Khiemnguyen

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Suy nghĩ và hành động (1)



NỊNH

(Từ Suy nghĩ đến hành động)

Cô con gái cưng Eleonora của Mác hi cha: “Cha ơi, thóỉ xu đáng ghét nhất của con người gì?. Mác trả lời ngay không một chút do dự: “thói nịnh hót”. Không riêng gì Mác, mọi người chân chính từ xưa tới nay đều có ý kiến tương tự như vậy. Vua Pỉe đệ nht của Nga thường nói: “Thà tôi có một kẻ thù trắng trợn còn hơn có một nịnh thần bịp bợm. Nhà dân chù Ô gút Bê-ben thì gọi những kẻ nịnh là: “bọn ch quen vẫy đuỏi mừng trưc chủ...
Tại sao thói nịnh hót bị người ta ghét như thế?
Bin hiện của thói nịnh hót rất phong phú. Loại nịnh ph biến nht, thường gặp nhất là dùng lời nói đ tâng bc người khác một cách quá đáng, có khi hèn hạ nhm mục đích cầu lợi. Trong cảc xã hội cũ, đi tượng đ kẻ nịnh tâng bốc thưng là những người giàu có, những người có quyền thế trong xã hội. Còn trong xã hội ta, đi tượng đ k nịnh tâng bc chủ yếu lả người có chức, có quyền. Anh là thủ trưởng của kẻ nịnh ư? Thế thi anh lập tức trở thành con người “toàn thiện toàn mỹ. Mọi lời nói, cử ch, hành động của anh đều tr thành chuẩn mực. Nếu anh nói dài, lượng thông tin trong bài nói của anh quá nghèo nàn thỉ kẻ nịnh s bảo rằng anh phát biểu sâu sắc, phong phú; rằng những ý kiến anh nêu ra mang tính khoa học và có giá trị chỉ đạo, làm cho mọi người “sáng ra. Nếu anh nói cụt lủn, ấp a, p úng, chẳng ai hiểu anh muốn nói gì, thì k nịnh s bảo rằng anh phát biểu ngn gọn, súc tích và dễ tiếp thu. Nếu anh thô bạo, kẻ nịnh sẽ nói rằng anh thái độ nghiêm khắc cần thiết của người lãnh đạo; anh mềm yếu rụt rè, kẻ nịnh sẽ bảo anh tế nhị, độ lượng. Nếu anh ăn mặc cầu kỳ, xa hoa, kẻ nịnh s bo rằng anh lịch sự; anh ăn mặc cầu thả, lôi thôi lếch thếch, kê nịnh sẽ bảo rằng anh giản dị, tiểt kiệm… Những ưu đim, sở trường ca anh kẻ nịnh sẽ “bc lên theo cp số nhân, những khuyết điểm, nhược điểm của anh, kẻ nịnh sẽ “hóa phép” biến tất cả thành điều hay, lẽ phải.
Một loại nịnh khác là, cùng với việc dùng lời nóỉ, người nịnh còn có những cử chỉ và hành động thích hợp. Thông thường thì k nịnh hay khúm núm, xun xoe trước đi tượng mà hẳn thấy cần thiết phải nịnh. Anh là thủ trưởng của hẳn? Thế thì khi gặp hắn, anh chỉ việc hng h chìa bàn tay tráí của minh ra, kẻ nịnh s dùng c hai bàn tay ca hắn ôm chặt ly bàn tay anh, mắt sáng long lanh sung sướng, đầu hắn hơi cúi xung, lưng hẳn hơi khom lại, hai đầu gối hơi chùng vớì tư thế nửa đứng na quỳ và kèm theo là lời chào tăng bc ngọt ngào. Những cử chỉ và hành động ca kẻ nịnh khi thì biu lộ một cách công khai, trắng trợn; khi thì biểu lộ một cách kín đáo, tinh vi, phải chú ý quan sát, phân tích mới thấy hết được ý nghĩa của nhng cử chỉ và hành đng đó.
Như thể vẫn chưa đủ, còn có một loại nịnh cao hơn. Đó là những k khỏng ch dùng lời nói, cử chỉ và hành động mà còn dùng c vật chất đã ly lòng đối lượng mà hẳn thấy cần phải nịnh. Nếu anh là đối tượng chủ ý ca kẻ nịnh thì thế nào anh cũng nhận được những món quà biếu đặc biệt của hắn: khi thì mấy cân nếp mới hoặc vài cân gạo tám; khi thì cân nhãn lng Hưng Yên hoặc chục xoài Nam Bộmùa nào thức y. Nếu kẻ nịnh dưới quyền anh cũng là kẻ chc có quyền một chút  - là chánh văn phòng, là trưởng phòngy, trưởng ban nọ chẳng hạn - thì hoạt động ca hn còn đa dạng hơn nhiều. Hẳn s móc tiền móc của Nhà nước, ca tập th đ nịnh anh. Hẳn đoán rất đúng những ý muốn và sở thích của anh. Hn biết rt những gì là tiêu chun anh được hưởng và những gì anh muốn có thêm. Hắn sẽ đáp ứng đến mức tí đa những thứ mà anh aơ ước. Anh muốn qt vôi lại cái nhà hay xây thêm cái bếp? Anh muốn đứa con sau khi tốt nghiệp đại học được công tác Hà Nội hay muốn đứa con nhỏ được học trường gần nhá? Anh anh muốn gì cứ nói. Kẻ nịnh sẽ cố gắng đáp ng yêu cầu của anh, mặc dù hẳn biết làm như thế sai nguyên tắc.
