Khiemnguyen

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Phóng sự báo chí và phóng sự văn học



ĐƯỜNG BIÊN THỂ TÀI


Nguyenbuikhiem@gmail.com

Mối quan hệ giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí có thể ví như hai vòng tròn cùng giao thoa ở một vòng cung”. Ngoài những điểm gặp gỡ nhau về đối tượng phản ánh, về tính xác thực và thời sự, giữa chúng có một khoảng cách nhất định bởi sự khác nhau về phương thức biểu hiện. Phóng sự báo chí chỉ dừng lại ở chức năng thông tin sự kiện, “tường thuật sự việc một cách trần trụi, không văn hoa”. Còn phóng sự văn học luôn hướng đến sử dụng một số hình thức biểu đạt của văn chương nhằm tạo sức năng động cho tác phẩm và hấp dẫn người đọc. Ngoài chức năng thông tin sự kiện, phóng sự văn học còn đảm nhiệm chức năng thông tin thẩm mỹ.
Vẫn còn nhiều ý kiến xung quanh việc có nên phân chia phóng sự thành phóng sự văn học và phóng sự báo chí hay không? Phóng sự là dạng thức phản ánh hiện thực cuộc sống có tính chất lưỡng hợp, nằm ở miền giao thoa giữa văn chương và báo chí. Vì thế, giữa chúng không cần thiết phải “thiết lập một giải phân cách” cố định. Một số nhà nghiên cứu đã quan niệm như vậy. Ngược lại, có ý kiến cho rằng: Mối quan hệ giữa văn chương và báo chí là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, khác với mối quan hệ “văn - báo bất phân” trước 1945, báo chí đương đại đang chuyển động theo xu hướng tách dần khỏi “sự phong tỏa của văn học”. Hai ngành đã thực sự tách ra độc lập. Từ quan điểm này, một số nhà lý luận, phê bình như Bùi Huy Phồn, Nôen Đuytơre, Đức Dũng, Hoài Thanh,... khẳng định việc xác lập đường biên giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học là cần thiết đối với việc phân định chức năng phản ánh, cũng như việc xác định kênh giao tiếp phù hợp với mỗi thể phóng sự.
Thế nhưng, lâu nay vấn đề này vẫn chưa được lý luận văn học và lý luận báo chí quan tâm đến. Trong một số công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và báo chí, sự khác biệt giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học cũng được điểm qua, song chỉ là những nhận xét sơ lược, thiếu tính hệ thống. Xuất phát từ tính chất cấp thiết của vấn đề, trên cơ sở khảo sát tác phẩm, bài viết sẽ đi đến xác lập ranh giới giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học thông qua một số đặc điểm nhận diện cụ thể sau.
Phóng sự báo chí
Phóng sự là thời đại. Nhiều nhà báo đã quan niệm như vậy. Leonard Ray Teel và Ron Taylor trong cuốn Bước vào nghề báo cho rằng: Nếu được nói một câu thật khái quát về báo chí, câu nói đó sẽ là “Cái gì mới?”. Thông tin thời sự là yêu cầu của phóng sự, song đối với phóng sự báo chí, yêu cầu đó càng được đặt ra nghiêm ngặt hơn. Phóng sự báo chí phải thông tin hiện thực ở tư thế trực tiếp nhất, cận kề nhất. Khác với phóng sự văn học, đường biên hiện thực có thể được nới rộng theo chiều quá khứ, thì vấn đề mà phóng sự báo chí quan tâm phải là vấn đề hôm nay, là những vấn đề, sự kiện nóng hổi, mới nảy sinh, “là những ghi chép còn tươi rói những chất liệu của đời sống hiện thực” [1, 24].
Thời gian là sinh mệnh của phóng sự. Áp lực của yêu cầu thời sự đã qui định phong cách người viết phóng sự báo chí: năng động, nhanh nhạy - nhanh nhạy trong nghe ngóng, dò tìm thông tin và nhanh nhạy, kịp thời chiếm lĩnh và công bố thông tin vào thời điểm lý tưởng nhất, đem lại hiệu ứng cao nhất.
Là thể loại “nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi dào và nóng hổi”, phóng sự báo chí được xem như một tư liệu sống có giá trị. Hiện thực được dịch chuyển vào phóng sự phải là một hiện thực “nguyên vẹn, một hiện thực còn chưa bị “chưng cất”, chính xác ở từng chi tiết, từng con số, từng địa chỉ . Bàn về đặc trưng của phóng sự, Trọng Lang cho rằng: “Phóng sự phải đúng và thật. Đúng như một tờ biên bản của một nhân viên có tuyên thệ để người đọc có thể tự động đi tìm để kiểm soát được ngày, giờ, địa điểm sự việc đã xảy ra, tên tuổi nhân vật đã tả, cả cái không khí lúc đó. Thật như một sự việc ghi trong hồ sơ toà án”. Tính xác thực là nguyên tắc, là thước đo giá trị tác phẩm báo chí. Vì vậy, một điều tối kỵ đối với người viết phóng sự báo chí là anh ta không được “sản xuất” thông tin, bịa đặt sự kiện, không được di chuyển không gian, thời gian, không được thay hình, đổi dạng nhân chứng. Phóng sự báo chí không chấp nhận hư cấu dưới bất cứ hình thức nào, kể cả hư cấu ở những miền không xác định. Phóng sự báo chí thuyết phục người đọc bằng lôgic của sự thật, “mô tả được hiện thực điển hình đúng với những phẩm chất tinh thần và bộ mặt của nó, nghĩa là tác phẩm đã tiếp cận đến với những phạm trù thẩm mỹ [2, 51].
