nhận, tức độc giả. Điều này trong sáng tác của các nhà Nho trước đó có lẽ ít được quan tâm tới

bởi người ta chỉ quan niệm văn chương như một cách để bày tỏ nỗi lòng
mình, đâu cần nghĩ đến người tiếp nhận nó sẽ như thế nào.
Trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản
Đà là một tác giả có vị trí đặc biệt. Trong bài Công của thi sỹ Tản Đà, Xuân
Diệu đã viết: “Tản Đà là người thi sỹ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện
đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sỹ, đã làm thi sỹ một
cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái Tôi”[9,166].
Và từ xưa đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tản Đà như một dấu nối
giữa hai hệ hình văn học, giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại.
Nhưng độc đáo hơn hết, vẫn là một Tản Đà với những quan niệm và phong
cách sáng tác đặc biệt, mới mẻ: “Đem văn chương đi bán phố phường” hay
“Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”. Những tuyên ngôn dường như “gây
sốc” trong giới sáng tác thời bấy giờ không đơn thuần chỉ là biểu hiện của cái
Tôi ngông, sự đề cao vai trò của bản ngã cá nhân, mà chính là sự báo hiệu sự
xuất hiện một xu hướng mới, một loại hình tác giả mới với những quan niệm
sáng tác mới - loại hình ký giả, văn nhân chuyên nghiệp. Và đó cũng là xu thế
tất yếu trong quy luật vận động, phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam
giai đoạn giao thời
.
Là một người đảm lĩnh vai trò đặc biệt đó, Tản Đà, chắc hẳn có những
cách tân, phá rào, nhưng cũng có những giới hạn và hạn chế nhất định với vai
trò là “gạch nối văn chương” - người đặt ra những nền móng cơ bản với vai
trò là tiền đề, là bước đệm ban đầu cho quá trình hình thành và phát triển của
văn học Việt Nam hiện đại sau này.
Trong bối cảnh xã hội - lịch sử Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản Đà với những đóng góp và công lao to lớn trong vai trò người đi tiên phong, mở đường cho sự hình thành loại hình ký giả, văn nhân chuyên nghiệp. Vai trò mở đường ở đây, bao gồm cả những đổi mới, cách tân, và cả những giới hạn mang tính đặc định của lịch sử trong quá trình phát triển tất yếu của văn học, báo chí. Việc giải thích lý do vì sao Tản Đà thất bại với giấc mộng báo chí của mình chính là cách để làm nổi bật những đặc điểm của lịch sử, văn hóa, văn học và báo chí giai đoạn giao thời 30 năm đầu thế kỷ 20, đồng thời cũng để hiểu được tại sao Tản Đà có thể ghi dấu ấn đậm nét của mình trong giai đoạn lịch sử đầy hụt hẫng và biến động ấy.
Việc nhìn nhận Tản Đà với tư cách là ký giả - văn nhân là một vấn đề đã
được một số nhà nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận
xét mang tính đơn lẻ, nằm trong một hệ thống những nghiên cứu trên những
bình diện khác về cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà. Chưa có một công trình
riêng biệt nào dành riêng cho việc nghiên cứu Tản Đà với vai trò là nhà báo,
nhà văn chuyên nghiệp, mặc dù hầu hết đều công nhận ông là người tiên
phong, mở đường cho quan niệm “mang văn chương đi bán phố phường”. Vai
trò ký giả của Tản Đà vì thế chưa được đánh giá đúng với ý nghĩa là một phần
quan trọng trong quan niệm cũng như tư tưởng của Tản Đà. Nói đúng hơn đó
mới là giấc mơ mà ông theo đuổi để trở thành một “Á Châu Khổng phu tử chi
đồ” chứ không phải chỉ đơn thuần là việc sáng tác thơ văn. Khi Tản Đà tuyên
bố: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng chính
là lúc ông tuyên bố nhập cuộc với vai trò là một nhà báo chứ không phải một
nhà Nho làm thơ như lối đi quen thuộc trong truyền thống
. Đây là một lựa
chọn táo bạo nhưng có chủ định của nhà thơ núi Tản sông Đà về một cách lập công danh mới trong bối cảnh xã hội mà văn chương khoa cử truyền thống đã
nhạt màu.
Người đầu tiên “phát hiện” và đánh giá cao vai trò nhà báo của Tản Đà
chính là Phan Khôi, một trong những nhà báo lớn lúc bấy giờ. Điều này càng
khẳng định vị thế và ảnh hưởng rất lớn của Tản Đà với tư cách nhà báo. Phan
Khôi cũng như một thế hệ độc giả thời bấy giờ không khỏi ngạc nhiên và trầm
trồ trước lối viết sáng tạo kiểu như “Cái chứa trong bụng thằng người” của
Tản Đà trên Đông Dương tạp chí. Ông ngạc nhiên đến mức phải thốt lên: “Anh Quỳnh anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến
thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo
” [62, 43].
Tài viết báo của Nguyễn Khắc Hiếu khiến Phan Khôi “như muốn
nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa”. Phan Khôi còn khâm
phục tài làm báo của Tản Đà ở chỗ, nhiều bài báo ông viết cho Hữu Thanh bị
kiểm duyệt, không được đăng. Còn Tản Đà thì khéo léo hơn nên đều đã “trót
lọt”… Điều này cho thấy một chân dung nhà báo Tản Đà lúc ấy, tuy mới xuất
hiện, nhưng đã có tiếng tăm lẫy lừng và được đông đảo độc giả đón nhận.
Tiếp nối Phan Khôi, ngoài việc đề cao tài thơ Tản Đà, Trương Tửu trong
bài “Sự thai nghén một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu” cũng cho rằng,
với hoài bão hành đạo, Tản Đà đã bước ra làm báo. Nhưng rồi lần lượt với
Hữu Thanh, An Nam tạp chí… ông đều đã thất bại. Nguyên nhân của sự thất
bại ấy, theo Trương Tửu, không phải do Tản Đà “không quen với nghiệp
doanh thương” mà bởi một căn nguyên sâu xa hơn: Tinh thần lập đức và tính
chất hành đạo của Tản Đà. Cả hai điều đó đều bắt nguồn trong di truyền và
trong cái giáo dục Nho phong mà Tản Đà đã thụ hưởng từ thủa lọt lòng
. Đây
là một nhận định rất thấu đáo và nêu được đúng bản chất nhà Nho trong con
người nhà báo Tản Đà - nó chính là lời giải cho lý do vì sao Tản Đà, từ chỗ xông xáo, hăng hái đến chỗ phải vật lộn rồi mỏi mệt với báo chí, cuối cùng
phải chấp nhận thất bại trong cay đắng.
Nguyễn Danh Kế trong lời giới thiệu Tản Đà vận văn của nhà xuất bản
Hương Sơn (tháng 11/1944) cũng hết lời ca ngợi ngòi bút của nhà báo Tản
Đà. Ông cho rằng, những bài viết của Tản Đà ở Hữu Thanh tạp chí và An
Nam tạp chí là những bài nghị luận về các vấn đề hiện đại và những vấn đề
đạo đức, luân lý, dịch thuật những văn hay lẽ phải ở các sách Nho rất có ích
cho nhân tâm thế đạo
. Nguyễn Danh Kế nhấn mạnh: “Vì số đông người xem
quốc văn chỉ là xem để giải trí, cho nên những món ấy chưa dễ đã dám sưu
tập lại xuất bản ra. Nhưng ta phải biết ảnh hưởng của tiên sinh ở đương thời
trong phong hóa nước nhà thật là to lớn sâu xa lắm”.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều nghiên cứu cũng tiếp tục nhìn nhận và
đánh giá nhiều bình diện khác nhau ở chân dung nhà báo Tản Đà. Nghiên cứu
được xem là đầy đủ nhất về cuộc đời làm báo của Tản Đà lúc này chính là
Tập 3 trong cuốn Tản Đà toàn tập của người hậu duệ của ông - nhà nghiên
cứu Nguyễn Khắc Xương. Tuy nhiên, ngoài những nhận định khái quát ban
đầu về việc khẳng định Tản Đà với vai trò chủ báo và ký giả, cuốn sách cũng
chỉ là một tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của Tản Đà được đăng trên An Nam
tạp chí, Đông Pháp thời báo cùng những bài viết lẻ trên một số báo khác.
Trong nhiều nghiên cứu của mình, GS Trần Đình Hượu cũng khẳng định
và đề cao vai trò của Tản Đà là một nhà Nho đem văn chương bán phố
phường. Ông khẳng định, viết báo, viết văn với ý nghĩa làm một nghề nghiệp
trong xã hội là chuyện mới có đầu thế kỷ 20 ở nước ta. Trước đây trong xã
hội phong kiến, có nhiều nhà Nho suốt đời làm phú, làm thơ, có nhiều nghệ sỹ
chuyên biểu diễn nghệ thuật; triều đình có chức quan chuyên viết văn, nhưng
văn nghệ chưa tách khỏi văn thành một ngành nghệ thuật. Viết văn chưa
thành một nghề nghiệp. “Vào những năm 10 của thế kỷ này, một số người tập hợp quanh Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí viết báo, viết văn. Xã hội
coi họ làm nghề người ký giả, văn sỹ. Trong đám ký giả, văn sỹ lúc đó, có
người là cựu học, có người là tân học, thái độ chính trị, quan niệm mục đích
nghề nghiệp có khác nhau, nhưng họ đều là nhà văn, nhà báo, khác hẳn với
nhà Nho làm thơ, làm phú trước đây. Tản Đà thuộc thế hệ nhà văn, nhà báo
đầu tiên đó
” [16, 429]. Tản Đà từ một Nhà Nho mà trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp. Khi ấy, con đường đi của ông chưa phải là bình thường.
Chính cái không bình thường ấy là điều cần được đề cao và làm nên vị thế của
Tản Đà trong lịch sử văn học, báo chí lúc bấy giờ.
Tiếp nối vị ân sư của mình, PGS.TS Trần Ngọc Vương trong nhiều
nghiên cứu đã khẳng định có một sự thống nhất giữa những mâu thuẫn phức
tạp trong con người nhà văn, nhà báo Tản Đà. Từ khi Tản Đà cho in những
tác phẩm đầu tiên trên Đông Dương tạp chí (1915), văn đàn Việt Nam như rộ
lên một luồng sinh khí mới. Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, Tản Đà từ lúc
vừa xuất hiện đã gặp ngay một “nền kinh tế thị trường” trong văn chương.
“Cơn gió lạ” trên văn đàn thổi suốt trong Nam ngoài Bắc, làm dấy lên một
luồng không khí thưởng thức Tản Đà ở nhiều tầng lớp. Nhờ điều kiện giao
lưu và truyền bá văn học mới, Tản Đà là người đầu tiên trong lịch sử văn học
tìm được một lượng độc giả khổng lồ trong một thời gian kỷ lục. “Điều kiện
mới” mà PGS.TS Trần Ngọc Vương nhắc tới, chính là sự xâm nhập của báo
chí phương Tây vào Việt Nam trong giai đoạn giao thời lúc bấy giờ.
Những nghiên cứu, đánh giá trên đã khắc họa chân dung nhà báo Tản Đà
rất sinh động trên nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là
chưa có một công trình nào hệ thống hóa một cách chi tiết và rõ ràng những
chặng đường báo chí gian nan và đầy phức cảm ấy của Tản Đà
. Chính điều đó
đã gợi mở cho chúng tôi tiến hành luận văn này với những hướng nghiên cứu sâu hơn về chân dung nhà báo Tản Đà với những khắc họa đầy đủ và đậm nét
hơn.