Những kẻ nịnh thường là những kẻ hay xúc xiểm và nói xu người khác, Bởi thế ngôn ngữ dân gian mới có từ kẻ xiểm nịnh. Họ đă nịnh anh thì thế nào họ cũng tìm được những đối tượng mà anh không ưa thích để nói xu. Phải dùng nghệ thuật phù điêu, phải dùng sự so sánh như thế thì li nịnh của họ mi cỏ giá trị. Họ khen anh thông minh, lịch sự, độ lượng... thì th nào họ cũng chê người mà anh không thích lả ngu đn, thiếu văn hóa và hẹp hòi.
Nếu cho rằng những kẻ nịnh ch nịnh cấp trên thôi thì chưa đủ. Nhiều khi họ nịnh cả đng cp và cp dưới. Sp đến kỳ xét lương, sắp bầu cấp ủy mới, cơ quan sắp lấy ý kiến của quần chủng về việc đề bạt cán bộ... toàn những việc hệ trọng cả. Những kẻ nnh đánh hơi các khoản ấy tình lắm. Họ thừa hiểu rng muốn vào được cấp y thi phải có sự tín nhiệm của đa số cán bộ, muốn được đề bạt, muốn được nâng lương sớm thì cũng phải cò sự ng hộ của quần chúng. Đưc lòng cp trên không thôi thỉ chưa đ. Thế là họ mở chiến dịch lấy lòng tất cả mọi người, tìm mọi ch tranh thủ sự ủng hộ ca đông đo quần chúng.
Cần phân biệt nịnh với quý mến và kính trọng. Chúng ta kbông phủ nhận sự quý mến kinh trọng thật sự thường thấy trong quan hệ giao tiếp giữa người người. Không phải cứ khen nhau, tôn trọng nhau, tặng nhau, giúp nhau thử này thứ khác đu là những hiện tượng xu nịnh cả. Chúng ta không vơ đũa cả nắm không hồ đồ và thin cận như vậy. Trong cuộc sống. sự quý mến và tôn trọng nhau một ch chân thành sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau; quan tâm lẫn nhau, tặng nhau, giúp nhau khỉ cái này, khi cái khác là những chuyện tỊhirờng tinh, những điều cần thiết. Đóthể hiện của sự quý mến và kính trọng tht sự; là những nét rất đẹp trong truyền thống đạo đức của dân tộc ta. Chúng ta chỉ phê phán thói nịnh hót được np dưới chiêu bài quý mến và kính trọng. Bởi vì đó lá sự giả di. Trong thực tế, những kẻ nịnh thường nấp dưới chiêu bài quý mến và kính trọng khi nịnh người khác, cho nên d làm cho nhiều người ngộ nhận. Không phải họ nnh anh tc là họ quý mến hay kính trọng anh đâu. Khi nào anh hết vai trò quan trọng đối với h, hoặc anh tht thế thì họ sẽ hững hờ, lạnh nhạt với anh ngay; thậm chí họ có th quay ngoắt 180 độ đi với anh cho mà xem.
Thói nịnh hót gây ra tác hại không nh, thậm chí nó dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, h làm cho chính kẻ nịnh mất hết bản lĩnh, mẩt hết nhân cách, trở thành tha hóa, biến chất, bị mọi người khỉnh bỉ và làm cho người được nịnh không đánh giá đúng minh, sính ra chủ quan, tự mãn, dễ mắc khuyết điềm, sai lầm. Nó un lệch nhận thửc của nguời được nịnh. Nếu người được nịnh đó là những cán bộ lãnh đạo, cán bộ qụản lý thì có th sẽ làm tn hại đến công việc chung như: đánh giả sai lệch đội ngũ cán bộ dưới quyền mình, người tốt không được sử dụng, kẻ xu lộng nh, chinh sách cán bộ không được bảo đảm... Thói nính hót còn là một trong những nguyên nhân gây ra tinh trạng mt đoàn kẽt nội bộ, tạo ra sự chia rẽ, bè phái, làm suy yếu tổ chức.
Nịnh và ưa nịnh là hai mặt ca một vấn đề. Kẻ nịnh hót và kẻ ưa nịnh hót là tiền đ tồn tại của nhau. Có kẻ nịnh bởi vi có người ưa nịnh, có người ưa nịnh bởi chưng có kẻ nịnh thần. Sự tồn tại của cả hai hiện tượng nịnh và ưa nịnh chng t một điều lả do chúng ta tu dưỡng kém, do việc tự phê bình và p bình không được đẩy mạnh trong các tố chc đoàn th, trong các tồ chức kinh tế cũng như trong các tồ chức quần chúng khác. Thường có tình trạng là mọi người có th tự nhận mình có khuyết đim này khuyết điểm khác; nhưng ít ai dảm dũng cảm nhận mình thói nịnh hót hoặc ưa nịnh. Khi phê bình người khác cũng vậy, dường như chúng ta đều cảm thấy có gì k nói khi phê bình đồng chí mình, bn minh là có thói nịnh hót hoặc thích được nịnh hót.
Muốn hạn chế thói nịnh hót, chúng ta phải đẩy mạnh hơn na việc đu tranh tự phê bình và phê bình; phải tạo nên dư luận xã hội rộng rãi lên án thói nịnh hót và thói ưa nịnh. Các tồ chức đoàn thể, các tổ chức kinh tế cũng như các tổ chức quần chúng khác phi có những hình thức kỷ luật thích đáng đi với những kẻ nịnh hót và ưa nịnh./.
  