Xuất phát từ mục đích thông tin sự kiện nên ngôn ngữ phóng sự báo chí có tính chất thông báo, hướng đến mô tả con người, sự việc. Tường minh, chính xác, cụ thể,… là đặc trưng của ngôn ngữ phóng sự báo chí. Nếu như phóng sự văn học cho phép sử dụng “ngôn ngữ của độ không xác định”, thì đối với phóng sự báo chí, mọi sự mơ hồ về ngôn ngữ, về hình ảnh đều không được chấp nhận. Phóng sự báo chí lôi cuốn người đọc bởi sự tinh tế trong lựa chọn và sắp xếp sự việc, chi tiết, bởi “cái tầm” trong nhìn nhận và đánh giá vấn đề của chủ thể sáng tạo, chớ không phải nhờ vào công nghệ luyện chữ. Ngôn ngữ phóng sự báo chí “đến thẳng trực tiếp với người đọc, không thông qua một trung gian nào. Không cần đến những hình thức diễn đạt quanh co gián tiếp, những ẩn dụ, phóng dụ, những thách đố về chữ nghĩa, những trò chơi về ngôn từ” [3, 91].
Phóng sự báo chí nhằm tạo ra văn bản đơn nghĩa. Ngoài tầng nghĩa hiển thị trực tiếp qua hệ thống ký hiệu ngôn ngữ, phóng sự báo chí không gợi mở một trường tư duy nào khác.
Phóng sự báo chí phản ánh và thẩm định hiện thực bằng cái tôi tỉnh táo và lý trí. Trong phóng sự báo chí, cái tôi tác giả có khi x uất hiện với tư cách là một nhân chứng làm nhiệm vụ nối kết các dữ liệu thông tin đến bạn đọc, khi khác trong vai trò một bình luận viên thẳng thắn bình bàn, luận xét vấn đề, không ít trường hợp làm công việc của một chuyên gia xã hội học nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện thực trạng. Dù đứng ở vị trí nào thì cái tôi tác giả luôn tỏ ra khách quan và sáng suốt. Khác với phóng sự văn học, có thể thẩm định hiện thực thông qua cái tôi cảm xúc thẩm mỹ, phóng sự báo chí xuất phát từ cái tôi khách quan, lý giải hiện thực bằng một tư duy biện chứng khoa học. Mọi kiến giải, mọi lập luận mà phóng sự báo chí đưa ra đều dựa trên những cứ liệu có thực. Phóng sự báo chí tác động trực tiếp đến lý trí, nhận thức người đọc.
Phóng sự văn học
Cũng lấy sự chân xác và thời sự làm thước đo chuẩn mực, song không yêu cầu phải ở mức độ tuyệt đối, phóng sự văn học cho phép tồn tại những miền “không xác định”. Những địa danh, những tên người có tính chất phiếm chỉ vẫn có thể xuất hiện trong phóng sự văn học. Với phóng sự văn học, thời sự không có nghĩa là hôm nay. Những vấn đề hôm qua - những vấn đề có tính chất vĩnh hằng vẫn có thể là đối tượng của phóng sự văn học. Thiên phóng sự Buried Secrets, Brutal Truth (Bí mật chôn vùi, Sự thật tàn bạo) của Michael D. Sallah và cộng sự được đăng trên tờ The Blade (Mỹ) vào giữa tháng 10/2003 là một minh chứng. Buried Secrets, Brutal Truth đã làm rúng động dư luận thế giới bởi nó đã lật lại, đã xới tung một sự thật mà chính phủ Mỹ đã cố tình chôn vùi hơn 36 năm qua. Đó là sự kiện trung đội thám báo tinh nhuệ Tiger Force - Mãnh Hổ (Mỹ) trong suốt 7 tháng của năm 1967, bằng nhiều hình thức giết người man rợ đã thảm sát hàng trăm thường dân khu vực thung lũng sông Vệ, thuộc tỉnh Quảng Ngãi (Việt Nam). Khi nói về ý tưởng thực hiện phóng sự này, Michael D. Sallah cho biết: khai quật quá khứ chiến tranh ở Việt Nam, đưa ra ánh sáng vụ việc bị chìm vào quên lãng là “để những vụ việc như thế sẽ không bao giờ diễn ra nữa. Chúng ta hẳn không ai muốn nhiều năm sau lạ phải đọc những bài viết về một vụ thảm sát như thế tại Iraq chẳng hạn. Lịch sử luôn có cách lặp lại nếu chúng ta không biết cách xử lý ngay từ hôm nay” [4, 189]. Vì lẽ đó mà câu chuyện xảy ra hơn 36 năm về trước, đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Sau khi đăng trên tờ The Blade và đoạt giải Pulizer - giải thưởng cao quí nhất của báo chí Hoa kỳ vào năm 2004, Buried Secrets, Brutal Truth tiếp tục được đăng lại trên nhiều tờ báo danh tiếng của Mỹ. Hiện tượng Buried Secrets, Brutal Truth cho thấy khái niệm thời sự trong phóng sự văn học có thể được hiểu rộng hơn. Thời sự không hẳn là thực tại. Phóng sự văn học có thể lùi về với những vấn đề của quá khứ, song đó là những vấn đề đang làm “nhức nhối trí tuệ” cộng đồng.
Khác với phóng sự báo chí, thời sự và xác thực là yêu cầu tối thượng, phóng sự văn học “có thể thoát ra khỏi áp lực của người thật, việc thật” để mở rộng biên độ phản ánh bằng những liên tưởng, tưởng tượng giàu tính thẩm mỹ. So với phóng sự báo chí, không gian sáng ạo trong phóng sự văn học rộng rãi hơn. Ngoài hư cấu kỹ thuật - kỹ thuật lựa chọn, loại bỏ những gì được xem là thừa thãi, không cần thiết, giống như “rodin cắt bỏ phần thừa của tảng đá để tạo ra pho tượng”, phóng sự văn học còn được phép sử dụng hư cấu nghệ thuật ở những thành phần không xác định (thế giới nội tâm nhân vật, cảnh sắc thiên nhiên). Tuy nhiên, khác với tiểu thuyết và truyện ngắn, hư cấu trong phóng sự văn học không phải là sự tưởng tượng, thêm thắt vô căn cứ. Trong phóng sự văn học, trường tư duy, liên tưởng của nhà báo như “cánh diều luôn bị sợi dây giữ chặt với mặt đất”. Phóng sự văn học có thể căn cứ vào “cái lõi của sự thật” để tưởng tượng, để sáng tạo thêm những chi tiết mới miễn là không làm thay đổi bản chất của sự kiện.