Sáng tác của Tản Đà phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều thể loại, trên cả
địa hạt văn chương và báo chí. Các thể loại đều có những đóng góp riêng
trong vai trò khẳng định vai trò tiên phong, mở đường của Tản Đà giai đoạn
giao thời. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, chỉ xin bước đầu có những
nghiên cứu, đánh giá khái quát trên cơ sở những sáng tác quan trọng của nhà
thơ trên một số báo như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, An Nam
tạp chí và những nhận định cơ bản của các nhà nghiên cứu về Tản Đà.
Với cách tiếp cận khoa học, chúng tôi cố gắng đem đến những lý giải đầy
đủ và có sức thuyết phục, sâu sắc trong việc nhìn nhận hiện tượng Tản Đà
trong tính thống nhất giữa những mâu thuẫn, phức tạp trong nội tại của nó,
nhằm làm nổi bật quá trình phát triển có tính bước ngoặt của văn học và báo
chí giai đoạn giao thời.
Đặc biệt, đề cập đến Tản Đà với phương thức hành xử mới trước thời
cuộc - dấn thân vào địa hạt báo chí với giấc mơ xác lập công danh bằng con đường mới, về cách thức ứng xử của một cá nhân khi gia nhập một xã hội dân sự trong một giai đoạn xã hội phức tạp và nhiều biến động.
“Giấc mộng báo chí” của Tản Đà
Cùng với những “Giấc mộng con”, “Giấc mộng lớn”, Tản Đà còn có một
giấc mộng khác, rất hiện thực chứ không phải chỉ là mây gió, trăng hoa hay
những giai nhân, người đẹp nơi bồng lai tiên cảnh. Đó chính là giấc mộng báo
chí. Giấc mộng ấy chiếm hầu hết sự nghiệp sáng tác của Tản Đà và là cách để
ông mong muốn khẳng định, xác lập được vị trí xã hội mới của mình trong
bối cảnh văn chương khoa cử truyền thống đã nhạt nhòa, không còn nhiều sức
cuốn hút như trước. Việc Tản Đà dốc hết tâm sức vào báo chí cho thấy khát
vọng rất lớn cũng như ý thức khá rõ ràng của ông về vai trò, sức mạnh của
báo chí trong bối cảnh xã hội mới. Để làm sáng tỏ nhận định này, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát sự nghiệp báo chí của Tản Đà theo trục thời gian và những
biến cố lớn trong cuộc đời, nhằm làm nổi bật và hiểu rõ hơn những phức cảm
đa chiều trong tư tưởng cũng như sáng tác của Tản Đà.
Con đường làm báo của Tản Đà
Cuộc đời làm báo của Tản Đà là một hành trình có nhiều biến động, đứt
gãy. Việc tái hiện toàn bộ quá trình này sẽ cho thấy những diễn biến phức tạp
và đa chiều trong quan niệm, tư tưởng của nhà báo Tản Đà cũng như những
biến thiên mang tính tất yếu của lịch sử văn học, báo chí phương Tây trong
buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam.
Có thể khái quát chặng đường làm báo của Tản Đà theo 3 giai đoạn:
- Khởi sự (từ năm 1913-1915)
Đây là thời kỳ ngọn lửa đam mê báo chí trong ông bắt đầu hình thành và
nhen nhóm. Tản Đà có những sáng tác đầu tiên được đăng báo và nó là khởi
đầu cho những thành công và cả những thất bại của ông sau này.
Năm 1913, Tản Đà bắt đầu “bén duyên” với báo giới. Ông được Nguyễn
Văn Vĩnh - một tri thức Tây học, cũng là cái tên có tiếng trong làng báo bấy giờ mời làm cộng sự trên Đông Dương tạp chí. Những sáng tác của ông được
in thành một mục riêng Một lối văn nôm, sau đổi thành mục Tản Đà văn tập.
Những bài báo của “ký giả” Tản Đà ngay lập tức chiếm được cảm tình của
độc giả, tên tuổi của ông nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn.
Năm 1915, Tản Đà lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một người tri
huyện ở Hà Đông. Những tác phẩm của ông trên Đông Dương tạp chí vẫn
tiếp tục là một “hiện tượng” và Tản Đà nhanh chóng có một lượng lớn độc giả
hâm mộ.
Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông
Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên
nghiệp.
Cần nói thêm rằng quyết định này xuất phát từ một sự kiện trong cuộc
đời ông, đó là năm 1916, anh cả Nguyễn Tái Tích mất. Tản Đà mất đi chỗ dựa
cả về vật chất và tinh thần, trong khi ông lại gánh trên vai trách nhiệm gia
đình với vợ con. Tản Đà khi ấy bắt đầu phải tự ý thức rằng mình cần phải
kiếm sống. Và tất nhiên, như một điều không thể khác, cái “cần câu cơm
cơm” của Tản Đà chính là ngòi bút. Tản Đà đến với báo chí trong hoàn cảnh
đó và nó như một con đường đã được vạch sẵn. Tản Đà dường như không có
sự lựa chọn nào khác. Ông đã dấn thân vào nó với một khát vọng, niềm đam
mê vô tận của một người cầm bút.
Ngược dòng thời gian một chút, Tản Đà hỏng khoa thi năm 1912, khi ấy
ông mới 23 tuổi. Đó là cái tuổi còn rất trẻ để tiếp tục sự nghiệp thi thố, học
hành để lập thân, thành danh bằng con đường khoa cử. Nhưng lúc bấy giờ,
khoa cử truyền thống cũng đã trở nên bèo bọt. Dư âm của cái cũ vẫn còn
nhưng sức hấp dẫn của cái mới, của những luồng tư tưởng, văn hóa mới thâm
nhập từ phương Tây cũng rất mạnh nên Tản Đà mới bộc lộ một thái độ ỡm ờ
với lối nói úp úp mở mở rất… Tản Đà:
“Rủ nhau quang gánh với đời
Mà cho thiên hạ chê cười cũng hay”.
“Chê cười” là vì chắc chắn có người dèm pha cách ông đi trái với con
đường cũ. Nhưng cũng có người hưởng ứng, nên mới có chuyện “rủ nhau”, và
nó hẳn là một thứ có ý nghĩa tích cực và có danh giá nên mới nói là “quang
gánh với đời”, nên “chê cười” mà… vẫn hay.
Hay cách nói ngông nghênh:
“Còn trời, còn đất, còn non nước
Còn có văn chương bán phố phường”
Cũng biểu hiện một thái độ muốn thi thố, muốn thể hiện tài năng của
mình ở một lĩnh vực mới và rõ ràng ông ý thức rất rõ được tài năng của mình
nên mới dùng những mệnh đề so sánh rất lớn lao như: Còn trời/Còn đất/Còn
non nước để đối với “Còn có văn chương bán phố phường”. Thế mới thấy văn
chương trong cách nghĩ của Tản Đà không hề bèo bọt mà rất có giá và có một
sức sống, sức mạnh nhất định, ngay cả khi vật đổi sao đời, đặt trong bối cảnh
lúc bấy giờ là những biến thiên của bối cảnh xã hội nhiều biến động.
Giấc mộng báo chí của Tản Đà rõ ràng không phải chỉ là ước mong có
một chiếc cần câu cơm. Hơn thế, nó là mộng ước được khẳng định mình bằng
một thái độ tự tin và tự hào về tài năng của bản thân. Đó là lý do vì sao sau
này, ông khước từ lời mời cộng tác của Nguyễn Văn Vĩnh cho tờ Trung Bắc
Tân văn - hành động mà nhiều người cho là gàn, dở, nhưng thực chất là họ
chưa có đủ “trình độ” để hiểu ông. Nguyễn Văn Vĩnh yêu cầu Tản Đà viết
mỗi tháng 4 bài xã thuyết, 4 bài thơ. Tiền nhuận bút mỗi bài xã thuyết là mười
lăm đồng, mỗi bài thơ là mười đồng. Số tiền ấy với cảnh túng quẫn của Tản
Đà không hề nhỏ. Nhưng ông đã dứt khoát từ chối cơ hội đầy hấp dẫn ấy. Lý
do là bởi ông muốn “tự mình chủ trương một cơ quan ngôn luận”: “Cơ quan
ngôn luận đó sẽ hoàn toàn thực hành những quan niệm về văn chương, sẽ  trình bày những lý tưởng của mình noi theo với quốc dân, chứ nếu mình viết
giúp cho một cơ quan khác, thời mình chỉ là phụ thuộc vào cơ quan đó, lẽ tất
nhiên những tư tưởng, quan niệm riêng về xã hội, văn chương, sẽ không thể
làm theo như ý muốn của mình được. Vả lại ông Nguyễn Văn Vĩnh, lúc đó là
một nhà văn ra đời trước, đã có tiếng, nếu tôi viết cho tờ báo ông thời dư
luận của độc giả bên ngoài không khỏi cho tôi là đi theo để ăn cánh với ông.
Đó là một điều mà tôi kỵ nhất
”. [29,17].
- Thời kỳ vinh hiển (1916-1926)
Từ năm 1916 đến năm 1926 là những năm tháng rực rỡ và thành công
nhất của Tản Đà. Ông lao vào sáng tác, viết văn, làm báo. Năm 1915, cuốn
sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ
Khối tình con I.
Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con (cho in năm 1917)
và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần
đầu năm 1916 tại Hải Phòng).
Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản
Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn
Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng
những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau
bài phê phán tư tưởng của “Giấc mộng con”, Tản Đà thôi cộng tác với Nam
Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán
đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm. Việc Tản Đà thôi cộng tác với
Nam Phong tạp chí thể hiện rất rõ quan điểm, lập trường báo chí riêng của
ông. Tản Đà không cậy cục, không nhún nhường ai và muốn làm báo theo
cách riêng của mình. Đó không phải chỉ là nơi để ông có thể múa bút sáng tác,
thể hiện tài năng của mình mà còn là cách để ông đánh dấu, khẳng định chỗ
đứng của mình trong xã hội. Tản Đà không có quan niệm “lập thân” phải “lụy thế”, một quan niệm của thời hiện đại nhưng không phải không tồn tại ngay từ
buổi giao thời tranh tối tranh sáng với sự lập lờ giữa hai thế lực cũ và mới.
Bởi vậy, việc Phạm Quỳnh phê phán Tản Đà nghiễm nhiên là một lý do chính
đáng để Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và tìm một chỗ đứng
cho riêng mình.
Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có “Thần tiền”,
“Đàn bà Tàu” (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có “Đài gương”, “Lên sáu”
(1919), “Lên tám” (1920), thơ thì có tập “Còn chơi” (1921). Thời kỳ này ông
quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc,
Trung kỳ và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí. Đây là cơ quan ngôn luận của
“Bắc kỳ công nông thương tương tế”. Nhưng Tản Đà chỉ làm chủ bút được 6
tháng rồi từ chức vì bất đồng ý kiến với nhóm sáng lập về tôn chỉ, mục đích
của tờ báo.
Báo chí đến thời của Tản Đà nở rộ với nhiều xu hướng, quan điểm và
cách thức tồn tại riêng. Có thể chia những người làm báo thời này làm ba
dạng. Một là những người chủ trương dùng báo chí để làm cách mạng như
Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng. Hai là những người làm báo dưới sự
quản lý, điều hành của thực dân Pháp, thực chất là ôm chân chính quyền, xu
nịnh để được lợi. Ba là những người làm báo kiểu Tản Đà. Tức là những
người không thành danh trên con đường học hành, khoa cử nhưng lại ý thức
rất rõ về tài năng của mình và coi nó như một con đường để lập công danh,
ghi dấu tên tuổi của mình bằng sự nghiệp báo chí
.
Tương ứng với 3 loại người làm báo đó là 3 loại hình báo chí: Báo chí tư nhân, báo chí chính thống của chính quyền thực dân Pháp và báo chí của các hội, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội mà “Bắc kỳ công nông thương tương tế” và Hữu Thanh tạp chí như vừa kể trên là một ví dụ. Nhưng rõ ràng, Tản Đà chỉ có thể làm ở một tờ báo phi chính trị hóa, tức là không chịu ảnh hưởng, tác động của những quan điểm chính trị - xã hội nào.