                                                                                Nguyenbuikhiem@gmail.com



Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

UGC là gì?


UGC – XU HƯỚNG TRUYỀN THÔNG HIỆN ĐẠI
                                                                    
                                                 Gửi Phạm Kiên, Trung Thu và Lana.ajc…
 Cả một buổi trưa chém gió về những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động của báo chí với một ông đang có dấu hiệu ngộ độc chữ nghĩa với những ý tưởng “điên rồ” về nghiệp vụ báo chí, hai thằng đã tìm được tiếng nói chung về UGC - một phong cách làm báo được coi là một xu hướng của truyền thông hiện đại và củng cố được sự ra đời của một chuyên mục trên VTV.
Copy được bài này, up lên để các bạn ngâm cứu thêm:
Thuật ngữ User Generated Content (UGC) - Người dùng tạo ra nội dung -  được đề cập cùng với sự bùng nổ của Internet được hiểu là những website cho phép tương tác hai chiều từ nhà cung cấp dịch vụ website với người sử dụng và ngược lại. Đơn vị sở hữu website chỉ đóng vai trò cung cấp kho lưu trữ, tính năng và giao diện, còn phần nội dung sẽ được người sử dụng tạo nên. Các loại dịch vụ website theo mô hình này phổ biến nhất hiện nay như: diễn đàn, webblog, website chia sẻ video, hình ảnh, âm nhạc…
Qua rồi cái thời thông tin Internet chỉ có một chiều từ nhà cung cấp website đến người truy cập. Người dùng Internet giờ đây đã có thể dễ dàng thể hiện quan điểm, sở thích của mình bằng những bài viết, hình ảnh, âm thanh, video…, qua đó tạo nên nội dung web hiện đại.
Vài năm trước, sau những diễn đàn với qui mô nhỏ bó hẹp trong một nhóm người dùng, blog 360 của Yahoo! chính là cầu nối đưa cư dân mạng Việt Nam chập chững bước vào thế giới ảo để rồi thu hút hàng triệu người dùng ở thời điểm hiện nay.
Những bài viết (entry) trên các blog không còn đơn thuần là nhật ký cá nhân nữa khi nằm trong những mối quan hệ, sự quan tâm của cả cộng đồng blogger Việt rộng lớn. Những thành công vang dội của các website theo mô hình UGC trên thế giới cũng như dịch vụ blog 360 của Yahoo! tại Việt Nam đã tác động rất nhiều đến xu hướng web Việt hiện nay.
Sau dịch vu blog 360 của Yahoo!, thế giới blog lại càng thu hút nhiều hơn người dùng và sự quan t âm của xã hội. Nhận biết được sức mạnh cộng đồng của mô hình UGC, hàng loạt mạng xã hội Việt Nam đã xuất hiện: VietSpace, YoBanBe cung cấp việc tạo các trang cá nhân và blog theo kiểu truyền thống; CyWorld là một xã hội ảo; CyVee lại hướng tới người dùng chuyên nghiệp... Tất cả đang tạo nên một xu hướng cho người dùng web tại Việt Nam.
Với người sử dụng, khi tham gia một website UGC, họ có thể sử dụng tài nguyên của hàng triệu thành viên, cụ thể là hàng triệu video clip, bản nhạc, hình ảnh, ý kiến… Còn với nhà cung cấp là tạo lập được một cộng đồng người dùng Internet gắn bó mật thiết với website của họ. Vì hầu hết các thành viên sau khi chia sẻ tài nguyên thường quay lại xem những thành viên khác bình luận, đánh giá nội dung mình chia sẻ như thế nào.
Mặt khác, qua những lần chia sẻ thì chính thành viên đó đã xây dựng được các mối quan hệ, thậm chí “thương hiệu ảo” của mình trên mạng. Vì thế mức độ trung thành của người sử dụng  với các website UGC cao hơn rất nhiều so với các website tương tác một chiều. Độ lớn của cộng đồng, mức độ hoạt động và lòng trung thành của các thành viên trong cộng đồng chính là nền tảng đem lại thành công của website UGC.