Phóng sự văn học và phóng sự báo chí còn có thể phân biệt ở cách thức sử dụng ngôn từ. Để chuyển tải thông tin đến người đọc, phóng sự báo chí chủ yếu sử dụng ngôn ngữ sự kiện, trong khi đó phóng sự văn học có thể chuyên chở hiện thực bằng kênh ngôn ngữ giàu hình tượng thẩm mỹ, là lớp ngôn ngữ sống động, giàu sắc thái biểu cảm, hàm ẩn nhiều tầng nghĩa thông qua nghệ thuật sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ khá phổ biến. Được tôi luyện, nung cháy, gọt giũa qua bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ, ngôn ngữ trong phóng sự văn học trở nên mềm mại, giàu sức biểu cảm hơn. Nếu ở phóng sự báo chí, mọi sự mơ hồ về mặt ngôn ngữ sẽ không được chấp nhận thì phóng sự văn học cho phép vận dụng “ngôn ngữ của độ không xác định”, là cách diễn đạt khơi gợi, kích thích khả năng tư duy, tạo cơ hội để người đọc đồng sáng tạo. Vì vậy, phóng sự văn học không tồn tại một cách hiểu duy nhất. Ý nghĩa của văn bản sẽ được phái sinh, chuyển hoá tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức cuả người đọc. Phóng sự văn học “như con ong, chỉ chích một mũi rất nhẹ nhàng nhưng hiệu quả thì không phải là một ” [5, 252], nói một điểm nhưng ý nghĩa bao trùm nhiều chân trời của cuộc sống. Những ưu thế trên đã tạo nên đặc điểm của phóng sự văn học là tính đa nghĩa của văn bản.
Phóng sự văn học là một thể tài có cấu trúc mở, có thể kết hợp nhiều phương thức phản ánh như tự sự, trữ tình, nghị luận. Sự đan xen, phối kết của nhiều cách thức chuyển tải thông tin đem lại cho phóng sự văn học khả năng “phủ sóng” đến nhiều vùng hiện thực của cuộc sống, kể cả những vùng hiện thực được xem là nhạy cảm. Mặt khác, sự cộng hưởng, sự kết hợp uyển chuyển của các phương thức phản ánh đã qui định tính chất của cái tôi trong phóng sự. Cái tôi trong phóng sự văn học là cái tôi năng động, linh hoạt. Ở đó, cái tôi cảm xúc thẩm mỹ như một thứ gia vị không thể thiếu trong quá trình phản ánh và thẩm định hiện thực, qui định sắc diện của phóng sự văn học: sâu sắc, mềm mại, nhân văn hơn.
Bản sắc của phóng sự văn học còn được nhận diện ở nghệ thuật di chuyển điểm nhìn trần thuật. Nếu như phóng sự báo chí thường khởi động tại thời điểm hiện tại. Theo đó, sự kiện lần lượt được mở ra theo dòng chảy tuyến tính, dòng trần thuật dường như không còn chỗ dành cho những suy tư, hoài niệm thì ở phóng sự văn học trình tự trần thuật nhiều khi không tuân thủ theo diễn biến của sự kiện. Thời gian, không gian có thể dịch chuyển, hoạt biến theo ý đồ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Từ hiện tại, phóng sự văn học có thể ngược dòng hồi ức trở về với quá khứ, đôi khi lại theo dòng tưởng tượng để hướng đến tương lai. Bên cạnh đó, đường biên trần thuật còn được nới rộng bởi nhiều nhánh phụ với những đoạn, tiểu đoạn miêu tả nội tâm nhân vật, cảnh sắc thiên nhiên khá ấn tượng. Vì vậy, bức tranh con người và cuộc sống trong phóng sự văn học hiện lên khá sinh động và sắc nét.
Từ những tìm hiểu trên, có thể nhận thấy phóng sự báo chí và phóng sự văn học, ngoài những điểm giống nhau về đối tượng phản ánh, tính xác thực và thời sự, giữa chúng vẫn có một khoảng cách nhất định bởi sự khác nhau về phương thức biểu hiện. Phóng sự báo chí chỉ dừng lại ở chức năng thông tin sự kiện, “tường thuật sự việc một cách trần trụi, không văn hoa”. Còn phóng sự văn học luôn hướng đến sử dụng một số hình thức biểu đạt của văn chương nhằm tạo sức năng động cho tác phẩm, hấp dẫn người đọc. Ngoài chức năng thông tin sự kiện, phóng sự văn học còn đảm nhiệm chức năng thông tin thẩm mỹ.
Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử báo chí từ khi xuất hiện đến nay, một điều dễ dàng nhận thấy là văn học và báo chí quan hệ, gắn bó như hai người bạn đồng hành. Vì thế, sự phân biệt phóng sự văn học và phóng sự báo chí cũng chỉ ở mức độ tương đối. Thực tế, phóng sự văn học và phóng sự báo chí thường xuyên có sự chuyển hoá lẫn nhau.
[1]                    Đức Dũng, Ký văn học và ký báo chí, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội , 2003.
[2]                    Đức Dũng, Ký báo chí, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, 1992.
[3]                    Hà Minh Đức, Cơ sở lý luận báo chí đặc tính chung và phong cách, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2000.
[4]                    Michael D. Sallah, Mitch Weiss, Joe Mahr, Bí mật chôn vùi, sự thật tàn bạo, Nhà xuất bản Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2005.
[5]                     Nhiều tác giả, Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2000.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Danh nhân làng báo Việt Nam - Đào Trinh Nhất