Mặt khác, Tản Đà, một mặt nhận thấy rõ những ưu
điểm, những thành tựu của xã hội Âu Mỹ nhưng ông không chủ trương hợp
tác với Pháp, không dùng báo chí để xu nịnh, ve vuốt theo những toan tính
của chính quyền thực dân. Tính cách Tản Đà cũng như con đường báo chí mà
ông lựa chọn là hoàn toàn khác với những tờ báo đương thời, bởi vậy những
bất đồng quan điểm của Tản Đà với Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh tạp chí
như trên là điều hoàn toàn dễ hiểu. Và do đó, sự ra đời của An Nam tạp chí
sau này cũng chính là cách để Tản Đà chứng tỏ và khẳng định rõ ràng hơn
quan điểm, cách thức làm báo mà ông lựa chọn cho riêng mình trong thời
điểm nhiều biến động xã hội lúc bấy giờ.
Năm 1922, Tản Đà thành lập “Tản Đà thư điếm” (sau đổi thành “Tản Đà
thư cục”), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây, đã xuất và tái
bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; “Tản Đà tùng
văn” (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện “Thề Non Nước”, 1922);
“Truyện thế gian” tập I và II (1922), “Trần ai tri kỷ” (1924), “Quốc sử huấn
nông (1924), và tập “Thơ Tản Đà” (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất
bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tự Thuật. Những thư điếm, thư cục, ấn
quán… thời kỳ này cũng nở rộ và là nơi khai sinh ra nhiều tác phẩm văn học
nghệ thuật có giá trị. Sự ra đời của nhà xuất bản cũng như báo chí ở giai đoạn
này, đóng vai trò là bà đỡ cho hầu hết các tác phẩm văn học và có vai trò quan
trọng trong quá trình hiện đại hóa văn học buổi giao thời.
Sự chia tay với Hữu Thanh tạp chí đã khiến Tản Đà nghĩ đến việc phải
thành lập một tờ báo của riêng mình. Đó sẽ là nơi ông thể hiện được lý tưởng,
chí nguyện của mình với sự nghiệp làm báo. Tháng 7/1926, Tản Đà cho ra đời
An Nam tạp chí số đầu tiên, tòa soạn ở phố Hàng Lọng.
- Từ khi “An Nam tạp chí” ra đời đến năm Tản Đà mất (1939)
Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã
bắt đầu quãng đời lận đận của ông. Đây là tờ báo gắn với sự nghiệp của Tản
Đà, đồng thời chiếm nhiều trang, nhiều bài viết nhất trong sự nghiệp báo chí
của nhà thơ. Trong điều kiện mới, An Nam tạp chí chính là phương tiện để
Tản Đà thực hiện lý tưởng lớn lao của mình với đất nước, điều mà ông đã
không thể làm được khi không thành danh bằng khoa cử. Bởi vậy mà năm
1927, khi lãnh tụ Nguyễn Thái Học của Việt Nam quốc dân Đảng đến bàn với
ông về việc dùng An Nam tạp chí như một cơ quan ngôn luận để đấu tranh và
tuyên truyền, ông đã vui vẻ chấp nhận không điều kiện. Nhưng rồi, bản giao
kèo mà Nguyễn Thái Học đưa ra đã vô tình chạm vào lòng tự ái của Tản Đà,
nên việc lớn đã không thành. Nhiều người tỏ ra tiếc nuối về điều này, nhưng
thực chất, đó là điều không thể tránh khỏi khi tính tình và phong cách của Tản
Đà và Nguyễn Thái Học là hoàn toàn khác nhau: một bên làm việc tùy hứng,
một bên theo đường lối chủ trương.
Ngoài An Nam tạp chí, Tản Đà còn cộng tác với nhiều báo khác như:
Đông Pháp thời báo, Sống, Văn học tạp chí, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thanh Nghệ
Tĩnh, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm…
Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu đi sâu vào mối quan hệ giữa Tản Đà và An Nam tạp chí.
Nhìn lại toàn bộ hành trình làm báo của Tản Đà, có thể thấy ông vẫn
mang nặng phong cách của một nhà Nho làm báo. Chính điều này đã tạo nên
một Tản Đà - ký giả không giống ai và con đường làm báo của ông cũng lênh
đênh, lận đận với không ít những ba đào
. Với vai trò một ký giả, ông mang
trong mình nhiều hoài bão to lớn về việc dùng báo chí để gánh vác những sứ
mệnh to lớn của quốc dân. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, báo chí giống
như một cứu cánh, một luồng gió mới mát lành để Tản Đà có thể thỏa sức vẫy
vùng và bày tỏ những quan niệm cá nhân, những thái độ xã hội của mình,
điều mà trước đây các nhà Nho vẫn thường phải giấu vào trong hoặc ẩn ý trong những câu thơ, những hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng. Với báo
chí, Tản Đà giống như một con người được nói và phải nói hết những cá tính,
những tâm sự thời cuộc trước những điều mắt thấy tai nghe. Đó là một lợi thế
của báo chí so với các loại hình văn chương trước đây. Tản Đà ý thức rõ được
điều đó và muốn sử dụng sức mạnh của báo chí như một “cơ quan tiến thủ
của quốc dân” - cách ông vẫn thường nói về báo chí trong hầu hết những bài
viết của mình
.
Tuy nhiên, con đường làm báo với Tản Đà cũng chính là hành trình trải
nghiệm với chính bản thân ông. Những vấp ngã, những hạn chế mang tính đặc
định của lịch sử và của chính bản thân ông, thực ra, là không thể tránh khỏi.
Dễ hiểu tại sao từ một ký giả với những háo hức, mê say thủa ban đầu dần
dần thay vào đó là những trầm lắng, suy tư và những khoảng lặng mang tính
trải nghiệm về nghề báo, về cuộc đời. Tuy nhiên, ngọn lửa nhiệt huyết của
ông với báo chí, cho đến tận cuối đời, vẫn chưa bao giờ tắt. Một tờ báo ra đời
rồi lại liên tiếp đình bản đến 6 lần trong vòng 8 năm đủ thấy những khó khăn
và cả những nỗ lực lớn lao của Tản Đà trong việc gây dựng một tờ báo với
những quan niệm của riêng mình, do mình làm chủ và đi theo những đường
hướng, tiêu chí của riêng mình. Tuy nhiên, có một điều cần nhấn mạnh rằng,
ở bất kỳ thời nào, mục đích cũng như tiêu chí hoạt động của một tờ báo cũng
chịu những ảnh hưởng, những tác động nhất định của xã hội và phản ảnh
những quan niệm xã hội nhất định của thời ấy
. An Nam tạp chí của Tản Đà
cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Bởi thế, Tản Đà không thể lái con thuyền
báo chí của mình đi ngược dòng. Ông như một người độc hành với con
thuyền độc mộc mải miết ngụp lặn giữa biển khơi mênh mông, mong tìm
được một ngọn hải đăng để dẫn dắt mình đi đến một bến bờ. Người thuyền
trưởng ấy, cuối cùng, đã không thể đi đến tận cùng con đường của mình. Ông
đã bị mắc cạn, không chỉ một mà rất nhiều lần, và cuối cùng đành phải ôm mộng bỏ dở giữa chừng. Nhưng ông vẫn là người có một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc khai phá, mở mang một con đường mới, một cách đi mới.
Những trải nghiệm báo chí của ông với nhiều thác ghềnh, giông bão đã cho
những người cùng thời với ông và những người đi sau bài học cần thiết để
trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cho nghề báo. Sự thất bại của Tản
Đà là một thất bại đau xót của cả một cuộc đời đắm mình trong nghề nhưng
đến cuối đời vẫn không thể hiểu vì sao mình lại thất bại. Nhưng nó chính là
tấm gương phản chiếu của thời đại, của lịch sử để người làm báo thời sau có
thể soi vào và nhận ra đâu là con đường đúng đắn nhất.
Báo chí mang đến cho Tản Đà nhiều thứ nhưng cũng lấy đi của ông nhiều
điều. Tuy nhiên, so sánh được - mất ở đây thực chất chỉ có ý nghĩa là những
đánh giá cảm quan. Bởi với một người đã nặng gánh văn chương, “Chữ nghĩa
Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” thì những đong
đếm ấy không nằm trong suy nghĩ của ông. Mới nghe, cứ ngỡ Tản Đà khiêm
nhường, hạ thấp mình. Nhưng thực tình, đó là cách nói ngạo nghễ rất Tản
Đà. Cách nói “Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang” cũng là cách ông tự phụ,
hơn người bởi vốn chữ nghĩa, hiểu biết và năng lực của mình. Ông ý thức rất
rõ về điều đó và bởi vậy, “Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” cũng là cái
mộng lớn của ông về con đường mới mà ông tự hào là người tiên phong - nên
mới có chữ dùng là “phá nghiệp”. Bản thân chữ “nghiệp” đã cho thấy giấc
mộng của ông không hề nhỏ và “xoàng” như ông đã nói. Điều ông thực sự
trăn trở, quan tâm và ngày đêm suy tư là làm sao gây dựng được một tờ báo
theo những đường hướng, tôn chỉ, mục đích của riêng mình.
Cuộc đời làm báo của Tản Đà được tái hiện khá đầy đủ qua câu chuyện
của những người đương thời với ông, cũng là những bạn văn hoặc những văn
sỹ- ký giả trưởng thành từ sự dẫn dắt và ảnh hưởng của Tản Đà. Đó là những
ghi chép, những hồi ký lượm lặt nhưng lại cho thấy bức tranh khá chân thực về hành trình làm báo đầy vất vả, long đong của ký giả Tản Đà khi ông chủ
trương xây dựng một cơ quan ngôn luận riêng của mình - An Nam tạp chí
trong buổi đầu báo chí vào Việt Nam.
Việc Tản Đà quyết định “bỏ bút lông cầm bút sắt” và trở thành một ký
giả lúc bấy giờ là một hiện tượng lạ, một sự va đập mạnh với lối đi truyền
thống, trong khi chính ông cũng là một con nòi của nền cựu học. Bởi vậy,
không mấy ngạc nhiên khi “hiện tượng Tản Đà” trở thành tâm điểm chú ý lúc
bấy giờ với những việc làm “không giống ai”. Có thể thấy điều đó qua lời kể
của Lưu Trọng Lư trong hồi ký “Bây giờ đây, khi nắp quan tài đã đậy lại”:
“Năm 1932, tôi ra Hà Nội học. Một hôm đi qua phố Hàng Da, tôi thấy có
bảng treo mấy chữ: An Nam tạp chí. Tôi thường được nghe người ta nói đến
cái ông chủ nhiệm dị thường của tờ tạp chí khác đời ấy”. Lúc bấy giờ, Tản
Đà được Lưu Trọng Lư coi như “một vị sứ giời sai xuống, hay là bị đày
xuống cõi trần gian để làm một anh nhà nho ngông, một nhà thi sĩ nghèo, một
ông chủ báo phiêu bạt, làm cái ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, mà khắp trần
gian đều khét tiếng” [62, 35]. Chỉ qua mấy dòng ngắn ngủi ấy thôi cũng thấy
tiếng tăm của Tản Đà khi ấy lừng lẫy như cồn. Nhưng ông chủ báo Nguyễn
Khắc Hiếu cũng nổi tiếng với lắm sự lôi thôi, rắc rối với cung cách làm báo
ngật ngưỡng, chẳng giống ai. Vậy nên mới có chuyện chàng thi sĩ Lưu Trọng
Lư đợi để “yết kiến” ông chủ báo mà 8 giờ sáng thì ông đang ngủ. Mười giờ
trở lại, thi sĩ núi Tản sông Đà vẫn chưa dậy. Mười một giờ, ông vẫn còn giấc.