ĐÀO TRINH NHẤT(1900-1951)
MỘT NHÀ BÁO SÁNG DANH
                                                                   
Nguyễn Đình Chú
   Đào Trinh Nhất là nhân vật đã được Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại quyển Ba ở mục Truyện ký và lịch sử ký sự mệnh danh là “một tay kỳ cựu trong làng văn làng báo Nam kỳ và Bắc kỳ”. Đặc biệt, ngày ông qua đời (23/02/1951), báo chí trong Nam ngoài Bắc đã tôn vinh, dành cho ông không ít lời tốt đẹp: “Một lão thành trong làng báo”, “Một anh tài”, “Một kiện tướng trong văn giới, báo giới”, “Một ký giả lão thành”, “Một nhà báo kiêm sử gia có tiếng”, “Học vấn uyên thâm và thiên tài về nghề báo”, “Một danh tướng trong làng báo Việt Nam”... điếu văn của chủ nhiệm báo Cải tạo, nơi ông là chủ bút thì viết: “Nhớ anh xưa: khoa bảng nhà dòng, văn chương nếp cũ/ Học nhiều biết nhiều, Tây có Nho có/ đường trường dong vó ngựa, Nam tiến bao phen. Bể rộng vượt cánh hồng, Tây du mấy độ/ Cành câu cơm áo, đường công danh dơ gót mặt đua chen/Ngòi bút sắc đanh, trường ngôn luận thích đóng vai tự chủ”.
Vậy mà thời gian ít nhiều đã lãng quên ông.
Ngay người viết bài này, gần nửa thế kỷ trước đã phục ông khi đọc Nước Nhật Bản 30 năm duy tân và Đông Kinh nghĩa thục nhưng rồi cũng chỉ ngừng ở đấy. May mắn gần đây có ông Đào Duy Mẫn, một người nhiệt tâm với thân tộc, sau khi thành công với tuyển tập Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ mà tôi cũng có tham gia trong việc giới thiệu bài Văn sách thi Đình của cụ Hoàng Giáp cách đây vài năm, nay lại làm tiếp Tuyển tập tác phẩm Đào Trinh Nhất và cũng mời tôi tham gia. Quả thật lần này, nhờ sự hỗ trợ tư liệu của ông Đào Duy Mẫn mà tôi được tiếp cận với tác giả Đào Trinh Nhất tương đối đầy đủ hơn trước nhiều thì lòng cảm phục đã tăng lên gấp bội lần.
Tôi thấy đây là một ngòi bút có tài, có tầm, có tư tưởng không dễ có nhiều ở đương thời, cần được làm sống dậy cho xứng với tác giả đã đành mà còn cần cho đông đảo độc giả, những ai đang tha thiết quan tâm đến việc kho báu văn hoá tinh thần của dân tộc giữa thời buổi hội nhập gấp gáp, sôi động chưa từng có, được nhiều mà mất cũng không ít.
Đào Trinh Nhất xuất thân với nghề làm báo. Ông từng là chủ bút hoặc bỉnh bút của nhiều tờ báo khắp Nam Bắc trong khoảng 30 năm trời. Hữu Thanh tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Trung Hoà nhật báo, Đông Pháp (phụ trương bằng Việt ngữ của tờ France Indochine), Phụ nữ tân văn, Thần trung, Công luận, Đuốc nhà Nam, Mai, Trung Bắc tân văn, Trung Bắc chủ nhật, Sài Gòn mới, Ánh sáng, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy, Nước Nam, Việt thanh, Cải tạo. Thời gian du học ở Pháp (1926-1928), ông đã viết trên Việt Nam hồn.
Không biết trong làng báo nước ta xưa nay đã có bao nhiêu người có mặt trên nhiều báo chí như Đào Trinh Nhất mà phần lớn lại là báo có thanh thế, nhiều độc giả của đương thời. So với nhiều người làm báo cùng thời, Đào Trinh Nhất có mấy điều lợi thế hẳn hoi.
- Một, ông là con của Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, từng là yếu nhân của trường Đông Kinh nghĩa thục. Cái tên trường Đông Kinh nghĩa thục là do cụ đề xuất và được chấp nhận. Cụ lại là người làm báo đầu tiên của miền Bắc: Đốc biện (tức chủ bút) Đại Nam đồng văn nhật báo, chủ bút Đại Việt tân báo là tờ báo đầu tiên ở Hà Nội một nửa bằng chữ Hán, một nửa bằng chữ quốc ngữ (năm 1905). Năm 1907, đại Nam đồng văn nhật báo chuyển thành Đăng cổ tùng báo có quan hệ gần gũi với phong trào Đông Kinh nghĩa thục, trong đó phần chữ Hán vẫn do cụ làm chủ bút. Trường Đông Kinh nghĩa thục chỉ tồn tại được 9 tháng (3/1907-12/1907) thì bị giải tán. Năm 1908, sau vụ Hà thành đầu độc binh lính Pháp, các cụ tham gia Đông Kinh nghĩa thục bị khủng bố. Cụ Đào Nguyên Phổ bị truy lùng ráo riết. Trong cơn nguy nan đó, để tránh phiền toái cho người thân và những người từng cưu mang che chở cho mình, cụ đã quyên sinh. Cuộc sống cao cả của người Cha như vậy chắc hẳn đã ảnh hưởng rất lớn đến người con, mặc dù lúc cha qua đời thì con mới lên 8 tuổi.
Đào Trinh Nhất chịu ảnh hưởng cha trước hết là về nhân cách một con người đã sống chết với chính nghĩa, với lý tưởng ích quốc lợi dân, với nhiệt tình duy tân đất nước. Và dĩ nhiên còn là ảnh hưởng về sở thích, về khả năng làm báo trong đó có ký sự, có sử học. Một đời cầm bút của Đào Trinh Nhất đã để lại rất rõ những ảnh hưởng sâu đậm đó. Đây là hiện tượng cha truyền con nối, cha thế nào, con thế ấy, khá đẹp. Đào Trinh Nhất là người con có hiếu. Có thể chưa làm được một việc lớn như cha, nhưng ít ra cũng không làm việc gì đi chệch hướng của cha.
- Hai, Đào Trinh Nhất cũng có điều này khác với nhiều người làm báo đương thời. Ấy là chỗ, có những nhà báo nổi danh, ngang hoặc hơn cả Đào Trinh Nhất như Tản Đà, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố... nhưng đến với công việc viết báo, chủ yếu vẫn chỉ bằng văn hoá Hán học, dĩ nhiên ít nhiều đã được hiện đại hoá. Ngược lại không ít người làm báo khác cũng nổi tiếng như Hoàng Tích Chu hay như các cây bút của Phong hoá, Ngày nay thì hầu hết lại chỉ có Tây học. Trong khi ở Đào Trinh Nhất là vừa Hán học, vừa Tây học. Về Hán học, với ông, ngày học trường Đông Kinh nghĩa thục đã có được một ít. Sau đó, học thêm và đã dự kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915 dù không đỗ. Về Tây học, ông là học sinh trường Quốc tử giám ở Huế mà chương trình học vừa có Hán học vừa có Tây học. Sau đó từ năm 1926 đến 1928, ông lại cùng Hoàng Tích Chu, Đỗ Văn du học Pháp, chuyên ngành báo chí. Đọc vào báo phẩm, văn phẩm của Đào Trinh Nhất, ta thấy rõ các thế mạnh, chỗ hơn nhiều người khác của ông chính là ở vốn tri thức vừa có Hán, vừa có Tây, vừa có cổ, vừa có kim. Và chính đó đã lộ tư cách học giả của ông ngay trên mặt báo chí.
- Ba, cũng còn một nét khác giữa công việc làm báo của ông so với nhiều người làm báo khác đương thời là ông ít viết theo từng bài lẻ, mà viết theo chủ điểm lớn, viết theo hệ thống, theo chuyên đề... để rồi xâu chuỗi lại là thành một công trình chuyên khảo. Không ít công trình chuyên khảo của ông được in về sau là kết quả của một trạng thái làm báo mang phong cách riêng đó.
                                                                   