Hai rưỡi chiều, Tản Đà mới dậy và ngồi vào chiếu rượu. Bốn giờ chiều, ông
mới hạ đũa. Cả ngày chuếnh choáng với hơi rượu, đến đêm ông mới chong
đèn viết báo. Nhưng cũng có khi, vì rượu mà An Nam tạp chí cũng chẳng có
bài để in. Cái cung cách làm báo tùy tiện, tùy hứng ấy chịu ảnh hưởng thâm
căn cố đế từ chính cốt lõi nhà Nho trong con người ông. Và nó hoàn toàn trái
ngược với phong cách làm báo từ nơi khởi nguyên của báo chí là phương Tây
. Mặt khác, buổi đầu của báo chí phương Tây chính là tin tức. Và bản chất của
báo chí cũng chính là tin tức. Nhưng khi vào nước ta, gặp một đội ngũ những
nhà Nho chuyên làm văn như Tản Đà, nó được tiếp nhận theo một lối khác
nên tính tin tức đã giảm đi và tính văn học đã được tăng lên, hình thành một
đội ngũ những người làm báo văn nghệ. Đó chính là đặc điểm nổi bật của báo
chí trong buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20
.
Quãng đời làm báo lận đận của Tản Đà còn được kể lại qua hồi ký “Tản
Đà ở Nam Kỳ” của Ngô Tất Tố
. Với nỗi đau vì sự thất bại của An Nam tạp
chí ở phố Hàng Lọng, Hà Nội, Tản Đà khăn gói vào Nam để ôm mộng gây
dựng An Nam tạp chí ở trong Nam, những mong môi trường mới có phần dân
chủ và rộng mở hơn nơi đây có thể giúp ông thực hiện được mộng ước của
mình. Nhưng Tản Đà đã lầm. Ty kiểm duyệt trong ấy đã không nhận kiểm
duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư trong
đó. Vậy là Tản Đà lại phải cùng với thầy đồ Ngô làm trợ bút cho mục văn
chương của Đông Pháp thời báo do Diệp Văn Kỳ phụ trách.
Càng những năm cuối đời, Tản Đà càng trở nên lạc lõng giữa cuộc đời và
giấc mơ của ông cũng càng trở nên xa vời. Ông phải xoay đủ nghề để kiếm
sống và từ một người nổi danh tài tử, ngông nghênh, ông quay dần về với mô
hình đạo đức truyền thống. Tản Đà mở lớp Hán văn diễn giảng và Quốc văn
hàm thụ, quảng cáo Hà lạc lý số (trên báo Ngày Nay) và tiếp tục dịch thơ
Đường với món nhuận bút bèo bọt là 5 đồng bạc. “Hễ ra báo, thấy có bài của
mình, tiên sinh liền đến ngay tòa soạn. Khái Hưng cấp cho tiên sinh một
phiếu xuất, tiên sinh cầm đến quỹ lãnh tiền. Đó là theo nguyên tắc. Song nào
phải đến là nhận được ngay phiếu, lãnh được ngay tiền. Có khi tiên sinh phải
chờ hàng giờ nơi phòng đợi hoặc trước cửa quỹ!” [62, 107].
Tản Đà và An Nam tạp chí
An Nam tạp chí ra đời năm 1926. Đây là tờ báo ông gửi gắm rất nhiều
hoài bão. Nó thể hiện tập trung nhất những đặc điểm, quan niệm báo chí của
ký giả Tản Đà. Nó cũng bộc lộ rất rõ ràng những hạn chế của một nhà Nho
làm báo. Tờ báo có một đời sống rất lận đận. Chỉ trong vòng 8 năm, nó đã bị
đình bản tới 6 lần. Điều này cho thấy những bế tắc của ký giả Tản Đà trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong những quãng thời gian tồn tại
ngắn ngủi, đứt quãng, tờ báo vẫn chiếm được một vị trí nhất định trong lòng
độc giả và sự tồn tại của nó có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển
của lịch sử báo chí nước nhà
. Có thể nói, đây là một giai đoạn quá độ của báo
chí trong bối cảnh xã hội chuyển từ xã hội cũ sang xã hội mới, với sự xâm
nhập của những luồng văn hóa, tư tưởng mới từ Phương Tây.
Có thể tóm tắt quá trình phát triển lận đận của Tản Đà cùng An Nam tạp
chí như sau:
1/7/1926, An Nam tạp chí ra số đầu tiên tại phố Hàng Lọng, Hà Nội, khi
Tản Đà 38 tuổi. Có thể thấy rõ quyết tâm cũng như khí thế hừng hực của ông
chủ bút trong những ngày đầu An Nam tạp chí ra mắt:
Non sông thề với hai vai
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son
Dư đồ rách nước non tô lại
Đồng bào xa trai gái kêu lên
Doanh hoàn là cuộc đua chen
Rồng tiên phải giống ngu hèn mà cam (Xuân sầu)
38 tuổi, sau biết bao vất vả, long đong với vai trò cộng tác với các tờ báo,
Tản Đà thỏa chí nguyện khi lập được tờ báo của riêng mình. Bởi vậy, dễ hiểu
vì sao bài thơ lại có giọng phấn khởi, hào hứng và hân hoan đến vậy. /.

Những “kỳ biến” trong làng báo đầu thế kỷ XX



Về cơ bản, đến những năm 30 của thế kỷ XX, các thể loại báo chí Việt Nam đã định hình khá rõ nét, có phần được chiếu theo những tiêu chí của báo chí phương Tây. Bên cạnh những thể loại cũ, một số thể loại mới xuất hiện, tạo nên những “kỳ biến” trong làng báo đầu thế kỷ XX
Trong một thời gian khá dài ở chặng khởi đầu, tính không chuyên nghiệp là một đặc điểm lớn đã chi phối tất cả mọi hoạt động của nền báo chí non trẻ nước ta. Điều hiển nhiên trước nhất là chúng ta chưa có một đội ngũ nhà báo thực thụ. Thế chân những người lẽ ra cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp đó là các nhà văn, những người cũng sử dụng phương tiện chữ viết nhưng lại theo một lối tư duy khác.
Phương tiện hoạt động của các tờ báo cũng thiếu thốn, chắp vá, chủ yếu dựa trên sự cung ứng nhỏ giọt từ nhà nước bảo hộ (trừ những tờ báo thân chính phủ). Các toà soạn cũng chưa có một cơ cấu hoàn chỉnh và hợp lý, phần nhiều do một vài người “xúm lại” (chữ của Vũ Trọng Phụng) cùng làm với niềm yêu thích công việc và không ít ngẫu hứng, tuỳ tiện. Nhiều tờ báo vẫn hoạt động trong khuôn khổ một nhà xuất bản, vừa ra báo vừa ra sách...
Trong một cái nhìn chung nhất, người ta thấy lúc đó, cách làm báo không mấy khác với cách làm văn chương và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề thể loại của báo chí: Phần lớn các nhà báo xuất thân từ văn nhân, học giả hoặc những người ôm mộng văn chương khoa cử, đã viết báo bằng những kinh nghiệm của viết văn và hầu như không có khái niệm rõ ràng về các thể loại báo chí.
Đó là thời kỳ mà các nhà nghiên cứu đã định danh một cách tương đối chính xác là văn - báo bất phân (Tương đối, vì thực tế chưa hẳn như vậy. Chẳng hạn ngay khi làm tờ báo tiếng Việt đầu tiên từ năm 1865, Trương Vĩnh Ký đã đưa ra một tiêu chí về cách viết “trơn tuột như lời nói” để phân biệt với lối viết biền ngẫu và đầy rẫy điển cố của văn chương khi đó. Tuy nhiên, ý thức là một chuyện nhưng làm được đến đâu lại là chuyện khác!).
Tình trạng chung trên đây được cải thiện dần theo sự tham gia ngày càng đông đảo của các nhà báo tân học, chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp, đặc biệt là đến những năm 30 của thế kỷ XX. Họ tiếp thu những kinh nghiệm từ báo chí phương Tây và phần nào từ báo chí Trung Hoa, hoặc được đào tạo từ chính môi trường báo chí Pháp, nhằm tìm kiếm những phương cách nâng cao chất lượng các tờ báo tiếng Việt mà họ chủ trương, với mơ ước đạt tới sự bình đẳng nghề nghiệp với những tờ báo tiếng Pháp do chính người Pháp thực hiện tại Đông Dương.
Có thể tạm coi thời điểm 1929 với sự xuất hiện của tờ Đông Tây - “một tờ báo được làm như Tây” - số đông người làm báo mới có dịp ngỡ ngàng nhìn lại những gì mà họ và các nhà báo đi trước đã làm với các tờ báo tiếng Việt, và họ muốn có những thay đổi về phương diện nghề nghiệp.
Nói cho đúng thì từ 1908, trong Văn minh tân học sách, các trí thức mẫn thời và có tinh thần cởi mở trước văn minh phương Tây đã ý thức được báo chí như một phương tiện văn hoá hiện đại mang tính đặc thù nghề nghiệp cao, nhưng họ vẫn chủ yếu dừng lại ở lý thuyết mà khi ấy còn thiếu một dẫn chứng sinh động như trường hợp Đông Tây và Hoàng Tích Chu. Có nhà nghiên cứu đã coi hiện tượng Đông Tây như một cuộc cách mạng nghề nghiệp trong công việc làm báo ở nước ta, một nhận xét có chút “phong thần” nhưng không phải là không có lý. 
Những thành công bước đầu đó - chủ yếu do lớp nhà báo trẻ khởi xướng - đã có tác động tới đông đảo các nhà báo và các tờ báo khác, dần làm thay đổi diện mạo của một nền báo chí còn non trẻ và từng bước góp phần chuyên nghiệp hoá nghề báo ở nước ta.
Trong quá trình vận động có ý thức đó, các thể loại trên báo chí Việt Nam đã có khuynh hướng tách dần khỏi sự phong tỏa của các thể loại văn học, chúng trở thành những thể loại riêng biệt của báo chí. Nói một cách chung nhất, yếu tố thông tấn đã được đặt ở vị trí hàng đầu trong những thể loại đó.
Tin tức - thể loại sống còn của báo chí - đương nhiên xuất hiện sớm nhất. Đây là thể loại hoàn toàn mới với cả người viết lẫn người đọc. Từ thời Nam kỳ địa phận (1883), người ta đã biết đưa tin giật gân trên tờ báo của nhà thờ để mở rộng sức mua của người đọc (sự việc con gà chọi móc nhầm cuống họng ông chủ khi ông này đang há miệng cho nó ăn trước khi vào một cuộc đá gà ở Huế, ông chủ -  vốn là quan trong triều - đã thiệt mạng).
Càng về sau cách thể hiện tin tức càng trở nên đa dạng; có tin sâu, tin kèm bình luận, tin chuyển thành biếm họa thời sự (cây vợt da đen số một của Pháp vào giải chung kết Hải Phòng trên Đông Tây, Tản Đà kiếm sống bằng bói số Hà lạc trên Phong Hoá...), tin ảnh kèm theo lời bình ngắn gọn (loại phi cơ chiến đấu mới của Đức trên Đông Dương tạp chí, quân Nhật khôn ngoan trả lại Trương Học Lương đồ đạc đã tịch thu trên Đông Tây...).
Bình luận, có thể coi là một phái sinh của tin tức khi nó lấy sự kiện làm hạt nhân, xuất hiện trên khắp các mặt báo. Bút chiến, một phía phát triển khác của bình luận nhưng với một lối tư duy nặng về lập luận chặt chẽ và một văn phong “đáo để”, làm nên bản sắc của nhiều cây bút và nhiều tờ báo.