Nguyenbuikhiem@gmail.com

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Chủ tịch Hồ Chí Minh với báo chí



BÁO CHÍ

Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh toàn tập)

Nói xong vấn đề giáo dục, thì tự nhiên chúng tôi nghĩ ngay tới câu hỏi: Thế còn báo chí? Những điều tôi sẽ kể về báo chí An Nam nó kỳ dị quá đến nỗi khó mà tin được. Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi. Lý do như thế này. Chính quyền Pháp quyết định rằng không một tờ báo bằng tiếng An Nam nào được xuất bản nếu không được viên toàn quyền cho phép, rằng họ chỉ cho phép với điều kiện là bản thảo đưa đăng phải trình viên toàn quyền duyệt trước đã, và giấy phép ấy họ thu hồi lúc nào cũng được. Tinh thần bản sắc lệnh về báo chí là như thế đấy. (Chúng tôi bị cai trị bằng chế độ sắc lệnh do viên toàn quyền ban bố chứ không phải bằng những đạo luật đã được thảo luận và biểu quyết ở nghị viện). Trên thực tế còn tệ hơn nữa. Mãi đến bây giờ, chưa có người An Nam nào được phép xuất bản một tờ báo cả.
Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở châu Âu và các nước châu á khác, chứ không phải một tờ do chính quyền thành lập và giao cho bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hoá và ru ngủ dân chúng. Báo đầu độc người ta như thế, thì ở Đông Dương cũng có ba hay bốn tờ đấy.
Ngay cho đến cả những tờ thông tin thuần tuý về kinh tế và thương mại, người ký giả bản xứ cũng chỉ xin được phép bằng những biện pháp quanh co. Anh ta phải thuê tiền một người Pháp có địa vị và được kính nể. Ông này đi gặp quan cai trị và xin phép cho ông ta, là người Pháp. Vì ông ta vẫn sẽ là sáng lập viên của tờ báo, mặc dầu ông chẳng biết một tiếng An Nam nào gọi là có, ông chẳng phải bỏ tiền túi ra lấy một xu nhỏ, chẳng phải đụng tí gì đến công việc của tờ báo cả trừ việc đi gặp viên quan cai trị. Chỉ việc cho mượn tên mình, người Pháp kia nhận được hằng tháng một số tiền rất hậu mà người ký giả bản xứ phải trả cho ông lâu dài, báo còn ra là còn phải trả.
Trước khi đưa đi nhà in, tất cả các bài báo phải dịch ra tiếng Pháp và đưa kiểm duyệt đã. Cấm ngặt những tờ thông tin ấy không được đả động gì đến những vấn đề chính trị hay tôn giáo, mà chỉ được đăng những tin tức thông thường, những vấn đề xét ra có lợi cho Nhà nước. Khi đất nước bị một thiên tai nào, lụt lội, bão táp, đói kém, v.v., phòng kiểm duyệt cấm báo không được cho dân chúng biết
Những tin "không vui" ấy, cấm báo không được mở lạc quyên giúp những người bị nạn. Báo không có quyền nói gì, dù chỉ bóng gió, đến việc bầu cử hội đồng thuộc địa hay hội đồng hàng tỉnh. Có một tờ, dịch ra tiếng An Nam đạo luật cấm những hành vi hối lộ trong việc tuyển cử, đã bị kiểm duyệt trắng mất nửa tờ báo mà còn bị khiển trách thêm nữa. Nhiều khi người ta cấm cả dịch đăng những bài đã đăng ở các báo tiếng Pháp xuất bản ở Đông Dương.
Các bạn chớ tưởng rằng mấy tờ báo thông tin khốn khổ ấy được tự do phân tích tất cả những cái thuộc về kinh tế. Chẳng hạn, họ không được nói đến đời sống đắt đỏ, đến việc mất mùa, đến việc buôn gian bán lậu của bọn con buôn người Âu, đến việc xoay xở tiền nong bất lương của bọn quan cai trị, đến những vụ đầu cơ đê tiện của bọn chủ đồn điền và chủ nhà máy người da trắng. Vừa rồi, người ta cấm báo chí không được đả động đến việc Chính phủ nhượng quyền kinh doanh hải cảng Sài Gòn, nếu không phải để tán dương công đức của công ty độc quyền và lòng vô tư của Chính phủ. Có một tờ cũng đã "tán dương", nhưng kém nhiệt tình, nên phòng kiểm duyệt trước hết đã theo dõi bí mật, rồi đóng cửa hẳn tờ báo ấy.
Những người vào làng Tây, được hưởng quyền công dân Pháp, có thể xuất bản báo, nhưng chỉ bằng tiếng Pháp mà thôi - ở Nam Kỳ có 5, 6 tờ báo vào loại ấy. ở các vùng khác, không có tờ báo nào, vì không có hay có ít người vào làng Tây. Trong số các cơ quan ngôn luận ấy - thường là bán nguyệt san - có hai hay ba tờ có khuynh hướng quốc gia hợp pháp. Ghép hai tính từ trái ngược nhau ấy với nhau, có thể kỳ dị đấy và cần giải thích đôi chút. Những tờ báo này là của bọn tư sản bản xứ mới lên, có địa vị là nhờ ở nền đô hộ Pháp. Nền đô hộ ấy đã sinh ra bọn này, nhưng lại không để cho họ phát triển. Vì vậy, tầng lớp tư sản nhỏ bé đó bị ngạt thở trong phạm vi chật hẹp và phụ thuộc mà quan thầy ngoại quốc - cha đỡ đầu của họ- đã dành cho họ. Và vì thế, họ hờn mát nhưng cũng nhè nhẹ thôi. Bởi thân phận nửa dơi nửa chuột của họ, chẳng thuộc hoàn toàn trong xã hội An Nam vì họ là những người vào làng Tây, mà cũng chẳng thuộc trong tầng lớp "quý tộc" Tây vì họ xuất thân ra là người An Nam - nên họ cảm thấy lúng túng trong mọi việc. Đồng thời trong mọi hành động và tư tưởng của họ, đều thấy cái mâu thuẫn xã hội và tâm lý ấy. Báo của họ chỉ trích những vụ hà lạm, nhưng lại phỉnh nịnh những kẻ hà lạm; họ than phiền về những đạo luật đè nén áp bức, nhưng vẫn cậy thế vào nước mẹ; họ mủi lòng cho số phận khốn khổ của người An Nam, nhưng vẫn ca tụng công đức mơ hồ của một nền khai hoá tốt đẹp hơn. Họ muốn chữa bệnh, nhưng lại không dám tìm và tấn công vào nguồn gốc của bệnh.
Ảnh hưởng của họ bị cản trở mọi đường:
a) Vì chính sách ngu dân như các bạn đã biết, nên độc giả chỉ có một dúm người rất hạn chế. Mỗi số phát hành không bao giờ quá một hay hai nghìn bản, ấy thế mà bán không hết.
b) Vì thái độ lừng chừng, vì không có chương trình cụ thể, không có kế hoạch rõ ràng, không có khuynh hướng mạnh dạn, nên mấy tờ báo ấy không thu hút được cảm tình của dân chúng. Họ ngả nghiêng, hay đúng hơn, lơ lửng giữa dân chúng mà họ không gần gũi được và những kẻ thống trị không ưa họ.
c) Nhà nước thuộc địa cố tâm phá phách họ. Họ bị phá bằng nhiều cách. Sau đây là những cách thông thường nhất:
1. Nhà nước báo cho công chức và nhân viên người bản xứ biết rằng cấp trên đã coi những tờ báo ấy như làm cách mạng, rằng những người nào đọc những báo đó sẽ bị ghi danh sách riêng, và dĩ nhiên là bản danh sách ấy sẽ đính theo báo cáo thăng hay giáng chức.
Có nhiều công chức đã bị bắt buộc phải đổi đi chỗ khác hay bị bắt về hưu chỉ vì đã vi phạm những điều răn đe ấy.
2. Đối với những độc giả không phải là công chức (tôi nói không phải là công chức chứ không nói tự do, vì ở đất nước chúng tôi không ai được tự do cả, trừ bọn xỏ lá ba que ra) thì viên quan cai trị cho gọi họ đến bàn giấy, ân cần khuyên bảo họ điều hơn lẽ thiệt.
Nếu họ không biết nghe những lời khuyên tử tế ấy, thì họ bị cảnh sát theo dõi. Và cứ mười lần thì có đến chín, báo chí và thư từ của họ bị thất lạc như bị phép thần. Chính phủ hãy tạm vui lòng như thế trong lúc chờ đợi cơ hội để tóm cổ họ vì lẽ này hay lẽ khác.
3. Chính phủ cho bọn chủ nhà in lựa chọn nên làm việc cho một tờ báo "tin vịt không biết điều" được ít tiền, hay nên nhận in cho Nhà nước được lợi lộc và bảo đảm hơn nhiều.
Vì thế, một tờ báo ở Sài Gòn đã buộc phải đổi chủ in nhiều lần trong một tháng.
4. Chính phủ vi phạm quyền tự do thư tín, ngay cả thư riêng của các ký giả. Những người này bị "ghi" vào sổ đen, bị theo dõi, dò la, do thám và vu cáo. Chính phủ dùng cả áp lực đối với gia đình bà con thân thuộc và bè bạn họ nữa. Chỉ nhờ địa vị có làng Tây và nhờ mánh khoé khôn khéo kết thúc mọi bình luận bằng cách nịnh hót tâng bốc hết mức nước mẹ bảo hộ, nhân từ, thiêng liêng, v.v. mà họ thoát khỏi đi tù.
Báo chí bản xứ bằng tiếng Pháp bị phá phách như vậy đấy. Những hành vi bất hợp pháp của lối trị an đê hèn ấy còn được tăng cường và bổ sung thêm bằng những điều lệ pháp lý như thế này: "Mọi việc trưng bày hay gửi đi nơi khác những bài hát, bức hoạ hay tranh ảnh trái đạo tôn kính đối với các vị đại diện của Nhà nước, sẽ bị trừng phạt bao nhiêu tháng tù và phạt tiền bao nhiêu phrăng đó, v.v.".
Chưa hết đâu. Nền văn minh của thực dân đã dùng ngọn đuốc cổ truyền thủ tiêu đến chút tự do cuối cùng của người bản xứ. Đã làm cho người bản xứ phải đần độn và câm, chúng vẫn chưa vừa lòng; chúng còn muốn họ phải điếc nữa kia. Chúng bịt tai họ không cho họ nghe tiếng vang của những biến cố bên ngoài. Chỉ đơn giản bằng một nét bút, chúng đình chỉ hẳn đời sống tinh thần của cả một dân tộc. Cũng sắc lệnh vừa kể trên định rằng: "Sự lưu hành báo và tạp chí bất cứ bằng tiếng gì, có thể bị cấm do một nghị định của quan toàn quyền". Các bạn có tin chắc rằng quan toàn quyền nhân từ chẳng sơ suất gì mà không dùng và lạm dụng quyền hành ấy. Báo chí bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Pari, gửi sang đều bị tịch thu ở Đông Dương. Sở bưu chính, sở mật thám và các cơ quan hành chính cùng nhau làm nhiệm vụ đê hèn ấy. Và người ta doạ trừng phạt những người có tên nhận những tờ báo ấy. Người ta cấm ngặt không cho đọc báo Nhật và Trung Quốc. Giữ một tờ tạp chí, một quyển sách Trung Quốc nào đó có thể là một trọng tội đối với người An Nam. Tôi biết nhiều nhà văn thân bị kết án khổ sai chung thân vì đã đọc tạp chí Trung Quốc hồn, ẩm băng và những bài cùng loại ấy của các nhà duy tân Trung Quốc. Năm 1920, có nhiều người An Nam ở Bắc Kỳ bị kết án từ hai đến năm năm tù, chỉ vì một người đã làm thơ ca tụng tự do và các người khác đã nghe ngâm bài thơ ấy./.