Phỏng vấn đã đi một bước dài, từ chỗ chỉ có một giọng văn viết của người hỏi và người đáp trên những tờ Lục tỉnh tân văn, Nam Phong... đến sự tách bạch của văn nói giữa phóng viên và nhân vật trên những tờ Thời vụ, Đông Tây... đã đem đến rất nhiều thú vị cho bạn đọc vốn chỉ quen thưởng thức văn chương.
Để lại dấu vết văn học nhiều nhất, “báo mà như văn”, có lẽ là thể loại xã thuyết và một thể loại nữa được gọi chung là bài báo. Ở thể loại trước, người ta vẫn quen với cách bố cục và diễn đạt của một bài văn có những diễn giải đôi lúc rềnh ràng; ở thể loại sau, với những nội dung chủ yếu có màu sắc văn hoá, khảo cứu, học thuật, người ta rất dễ sử dụng các thủ pháp văn chương mà vẫn thấy ý tưởng được trình bày trọn vẹn (hầu như các nhà văn khi viết báo đều có những tác phẩm kiểu như vậy, đó là những tác phẩm có dung lượng không lớn nhưng rất khó phân định thể loại, mặc dù nó được viết ra với ý định để in trên mặt báo).
Sự chuyển dịch không dễ dàng nhưng ngoạn mục từ văn học sang báo chí, chính là các thể loại vốn có ranh giới mong manh giữa hai loại hình lấy văn tự làm phương tiện này: tiểu phẩm, ký sự, phóng sự, phóng sự điều tra, thường được “rút gọn” thành hai thể loại tiểu phẩm và phóng sự.
Tiểu phẩm có gốc gác từ thể loại tạp văn của văn học, một thể loại vốn được các nhà văn, đặc biệt là các nhà văn phương Đông ưa chuộng. Các thể loại “nhỏ” của văn học thường được xếp vào khu vực này: nhàn đàm, nhàn tưởng, thư từ, sổ tay... với đặc điểm chung là dung lượng nhỏ và có yếu tố ngẫu hứng. Đặc điểm này ngay lập tức được phát huy trong thời buổi của báo chí và nhu cầu cập nhật thông tin của xã hội. Chỉ cần nhìn vào tên của các chuyên mục dành cho tiểu phẩm trên mặt báo sẽ thấy ngay điều này: Nói hay đừng, Guồng trần xoay máy, Câu chuyện hàng ngày, Câu chuyện hàng tuần...
Thay vì phần ngẫu hứng có chút thù tạc kiểu văn chương, tiểu phẩm báo chí giờ đây đã nóng bỏng một ý thức xã hội và tính mục đích của nó luôn luôn được xác định như một lý do tồn tại của mỗi tác phẩm. “Trong báo chí, tiểu phẩm có dung lượng nhỏ và tần số xuất hiện ít hơn so với các thể loại: tin tức, phóng sự, bình luận v.v...”, nhưng “tiểu phẩm khẳng định vai trò là một vũ khí sắc bén” - nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Tấn đã đưa ra nhận xét này khi khảo sát thể loại tiểu phẩm trên báo chí Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX trở lại đây.
Phóng sự cũng là thể loại xuất hiện khá sớm trên báo chí nước ta, trùng khớp với thời điểm xuất hiện của tiểu phẩm, có mặt từ đầu thế kỷ XX nhưng phải đến những năm 1932-1945 mới thực sự là “thời kỳ hoàng kim” thứ nhất của thể loại này.
Thành công này trước hết thuộc về các nhà văn chuyển sang/đồng thời viết báo, họ có những thế mạnh đặc biệt khi sử dụng một bút pháp có sự giao thoa và cộng hưởng giữa văn chương với báo chí, “Nó vừa được xem như là thành tựu của một thời đại văn học rực rỡ với những cuộc cách mạng và cách tân lớn, vừa được xem như là thành tựu của một nền báo chí tuy non trẻ nhưng lại có tốc độ phát triển khác thường, tạo nên những “kỳ biến” trong đời sống xã hội tinh thần Việt Nam vào những thập niên cuối của tiền bán thế kỷ” (Lời nói đầu bộ sưu tập Phóng sự Việt Nam 1932-1945 - Văn học, 2000).
Hàng loạt tác giả và tác phẩm phóng sự trên báo chí giai đoạn này đã đi vào cả lịch sử báo chí và lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, chính bởi lý do đó. Tuy nhiên, xét cho cùng, những thành công rực rỡ của phóng sự cần phải được nhìn nhận trước hết từ phía báo chí, nó đã trở thành một thể loại báo chí, nó xuất hiện và tồn tại do những yêu cầu của báo chí.
Cũng cần phải nói thêm, tính chuyên biệt của các tờ báo (một dấu hiệu của báo chí hiện đại) được manh nha từ những năm 1908-1918 trong bối cảnh thuộc địa ở nước ta, cũng có tác động tới sự hình thành và làm sâu sắc các thể loại báo chí. Mỗi tờ báo phục vụ cho một đối tượng bạn đọc chính yếu sẽ có một số thể loại thích hợp và được ưa chuộng khác nhau, chúng sẽ tạo cơ hội cho các nhà báo được phát huy và sáng tạo ở mức cao nhất những đặc điểm và lợi thế của các thể loại đó.
Chẳng hạn, các tờ báo có khuynh hướng chính trị xã hội (Trung Bắc tân văn, Đông Tây, Phụ nữ thời đàm, Việt báo...) sẽ có yêu cầu về mức độ và chất lượng các thể loại tin tức, bình luận, xã thuyết khác với các tờ báo có khuynh hướng văn hoá, giải trí (Ngày nay, Ích hữu, Thời vụ, Tao đàn...) - những tờ báo quan tâm nhiều đến các thể loại thích hợp như tiểu phẩm, bút chiến, phóng sự... (Có hẳn một tuần báo mang tên Phóng sự, xuất bản năm 1940 ở Sài Gòn).
Nhìn lại, về cơ bản, đến những năm 30 của thế kỷ XX, các thể loại báo chí Việt Nam đã định hình khá rõ nét, có phần được chiếu theo những tiêu chí của báo chí phương Tây.
Nhận xét sau đây của nhóm tác giả thực hiện bộ sưu tập Phóng sự Việt Nam 1932-1945, không chỉ đúng với bối cảnh văn học nước ta lúc đó, mà còn đúng với cả sự ra đời và phát triển của các thể loại báo chí, ấy là thời điểm “Yếu tố đột biến của truyền thống văn học dân tộc kết hợp với yếu tố hiện đại ngoại sinh trong một môi trường xã hội  - văn hoá bản địa đang nỗ lực chuyển mình dưới ảnh hưởng phương Tây, đang nương theo chiều hướng diễn tiến của lịch sử để gia nhập một cách chủ động và tích cực vào quỹ đạo vận hành chung của thế giới

Tính giao thời – nét đặc trưng của văn học giai đoạn 1900 – 1930



1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào những năm đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chính thức bước vào thời kì đổi thay lớn. Điều kiện nội sinh cùng với những tác động của yếu tố ngoại lai đã làm nên cuộc lột xác trên mọi phương diện của văn học. Đây không chỉ là vấn đề của văn học Việt Nam mà còn là thực trạng chung của văn học cả khu vực Đông Á, của những nền văn học từng trải qua thời gian dài phát triển với văn tự chữ Hán, giờ đây được tiếp nhận các yếu tố hiện đại từ văn học phương Tây. Vận hành theo quy luật phát triển chung của cả khu vực, văn học Việt Nam vẫn tạo cho mình một diện mạo riêng trong quá trình hiện đại hóa. Tính giao thời là một trong những đặc trưng đã góp phần làm nên gương mặt đặc biệt cho văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930.
2. NỘI DUNG CHÍNH
Vấn đề phân kì văn học sử ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh luận. Đã có những quan niệm khác nhau về cách đánh giá, đặt tên cho giai đoạn văn học ba mươi năm đầu thế kỉ XX. Một số tài liệu văn học sử trước đây từng ghép giai đoạn này vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, gọi tên chung là thời kì văn học cận đại. Ngày nay, giới nghiên cứu đã thống nhất quan điểm, đi đến khẳng định văn học Việt Nam hiện đại bắt đầu từ đầu thế kỉ XX, lấy năm 1900 làm mốc khởi điểm. Do đó, khái niệm văn học cận đại không còn dùng cho văn học ở ba mươi năm đầu thế kỉ nữa. Khi đã có sự đổi thay về cách phân kì thì văn học giai đoạn này có được những đánh giá xác đáng hơn. Vai trò thử nghiệm để mở đường cho cái mới được ghi nhận. Và lúc đó, vị trí bản lề giữa hai nền văn học trung và cận đại mới thật sự được lưu ý.
Khác với quan niệm về lịch sử văn học của một số nước trong khu vực, tiêu biểu là Trung Quốc, xem thời kì văn học gắn liền với cuộc cách mạng tư sản là văn học cận đại, văn học hiện đại chỉ hình thành khi có phong trào cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo. Văn học hiện đại Việt Nam khởi phát từ lúc phong trào cách mạng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi, cách mạng vô sản chỉ mới nhen nhóm, chưa bùng phát mạnh để tạo thành xu thế chung cho thời đại. Mặc dù thế, văn học Việt Nam vẫn đi vào quá trinh hiện đại hóa theo quy luật chung của những nước trong khu vực Đông Á.
2.1 Về khái niệm tính giao thời
Nói đến văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX là phải nghĩ ngay đến tính giao thời. Giao thời là gì? Xét về nghĩa của từ giao thời, trong Từ điển Tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên, có ghi rõ: “Giao thời là khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời kì này sang thời kì khác, cái mới cái cũ đan xen lẫn nhau, thường có mâu thuẫn xung đột, chưa ổn định[4, 378]
Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng nói về tính giao thời trong văn học như sau: “Văn học của cả giai đoạn 1900-1930 có tính giao thời. Tính chất giao thời đó được biểu hiện ở sự tồn tại song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng với hai quan niệm văn học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau, ở xu thế thắng lợi của nền văn học mới đang tiến tới thay thế nền văn học cũ đang suy yếu dần. Ở giai đoạn giao thời này, nền văn học cũ tuy đã ở trên đà suy tàn nhưng vẫn còn giữ một vị trí đáng kể, vẫn còn một tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển của văn học dân tộc[1, 29].
Không chỉ có người thời nay nhìn về văn học của quá khứ, giai đoạn ba mươi năm đầu thế kỉ XX, phát hiện ra tính giao thời của nó mà ngay cả đương thời đã có không ít người cảm nhận được điều này. Tóm lại, giao thời là một thời kì phức tạp trong lịch sử văn học, có diễn ra cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt giữa cái cũ và cái mới trên mọi phương diện của văn học. Văn học ở thời điểm này vừa trong tư thế chuyển mình để phá vỡ mô hình văn học cũ, vừa tập hợp các yếu tố mới để thử nghiệm nhằm thiết lập một cấu trúc mới theo mô hình văn học hiện đại của phương Tây. Một thời kì đầy thách thức đối với văn học, mà sứ mệnh lịch sử chỉ cho phép tiến chớ không thể được lùi. Nói đến tính giao thời trong văn học ở giai đoạn này là đề cập đến các hiện tương đan cài, pha tạp, chuyển hóa trong văn học, biểu hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều mức độ khác nhau, tất cả góp phần làm nên một diện mạo đặc biệt cho văn học, không thể tìm thấy ở các giai đoạn trước và sau đó.
Có ý kiến cho rằng khái niệm tính giao thời chỉ sử dụng phù hợp khi nói đến văn học Bắc bộ ở ba mươi năm đầu thế kỷ XX, cần xem xét lại nếu gắn khái niệm đó cho văn học Nam bộ cùng thời: “Nói một cách sòng phẳng, cách định danh giao thời là rất thích hợp cho văn học trên vùng đất Bắc kì lúc đó, nhưng vị tất đã thích hợp cho văn học phát triển ở vùng phía Nam của Tổ quốc lúc ấy gọi là Nam kì”[6, 290]. Theo chúng tôi, khái niệm tính giao thời có thể dùng chung cho văn học ở cả hai miền. Thực tế văn học đã thể hiện rõ vấn đề này. Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết, chúng tôi mong muốn phần nào làm sáng tỏ những điều nói trên.
2.2 Biểu hiện của tính giao thời ở văn học giai đoạn 1900-1930
2.2.1 Trong lịch sử văn học Việt Nam từ xưa đến nay, có lẽ đây là giai đoạn duy nhất có sự hiện diện song song hai loại tác giả cũ (nhà Nho) và mới (trí thức tân học). Thời trung đại, nhà Nho giữ vị trí độc quyền, đóng vai trò chủ chốt trong việc sáng tác văn chương. Trí thức tân học chỉ thay thế hoàn toàn ngôi vị của nhà Nho vào thời kì hiện đại sau năm 1932. Ở giai đoạn này, Nhà Nho đã thưa thớt dần về số lượng, họ không đáp ứng kịp những nhu cầu mới của công chúng đương thời nhưng vẫn còn mang tư thế kiêu hãnh của những con người đã từng tạo dựng nên nền văn học thời phong kiến, kéo dài hàng mười thế kỉ. Lực lượng trí thức tân học mới hình thành, nhanh chóng chiếm được ưu thế trên văn đàn và trong xu thế thay dần vị trí của nhà Nho. Tuy nhiên, họ cũng đang đứng trước thử thách, không tránh khỏi những dằn vặt trăn trở khi bước vào thời kì hiện đại hóa văn học. Khó có thể tìm được một người hoàn toàn mới. Họ đều trong tình trạng lấp lửng giữa cũ và mới. Tuy nhiên, cái mới có phần lấn át, che khuất cái cũ. Nhìn chung, ở nhiều phương diện, từ lối sống đến học vấn, thế giới quan, quan niệm sáng tác, hay kĩ thuật viết văn, làm thơ của các tác giả giai đoạn này đều đang ở tình trạng đổi thay, rời xa dần cái cũ để tiến gần vào cái mới. Hành trình còn đang tiếp diễn cho nên mọi vấn đề chưa thể định hình rõ nét. Thế nhưng, ở thời điểm giao thời này, cả hai lực lượng cũ và mới đều có vai trò đáng kể, không thể thiếu một trong hai.
Quan niệm sáng tác ở thời trung đại là quan niệm của nhà Nho, chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng Nho giáo. Đến giai đoạn này, người sáng tác không theo duy nhất một quan niệm như trước. Đã có biểu hiện của sự biến đổi, vừa như muốn thoát ra khỏi những quy ước cũ nhưng hãy còn vương vấn với nguyên tắc đã quen thuộc, vừa mong mỏi tìm kiếm một định hướng mới nhưng định hướng ấy cứ chập chờn trước mắt, chưa thể xác định rõ ràng. Có thể nói nhu cầu đổi mới quan niệm sáng tác đang được người cầm bút thời này đặt ra, nhưng định hình một quan niệm sáng tác mới vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Chính vì thế phổ biến nhiều trường hợp chưa dứt khoát, rõ ràng về quan niệm sáng tác, như trường hợp của Phan Bội Châu, Tản Đà, Nguyễn Bá Học…
Khảo sát riêng bộ phận văn xuôi Quốc ngữ ở Nam bộ giai đoạn này cũng dễ nhận ra hiện tượng đổi thay về quan niệm sáng tác. Các nhà văn Nam bộ tỏ ra không còn hoàn toàn bằng lòng với quan niệm cũ của nhà Nho nhưng họ chưa có sự thống nhất, mỗi người đi theo một hướng đổi mới riêng. Phải bình tâm mà tổng hợp lại tất cả, mới có thể nghiệm ra đáp số chung cuối cùng cho bài toán phức tạp đã được mỗi nhà văn giải một đoạn. Người thì muốn đưa ra giải pháp cho vấn đề đề tài, cảm hứng, phương thức thể hiện; người khác lại mong thiết lập tiêu chuẩn nội dung cho tác phẩm nghệ thuật thuộc thể văn xuôi. Cũng không ít người có thái độ cương quyết với lối viết nặng tính sùng cổ, phản đối việc dựa theo truyện Tàu để sáng tác. Và vấn đề mục đích sáng tác để làm gì? Viết cho ai? cũng rất được quan tâm, đôi khi đã xác định rõ ràng, dù còn theo ý thức cũ nhưng có sự thay đổi nhất định: ”Viết tiểu thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh” (Hồ Biểu Chánh), [2,295]. Tất cả đều gợi lên cái gì đó cho thấy sự không bằng lòng với cái đã có, chưa thỏa mãn với cái hiện có và cũng rất e dè khi phải làm khác đi. Các nhà văn Nam bộ tỏ ra rất khiêm tốn khi bắt tay vào đổi mới. Và ai cũng trong tâm thế thử làm. Thể nghiệm mà có phần liều lĩnh và mò mẫm nhưng quan niệm văn học phản ánh hiện thực cuộc sống đời thường đã ở xu thế thay dần quan niệm văn học lấy tâm chí đạo làm gốc.
Mỗi nhà văn đều có hướng thay đổi khác nhau về quan niệm sáng tác. Từng người đi tìm cái mới theo nhận thức, điều kiện riêng của mình, không có sự thống nhất trong lực lượng sáng tác, mà cũng chưa nhất quán ở từng cá nhân. Chưa được trang bị bằng lí luận văn học hiện đại, giai đoạn giao thời chưa thể có được quan niệm sáng tác mới, rạch ròi, cụ thể. Quan niệm sáng tác ở ba mươi năm đầu thế kỉ cho thấy sự vô thức trong bảo thủ, sự ý thức trong đổi mới của người sáng tác.
Hoạt động văn học nghệ thuật là một điểm nhìn khác để nhận ra đây là giai đoạn văn học giao thời. Chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam có phổ biến hình thức phê phán công kích, đả phá văn chương học thuật cũ (văn chương của nhà Nho), cùng với những người sáng tạo ra nó (nhà Nho) như lúc này. Đả phá một cách quyết liệt trên diễn đàn phê bình nghiên cứu và đưa cả nội dung đả phá vào trong tác phẩm văn chương:
Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta.
Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà.
Thơ suông nước ốc còn ngâm váng.
Rượu bự non chai vẫn chén khà
Phan Kế Bính
Lực lượng tích cực trong hoạt động này lại có nhà Nho, tiêu biểu là các nhà Nho theo phong trào duy tân hồi đầu thế kỉ. Họ nhắm vào những sáng tác ca ngợi suông luân thường đạo lí của phong kiến. Với họ, văn chương cũ của nhà Nho có nhiều chỗ phi lí vô nghĩa, trở nên lạc điệu trước thời đại, cần phải bác bỏ nhanh chóng và thay thế kịp thời. Không chỉ có nhà Nho, mà lực lượng trí thức mới cũng rất nhiệt tình bài bác văn chương cũ. Song song với việc phê phán, chỉ trích văn chương cũ, mong muốn loại bỏ bộ phận sáng tác này trên văn, thi đàn đương thời, lại có hoạt động vận động, kêu gọi, khuyến khích việc thiết lập một nền quốc văn mới. Nhiều cuộc thi viết tiểu thuyết (do báo Nông cổ mín đàm tổ chức vào năm 1906), thi sáng tác thơ (do báo Nam Phong tổ chức năm 1918), đã nhằm vào mục đích tìm kiếm, cổ súy cái mới trong văn chương. Nhu cầu đặt ra và thực tế được giải quyết lúc này chưa có sự thỏa mãn. Hô hào cái mới nhưng báo chi thời này vẫn tiếp tục cho đăng tải các sáng tác theo hình thức cũ. Nam Phong hoặc Đông Dương tạp chí đáp ứng lòng mong đợi của độc giả yêu thơ đương thời bằng hàng loạt bài thơ Đường luật; tiểu thuyết nói về anh hùng nghĩa hiệp mang dáng dấp truyện Tàu chưa phải đã vắng bóng ngay. Nhìn vào văn học ba mươi năm đầu thế kỉ thấy rõ tính bề bộn, đa dạng của sự kiện, ngổn ngang trăm điều và chưa có vấn đề nào được giải quyết thấu đáo. Dường như giữa ý thức bên trong của con người và tác động của điều kiện khách quan bên ngoài chưa có được sự hòa hợp.
Vấn đề tiếp nhận văn chương ở giai đoạn này cũng phản ánh tính giao thời. Người tiếp nhận mong chờ cái mới nhưng vẫn đánh giá cao các giá trị cũ từng có trong sáng tác của nhà Nho. Trên tờ Đông Dương tạp chí lúc ấy có đăng những bài nhận xét, đánh giá văn chương đương thời, đều tập trung “khen lời hay ý đẹp, khen tác giả có kiến văn rộng rãi, đặc biệt chú ý về khía cạnh đạo đức của tác phẩm” [7,43]. Trong phong trào phê bình Truyện Kiều, cả hai phái cựu học và tân học đều lấy tiêu chí đạo đức làm cơ sở đánh giá kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du. Quan điểm nhà Nho vẫn còn chi phối việc tiếp nhận văn học thời này khá mạnh. Tuy nhiên, ý thức tiếp nhận giá trị nghệ thuật của tác phẩm đã được quan tâm, thể hiện những đổi thay đáng kể trong việc tiếp nhận so với trước đó. Một thực tế khác cũng diễn ra vào buổi giao thời, khi cái mới xuất hiện, dù đó là niềm khát khao, sự mong đợi bấy lâu nhưng con người lại rất dè dặt, đôi khi còn phũ phàng với nó. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời, công khai bộc lộ cái tôi muốn sống cho bản ngã, người đọc nhận ra sự đồng cảm, đồng điệu từ tác phẩm nhưng lại không dám tỏ thái độ đồng tình với nó. Giấc mộng con của Tản Đà khi được công bố trên văn đàn đã lập tức nhận ngay lời dè bĩu, phê phán nặng nề của Phạm Quỳnh. Vì sao? Vì Tản Đà đã ngang nhiên sống với cái tôi, công khai bày tỏ nỗi lòng, đem những điều thầm kín giãi bày cùng tất cả. Có thể nhận ra đầu thế kỉ XX là “một quá trình chuyển từ phương thức tư duy và phân tích văn học mang tính chất phương Đông sang phương thức tư duy và phân tích văn học mang tính chất phương Tây”[7,  47].
2.2.2. Những điều nói trên là những biểu hiện mang tính chất bề nổi. Cần bóc tách lớp vỏ bên ngoài để khai thác mọi vấn đề đang ẩn trong đó, mới có thể phát hiện ra những cái cốt lõi. Chính việc tìm hiểu trên tác phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta nhận biết rõ hơn tính giao thời của văn học giai đoạn 1900-1930.
Từ khi văn học viết ra đời cho đến lúc ấy và tận bây giờ, có lẽ chưa khi nào trong các sáng tác văn học Việt Nam lại có phổ biến hiện tượng tồn tại song song cái cũ và cái mới trên nhiều yếu tố như lúc này.
Người cầm bút ở đầu thế kỉ XX với thói quen cũ, cất bước trên những con đường quen thuộc để đi tìm cảm hứng sáng tác. Họ vẫn say sưa với vấn đề đạo lí, thế sự, số phận con người, hay sự trăn trở cho vận mệnh xã tắc, giống nòi…Tuy nhiên, hoàn cảnh mới đã khơi gợi cho họ bao điều khác trước. Họ bắt đầu bị cuốn hút vào những vấn đề về cuộc sống đời thường trước mắt; tình yêu của cái tôi lãng mạn đầy khát vọng tự do; con người cá nhân biết đòi hỏi, muốn được hưởng thụ, chia sẻ, được sống cho mình, cho hiện tại, v.v…Tất cả đã làm dấy lên trong lòng người cầm bút sự hứng thú, niềm say mê mới… Để rồi trong văn chương không chỉ nổi bật cảm hứng đạo lí hay thế sự hoặc yêu nước mà còn có cả cảm hứng lãng mạn. Và ngay trong cảm hứng đạo lí, thế sự hay yêu nước cũng đã có nhiều biểu hiện khác trước.