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

SỰ KIỆN LÀ GÌ?





(Up theo ý kiến tham gia của Mr Trần Tiến)

Báo chí là công cụ chính trị vừa rt quan trọng vừa rất phức tạp. Tư liệu báo chí đòi hỏi phải trải qua giai đoạn thu thập, xử lý, in ấn và phát hành. Hình thức tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng nội dung tư tưởng lớn. Đó là điu rất khó. Vấn đề đây là phải cân đối được tư tuởng và hình thức, chủ đề và vấn đề, sự thật và điển hình, tạo ra đuợc sự hấp dẫn từ những tư liệu đó.
V. G. Bielinxki - nhà dân chủ cách mạng Nga đã nói: Chỉ có ni dung mới đo được chân lý của tất cả các nhà thơ.
Trong báo chí, chỉ có thể thấy được giá trị của tác phẩm thông qua việc khai thác nội dung của đề tài. Uy tín của người viết và sức mạnh tác động ca tác phẩm đối với công chúng được khẳng định trước hết là cội nguồn tư tưởng. Để đảm bảo được yêu cầu này, tác phẩm phải đạt được hai yếu t cơ bản: một là tính lôgíc của sự kiện (được lựa chọn từ cuộc sông thực của nhân dân), hai là tính logic về tư tưởng (thế giới quan và nhân sinh quan của người viết).
Xécgây Kônenkôp - một hoạ sĩ lớn, một nhà điêu khắc lớn cùa nhân dân Nga đã viết: Khi không có tình cảm sâu sắc và nóng bỏng trước hiện thực cuộc sổng, người họa sĩ s tỏ ra thờ ơ. Hiện nay quả là có nhiều vấn đề đã không được chú ý. Đ sáng tạo mỗi người cn phát huy năng lực tiên đoán, phán đoán ca mình. Nếu ai không nhận thức được thời gian mà mình đang sng, người đó s dm chân tại ch. Người hoạ sĩ đồng thời phải là nhà triết học, để không lặp lại những gì đã có mà bằng tài năng và sức lực của mình, phục vụ nhân dân.
Đối với nhà báo thì công việc cn thiết đ xây dựng tác phẩm, trước hết là quan sát cuộc sống, chọn la và phân tích sự kiện. Khi phân tích sự kiện, cần chọn được những tình tiết đặc sắc nhất, tiêu biu nhất đ sử dụng cho tác phẩm tương lai. Đó là các sự việc. Vậy thì sự kiện và sự việc có cái gì khác nhau?
Từ điển tiếng Việt viết: Sự kiện sự việc có ít nhiều ý nghĩa quan trọng đã xảy ra; còn sự việc là cái xảy ra được nhận thức có ranh giới rõ ràng, phân biệt với những cái xảy ra khác[1]. Ta có thể hiu rằng một sự kiện có thể cha đựng nhiều sự việc. Nghĩa là xét v mc độ có sự khác nhau nhất định. Trong quá trình nghiên cứu cần tìm ra bản chất của sự việc.
Bản chất, hiểu một cách ngắn gọn là những thuộc tính bên trong của sự vật. Khi thuộc tính đó được thể hiện ra bên ngoài gọi là hiện tượng. Thông thường trong hoạt động sáng tạo ca mình, nhà báo bt đu tìm hiểu các sự việc riêng rẽ đến tổng thể các sự việc (sự kiện) và khám phá bản chất của chúng. Để tìm thấy bn chất của sự kiện, chắc chắn nhà báo phải nghiên cứu tng sự việc riêng lẻ. Hãy nêu một giả dụ: Khu chợ bốc cháy, thiệt hại lớn. Đó là một sự kiện. Nhưng nguyên nhân của sự kiện này chắc chắn có liên quan đến nhiều sự việc khác. Nếu chợ bị cháy vì chp điện chẳng han, có thể liên quan đến các sự việc như thỉết kế đường điện sai hoặc thi công sai, hoặc người sử dụng điện sai, hoặc kẻ nào đó có chủ mưu phá hoại. Bản chất của vấn đề nằm trong những sự việc rng lẻ này.
Khám phá ra bản chất của sự kiện, hiện tượng để thông báo trên phương tiện truyn thông đai chúng là công việc ca nhà báo.
Như vậy là sự việc và nội dung của sự việc là cái chủ yếu, cái cơ bản nhất trong báo chí. Nó xác đnh phương hướng, tư tưởng và tính chất của bài báo. Nội dung là yếu tố thứ nhất, hình thức là yếu t thứ hai. Thể loại và phong cách ngôn ngữ bài đăng là khuôn mẫu hình thức cùa tác phẩm. Hình thức bài báo phụ thuộc vào nội dung, tính chất và đặc điểm của sự việc. Căn cứ vào các yếu tố đó để tác giả lựa chọn cách trình bày bố cục. Điều này còn phụ thuộc vào năng lc sáng tạo và ý đ của tác giả. Thông báo tin tức hay đánh giá sự kiện, trình bày quan điểm thẩm mỹ cá nhân hay chế nhạo cái xấu, cái lạc hậu...
Mỗi nội dung sự việc và ý đồ tác giả khác nhau đều có nhũng hình thức thể loại phù hợp để xây dựng tác phẩm. Kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo độ chính xác của tư lỉệu trước khi công bố là trách nhiệm của mỗi nhà báo đối với tác phẩm ca mình. Những tư liệu được công bố thiếu chính xác sẽ tạo ra loạì tin đồn nhảm, “tin vịt”. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất lòng tin của công chúng đối với nhà báo và cơ quan báo chí, đồng thời vi phạm nguyên tắc tính chân thật của báo chí và cũng là một trong những tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay.
Sự việc là nhân của thông tin. Thông tin là phạm trù chính trị, là phương tiện lãnh đạo, là công cụ giáo dục và kiểm tra. Các nhà khoa học về truyền thông đã xác đnh như vậy. Định nghĩa này đã chỉ ra vai trò và ý nghĩa xã hội của thông tin, thấy được rằng thông tín là một bộ phận quan trọng ca công tác tư tưởng, có tác dụng hình thành và hướng dẫn dư luận.
Đặt khái niệm sự việc và sự kiện thành đối tượng nghiên cứu của khoa học truyền thông tức là đặt vấn đề cho một ngành lý luận sáng tạo. Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực hành báo chí đang rất quan tâm đến vấn đề này.


Nguyenbuikhiem@gmail.com


[1] Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Việt Nam, H., 1992, tr. 862. 863.