Các sáng tác thời này triển khai cả hai loại đề tài: cũ và mới. Rất nhiều tác phẩm còn hướng vào nội dung ca ngợi trung hiếu, tiết nghĩa hay viết về những con người sống theo chuẩn mực đạo đức phong kiến (Đỉnh núi nhành mai – Nguyễn Tử Siêu, Giọt máu chung tình – Tân Dân Tử, Cha con nghĩa nặng, Vì nghĩa vì tình – Hồ Biểu Chánh, v. v…). Đề tài yêu nước, kêu gọi đấu tranh chống giặc, vốn rất phổ biến vào những thời kì nước mất nhà tan, được các tác giả dòng văn học yêu nước tập trung thể hiện. Xã hội với mặt trái đầy chuyện phi lí, bất công, thối nát, v.v… được nói nhiều trong cả thơ (thơ Tản Đà, thơ của các nhà chí sĩ cách mạng đương thời) và văn xuôi (tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, Đặng Trần Phất; truyện ngắn Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Trần Quang Nghiệp). Bên cạnh những đề tài quen thuộc ấy, thơ văn đầu thế kỉ XX bắt đầu đi sâu vào một số vấn đề mới trước kia chưa được quan tâm hoặc quan tâm chưa nhiều như: số phận người nông dân (tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bửu Mọc); cuộc sống của tầng lớp thị dân thời kì tư sản hóa hay sự sa sút của các gia đình phong kiến (tiểu thuyết Đặng Trần Phất, truyện ngắn Nguyễn Bá Học, kịch của Nam Xương, Vũ Đình Long); tình yêu lãng mạn, tự do, phóng túng (thơ Tản Đà, tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách), v.v... Hai loại đề tài cũ và mới đã làm nên sự đa dạng về nội dung cho các sáng tác. Điều đáng nói là nó đã vô tình tạo ra tính chất phức tạp cho văn học đương thời. Mặc dù số lượng tác phẩm không nhiều so với các giai đoạn khác nhưng để xác định văn học giai đoạn này mang đặc điểm của văn học trung đại hay hiện đại quả là chuyện không đơn giản.
Suốt mười thế kỉ tồn tại của văn học trung đại, văn học viết Việt Nam lấy chữ Hán và chữ Nôm làm phương thức thể hiện duy nhất. Sau thời gian khởi động, tập dượt ở Nam bộ hồi cuối thế kỉ XIX, đến ba mươi năm đầu thế kỉ XX chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi trong sáng tác văn học của cả nước. Khi chữ Quốc ngữ chính thức bước vào tác phẩm, chữ Hán không vì thế bị đẩy lùi ngay. Tác phẩm viết bằng chữ Hán vẫn chiếm số lượng không ít trong thơ văn giai đoạn này (tác phẩm của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và nhiều nhà nho yêu nước khác). Việc đưa chữ Quốc ngữ vào sáng tác vừa làm nên những giá trị nghệ thuật mới mẻ vừa thể hiện sự hiện đại hóa trong văn học. Buổi giao thời, chữ Quốc ngữ vẫn phải đồng hành cùng chữ Hán. Đối với các nhà Nho, dù đã thấy rõ tiện lợi của việc dùng chữ Quốc ngữ nhưng do quá nặng tình với chữ Hán, cho nên họ cũng chưa chịu rời xa nó một cách nhanh chóng, dứt khoát. Trường hợp pha trộn một vài câu hoặc một đoạn thơ chữ Hán cầu kì, khó hiểu khá phổ biến trong thơ yêu nước ở giai đoạn này. “Bài hát khuyên nhà nho là một minh chứng tiêu biểu.
Ngôn ngữ là chất liệu quan trọng làm nên tác phẩm nghệ thuật. Đánh giá giá trị của tác phẩm văn học hay tìm hiểu những biến chuyển của lịch sử văn học không thể bỏ qua yếu tố ngôn ngữ. Giai đoạn giao thời, cũng là buổi đầu hiện đại hóa ngôn ngữ trong sáng tác, đã tạo nên tính đa phong cách cho ngôn ngữ văn học giai đoạn này. Một thực tế mang tính phổ biến là giai đoạn đầu của thời kì hiện đại hóa bao giờ cũng có hiện tượng pha tạp, thay thế dần các dạng thức ngôn ngữ trong sáng tác. Nếu như ở văn học Trung Quốc đó là sự thay thế, đan xen pha tạp giữa ngôn ngữ bạch thoại và văn ngôn, thì ở Việt Nam là sự thay thế, đan xen, pha tạp giữa ngôn ngữ ảnh hưởng Hán học và ngôn ngữ ảnh hưởng tiếng Pháp, cùng với ngôn ngữ của cuộc sống đời thường. Tất cả người cầm bút đều mong muốn làm ra cái mới bằng những cách riêng của mình. Họ sử dụng vốn ngôn ngữ được tích lũy từ Hán học, họ khai thác từ dùng trong cuộc sống hằng ngày, họ pha tạp lắp ghép các dạng ngôn ngữ khác nhau.
Văn học giai đoạn này hạn chế dùng từ Hán Việt. Từ ngoại lai được sử dụng phổ biến. Tiêu biểu là ở văn xuôi, nhất là văn xuôi Nam bộ, làm nên bước đổi mới đáng kể cho văn học trong thời kì hiện đại hóa. Cũng chính sự xuất hiện của lớp từ ngoại lai trong các tác phẩm làm nổi bật hình ảnh của xã hội giao thời, có đủ các hạng người, đủ các cách sống, hình thành nên nhiều lối sống.
Lối viết gò câu, chọn chữ, cân nhắc từng lời, tạo nên sự đăng đối nhịp nhàng, dù đã bị phê phán nhưng đâu dễ mất đi. Nó vẫn tồn tại trong thơ Tản Đà, trong văn Hoàng Ngọc Phách, Đặng Trần Phất, Phạm Duy Tốn hay Nguyễn Tử Siêu… làm cho văn học giai đoạn này còn mang vẻ trang trọng, đài các không khác gì văn chương thời trung đại. Đi đôi với hình thức trên lại có cách diễn đạt tình ý bằng ngôn từ quá giản dị, gần gũi đến quê mùa, đôi khi có phần thông tục hóa. Đó là cách viết có thể tìm thấy trong sáng tác của nhiều nhà văn Nam bộ như Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Thiên Trung, Sơn Vương, một số cây bút truyện ngắn, v.v… khiến cho tác phẩm đến với độc giả bình dân dễ dàng, phá vỡ tính mực thước, cầu kì kiểu văn chương nhà Nho nhưng chưa vươn tới đỉnh cao của tính thẩm mĩ về ngôn từ.
Các nhà văn thời này thường pha trộn hai lối viết. Có không ít trường hợp như truyện ngắn Con người sở khanh của Phạm Duy Tốn, được mở đầu bằng những đoạn văn viết theo hình thức văn biền ngẫu, từ ngữ cầu kì, hoa mĩ.
Tóm lại, ở đầu thế kỉ XX, trong văn học Việt Nam, những hình thức mới mẻ về ngôn ngữ như đã trình bày cùng hiện diện bên cạnh các hình thức ngôn ngữ vốn có trong văn học trước kia. Cả hai đều có vai trò cần thiết, làm nên những món ăn tinh thần phù hợp thị hiếu người đọc lúc bấy giờ. Trong quá trình hiện đại hóa ở giai đoạn giao thời, nếu như văn chương Bắc bộ có xu hướng đơn giản hóa ngôn ngữ ảnh hưởng chữ Hán, thì văn chương Nam bộ lại có xu hướng vừa bình dân hóa, đời thường hóa ngôn ngữ văn chương nghệ thuật, vừa tiếp nhận ảnh hưởng ngôn ngữ Pháp.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một phương diện tiêu biểu thể hiện tính giao thời. Các nhà văn đương thời vẫn chú ý miêu tả ngoại hình, hành động và ngôn ngữ của nhân vật như các nhà Nho trước kia. Thế nhưng, đã có  tác phẩm thể hiện thành công đáng kể việc miêu tả nội tâm nhân vật (Tố Tâm- Hoàng Ngọc Phách). Nhà văn giai đoạn này vừa theo nguyên tắc tư duy kiểu nhà Nho, sử dụng các yếu tố thiên nhiên để khắc họa chân dung nhân vật chính diện, vừa hướng đến quan niệm xây dựng nhân vật gần gũi với cuộc sống thực bằng các chi tiết cụ thể, đời thường, vốn có của con người: ”Kim Sa tác chừng 15-16 tuổi, áo xăn ngang, quần vo tới đầu gối, mặt tròn da trắng chơn mày vòng nguyệt, mình mẩy ướt loi ngoi, sau lưng vắt nọc cấy, đầu đội nón lá buôn, tay túm một khăn gạo, xơn xơn đi vào…”(Mạng nhà nghèo - Nguyễn Bửu Mọc). Hồ Biểu Chánh còn quan tâm nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật. Do đó, nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông thường có tâm hồn cao thượng, đều thể hiện tính cách của con người theo quan niệm truyền thống nhưng lại có hành động của con người hiện đại: làm báo, mở trường tư thục, mở bệnh xá, kinh doanh, hành nghề kĩ thuật. Có nhân vật từng đi Tây, lấy bằng kĩ sư Pháp nhưng lại chuộng lối sống của ông đồ Nho, thích ngắm trăng, yêu vẻ đẹp thanh tịnh của thiên nhiên, vui thú điền viên (Thuần – Đoạn tình, Hải Đường – Đóa hoa tàn). Không riêng Hồ Biểu Chánh, mà Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Thiên Trung, v.v…cũng rất chú ý đến các yếu tố nói trên.
Trên đây là một số biểu hiện nổi bật, cho thấy văn học giai đoạn này đang có sự hiện diện đồng thời cái cũ và cái mới ở mọi yếu tố thuộc về phương thức thể hiện. Thực trạng trên còn có thể nhận ra từ nhiều vấn đề khác, như: Vấn đề xây dựng kết cấu tác phẩm, tạo dựng cốt truyện, lựa chọn chi tiết, hình ảnh và cả việc thiết lập không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật cho tác phẩm.
Sự tồn tại song song cái cũ và cái mới đã nói lên tính giao thời của văn học giai đoạn này. Các cách kết hợp, đan cài, pha tạp cái cũ và cái mới khéo léo, nhuần nhuyễn còn làm nổi rõ vấn đề hơn. Chính việc làm đó đã tạo nên những giá trị đặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học trung đại mà cũng chưa thể công nhận là tác phẩm hiện đại. Trong văn học giai đoạn 1900-1930 phổ biến ba dạng kết hợp: nội dung mới – hình thúc cũ (thơ văn yêu nước, tiêu biểu nhất là sáng tác của Phan Bội Châu); nội dung cũ – hình thức mới (kịch nói của Nam Xương, của Vũ Đình Long); nội dung và hình thức đều có cả cũ và mới (đây là dạng phổ biến ở nhiều sáng tác của các tác giả thuộc dòng văn học hợp pháp đương thời). Phân tích bài thơ “Hoa sen nở trước nhất đầm” của nhà thơ Tản Đà, vấn đề sẽ được hình dung cụ thể. Với một thể thơ quen thuộc, được các nhà Nho xưa học tập từ Trung Quốc (thơ thất ngôn bát cú Đường luật); với những chất liệu cũ: hình ảnh (hoa sen), ngôn ngữ, lối vào đề (Trong đầm gì lại đẹp hơn sen), lấy từ văn học dân gian, thơ trung đại và bằng cảm hứng của một nhà Nho sống trong xã hội trên con đường tư sản hóa, Tản Đà đã đem cái tôi phô bày trước công chúng. Hoa sen nở trước nhất đầm không còn là hình ảnh tượng trưng cho người quân tử cao khiết, đạo mạo, mẫu mực nữa. Mà thật táo bạo, khi nó được tác giả nhìn như một cô gái mạnh mẽ, dạn dĩ, đầy tự tin và kiêu hãnh trước cuộc đời phức tạp, nhiều cạm bẫy. Thân gái lạ đứng giữa mặt nước chân trời mà vẫn không chút bối rối, chẳng hề lo sợ, khác hẳn những người con gái trong văn chương truyền thống. Hơn thế, người con gái ở đây còn như muốn thách thức, tỏ ra ý thức rõ về mình. Mình là đối tượng của sự ghen ghét đố kị. Một kiểu khẳng định cá nhân đầy chất ngông
Lại còn e nỗi chị em ghen
Đã trót hở hang khôn khép lại
Tản Đà đã thổi vào thơ Việt Nam những tình cảm, tư tưởng và suy nghĩ mới. Tạo cho nó có một vẻ đẹp riêng, ẩn hiện khó thấy. Nhưng càng nhìn càng thấy đẹp, càng đọc càng nhận ra nhiều cái hay. Mới và cũ cùng hiện diện trong bài thơ. Đây không phải là sự lắp ghép máy móc, pha tạp mang tính công thức mà là sự hòa quyện vào nhau một cách tự nhiên giữa truyền thống và hiện đại, làm nên nét riêng, tính độc đáo của thơ trong giai đoạn chuyển mình sang thời kì hiện đại.
Trong văn học giai đoạn này còn rất nhiều tác phẩm có sự kết hợp như trên. Người viết chỉ dẫn ra trường hợp tiêu biểu để chứng minh văn học ở đầu thế kỉ XX là dấu nối giữa hai nền văn học cũ và mới. Các giá trị truyền thống được đặt cạnh một số thành tựu hiện đại và luôn ở thế cạnh tranh nhau. Tính giao thời của văn học thể hiện qua sự lắp ghép, pha tạp các yếu tố cũ và mới. Phải có văn học phương Tây làm xúc tác mới có thể tạo ra kết quả như trên. Đối với văn học các nước, tính giao thời thuộc về thế kỉ trước. Riêng ở Việt Nam đó là vấn đề của thế kỉ XX. Tuy nhiên, hiện tượng trung gian này chỉ xảy ra ở một thời gian ngắn. Và cũng có thể khẳng định tính giao thời là đặc trưng của văn học cả nước, giai đoạn đầu hiện đại hóa. Mức độ và biểu hiện của tính giao thời tuy có khác nhau ở văn học hai miền nhưng đâu đâu trên sáng tác của từng tác giả, trong mỗi tác phẩm, ở khắp các thể loại đều có sự hiện diện, đan cài, pha tạp hay chuyển hóa của cái cũ và cái mới. Nếu như trong văn học Bắc bộ tính giao thời dễ nhận thấy qua thơ, thì ở văn học Nam bộ tính giao thời thể hiện rõ nét hơn ở văn xuôi tự sự. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân đưa đến. Hoàn cảnh khách quan và những nhân tố chủ quan đều tác động đến văn học giai đoạn này. Cũng nên lưu ý một điều là ở ba mươi năm đầu thế kỉ XX thơ Bắc bộ có thế mạnh trên thi đàn cả nước. Trong lúc đó, các hình thức văn xuôi tự sự Nam bộ, tiêu biểu là tiểu thuyết, lại đạt thành tựu cao. Chính ở thể loại này văn học Nam bộ đã khẳng định được vai trò của mình trong quá trình hiện đại hóa. Như thế cũng có thể nhận ra, vào lúc này, thể loại nào có nhiều chuyển động để thoát khỏi mô hình văn học cũ, mong được nhanh chóng hòa nhập vào dòng chảy của văn học hiện đại thì càng thể hiện rõ tính giao thời.
Mức độ và biểu hiện của tính giao thời cũng có sự khác biệt giữa tác giả này với tác giả khác. Sáng tác của nhà Nho thường bị nghiêng về cái cũ. Ngược lại, sáng tác của trí thức tân học lại hướng nhiều vào cái mới. Bởi nhà Nho còn nặng tình với truyền thống, lại bảo thủ trước cái mới. Hơn nữa, việc tiếp nhận các thành tựu hiện đại từ văn học phương Tây ở họ rất hạn chế. Trong khi đó, lực lượng trí thức tân học lại hấp thu kiến thức mới ngay từ thưở thiếu thời. Tâm hồn nghệ thuật của họ được nuôi dưỡng bằng cả dòng sữa ngọt ngào của văn học phương Tây. Họ lớn lên trong sự xa rời dần với cái của phong kiến. Văn chương chữ Hán còn đọng lại trong họ với tư cách là kiến thức văn học sử. Vì thế có sự khác nhau như đã nêu cũng là điều dễ hiểu.
2.3. Vì sao có tính giao thời trong văn học giai đoạn 1900-1930
Đây là một giai đoạn có sự giao tranh quyết liệt giữa hai nền văn hóa Đông-Tây. Đồng thời đang diễn ra quá trình chuyển biến từ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng tư sản. Những yếu tố này vừa tác động đến người cầm bút, vừa ảnh hưởng đến người tiếp nhận văn học đương thời. Nó chi phối nội dung tư tưởng, đề tài của các sáng tác lúc bấy giờ không phải là ít.
Văn học giai đoạn 1900-1930 có xu hướng tiến gần đến văn học hiện đại. Tiến đến văn học hiện đại vào thời gian này là một nhu cầu vận động để phát triển theo quy luật tất yếu của lịch sử văn học. Đối với người cầm bút và cả người tiếp nhận lúc ấy, văn học hiện đại là một khu vườn quyến rũ đầy những hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện ra nó là một chuyện, nhưng đến với nó là một chuyện khác. Bởi vì, văn học truyền thống của nhà Nho tuy đang mất dần vị thế nhưng đã tạo nên nhiều thói quen trong sáng tác, trong tiếp nhận. Đâu dễ một sớm một chiều thay đổi được các thói quen đó. Hoàn cảnh khách quan đã khác trước quá nhiều, quan điểm thẩm mĩ cũng thay đổi, thế giới quan và nhân sinh quan cũng thay đổi nhưng để tìm thấy cảm hứng mới không phải chuyện giản đơn.
Tiếp nhận cái mới là vấn đề vô cùng phức tạp. Người cầm bút đương thời đã biết ”định hướng mở rộng quan hệ giao lưu văn học thực hiện song song với việc nối lại những mối dây với quá khứ”, bởi vì: ”Đánh mất quá khứ nghĩa là đánh mất mình nhưng tự cô lập cũng có nghĩa là tự sát” [3,195]. Thế nhưng, giao lưu văn học trong giai đoạn này còn lắm trở ngại. Có nhiều mức độ tiếp nhận văn học phương Tây. Những sĩ phu yêu nước tham gia hoặc tổ chức các phong trào cách mạng chỉ tiếp nhận tư tưởng cách mạng của Châu Âu, còn đối với nền văn học nghệ thuật hiện đại phương Tây hãy còn xa lạ. Các trí thức tân học có phần thuận lợi nhiều trong việc tiếp nhận những thành tựu hiện đại nhưng tâm lí tiếp nhận chưa thật cởi mở, thoải mái, tự nhiên. Làm sao tránh được bỡ ngỡ và không phải dè dặt, khi mà bấy giờ mọi sự đổi mới đều bị nhìn bằng cặp mắt kinh ngạc, phán xét, chực chờ phê phán. Ngoài ra, còn có một trở ngại lớn là phần đông tác giả thời này “không có đủ độ sâu và độ đúng của lí luận, không đủ học vấn để kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước ngoài một cách hợp lí và sáng tạo”[1,337]. Người cầm bút thời này đến với văn học hiện đại trong sự nhận thức chưa trọn vẹn về mọi phương diện, làm hạn chế khả năng sáng tạo của họ. Đôi khi họ bị rơi vào tình trạng “lực bất tòng tâm”, cho nên phải chọn giải pháp tình thế là dung hòa truyền thống và hiện đại.
Công chúng đương thời đòi hỏi một món ăn tinh thần mới lạ. Nhưng nếu đi quá xa với truyền thống thì lập tức sẽ phản ứng, lên án quyết liệt. Chính vì thế người cầm bút phải chú ý tạo nên những giá trị văn học không quá cũ mà cũng không quá mới. Do đó đã có hiện tượng phản ánh hiện thực xã hội mà không quên yếu tố đạo lí. Câu văn xuôi được chấp nhận lúc này phải là những câu văn có đối, có vần, đọc lên nghe nhịp nhàng như thơ, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những nỗi niềm thầm kín, cùng với tình yêu lãng mạn tự do được thổ lộ qua bài thơ Đường luật, câu thơ thất ngôn, v.v…Nhìn chung, việc thỏa mãn được thị hiếu độc giả đương thời cũng góp phần làm cho văn học giai đoạn này có được tính giao thời.
3. KẾT LUẬN
Vận động để phát triển, đó là quy luật tất yếu của xã hội, cũng là của văn học. Hiện đại hóa văn học nhằm hướng đến một sự đổi mới toàn diện và phổ biến, trên nền tảng của truyền thống, trong sự giao lưu rộng rãi với văn học hiện đại nước ngoài. Nhiệm vụ vô cùng nặng nề đã đặt ra cho văn học ba mươi năm đầu thế kỉ XX: Làm sao để hội nhập mà không mất gốc, đổi mới mà không bạc tình với quá khứ? Tính giao thời đã góp phần thể hiện ý thức thực hiện sứ mệnh lớn lao ấy của văn học ba mươi năm đầu thế ki XX.
Có thể khẳng định: trong lịch sử văn học Việt Nam đây là giai đoạn duy nhất tính giao thời được thể hiện rõ nét như thế. Tính giao thời đã tạo cho văn học giai đoạn này nổi bật vai trò bản lề nối liền hai thời kì văn học trung đại và hiện đại. Có nó, dòng chảy liên tục từ thế kỉ thứ X đến nay không tắt mạch hay chia dòng.
Không chỉ riêng ở Việt Nam, mà các nước trong khu vực, khi bước vào thời kì hiện đại hóa cũng có bước chuyển mình phức tạp, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật mang tính trung gian, thể hiện sự đan cài, kết hợp cũ và mới. Giai đoạn văn học giao thời ở các nước đều trong tư thế đối mặt với thử thách, đứng giữa sự giao tranh quyết liệt. Nó không đạt đỉnh cao ở thành tựu, mà có khả năng phát triển nhanh và rất đa dạng. Đó chính là cái nền cần có để sang giai đoạn sau người cầm bút đặt lên đấy bệ phóng vững chắc, đưa văn học tiến lên những bước dài và cao.
Tài liệu tham khảo:
1.Trần Đình Hượu & Lê Chí Dũng (1988) – Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 – NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
2. Nguyễn Khuê (1974) - Chân dung Hồ Biểu Chánh – NXB Lửa Thiêng.
3. Mã Giang Lân (2000) – Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945 – NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
4. Vương Trí Nhàn (1996) – Khảo về tiểu thuyết – NXB Hội nhà văn.
5. Hoàng Phê (1995) – Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẳng.
6. Trần Nho Thìn (2003)– Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa - NXB Giáo dục.
7. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004)– Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX - NXB Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Bài đã đăng trong tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Phát triển Vùng Nam bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 12/2009, tr 44 – 54)