Nguyenbuikhiem@gmail.com

Đối tượng nghiên cứu của Báo chí học (phần 1)




ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA BÁO CHÍ HỌC

(Phần 1)

Những năm gần đây, nhiều người cho rằng khái niệm truyền thông và khái niệm báo chí dường như là đồng nghĩa. Trước đây, khi chúng ta nóì báo chí, cũng có nghĩa là nói đến các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các hãng thông tấn. Nhưng ngày nay, khi mở cửa giao lưu với thế giới, khái niệm truyền thông được sử dụng tương đối phổ biến, nhiều người vẫn nghĩ rằng nói truyền thông chỉ là một cách nói khác đi của báo chí. Đã có một số văn bản viết là truyền thông đại chúng (gọi tắt là báo chỉ). Thực ra cách nói này không thật chính xác, vì khái niệm truyền thông đại chúng có nghĩa rộng hơn khái niệm báo chí rất nhiều. Nói đến truyền thông tức là nói đến tất cả mọi hình thức trao đổi thông tin giữa con người với con người, trong đó có cả báo chí, thậm chí báo chí là một kênh rất quan trọng của truyền thông đại chúng. Nhưng ngoài báo chí ra, truyền thông đại chúng còn bao gồm cả các phương tiện và hình thức khác như điện ảnh, nhà xuất bản, các dịch vụ tin tức, intơnét và vệ tinh, các cuộc hội thảo, các hình thức vận động quần chúng v.v.. Có những hình thức truyền thông như báo cáo viên nói chuyện trực tiếp với công chúng không thông qua một phương tiện hỗ trợ nào. Chúng ta có thể hình dung lĩnh vực truyền thông đại chúng như một cái hình tròn, trong hình tròn đó chứa đựng một hình tròn bé hơn. Hình tròn bé hơn đó chính là báo chí.
Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã nêu một ví dụ đơn giản nhất ví truyền thông là một cuộc hội thoại thường ngày. Một người phụ nữ khi gặp một người đàn ông đã nói: Chào anh! Cô ta là nguồn; mục đích của cô ta là tạo mối liên hệ. Thông điệp là Chào anh!, kênh truyền phải là lời nói, và người đàn ông mà thông điệp gửi đến là người nhận. Khi người đàn ông nghe thấy lời chào và đáp lại, truyền thông đã xẩy ra. Hiệu quả là một sự thân tình được đón nhận, anh ta mỉm cười và đáp Chào em! Em cố khoẻ không?”. Đây là phản ứng cùa anh ta; nó trở thành yếu tố phản hồi với người phụ nữ và quá trình truyổn thông đơn giản đã hoàn thiện.
Đây dường như ỉà một sự phức tạp hoá một tình huống giao tiếp đơn giản, nhưng nếu chúng ta hiểu được các thành phẩn trong quá trình truyền thông đơn giản này thì sẽ hiểu quá trình truyẻn thông đại chúng một cách dễ dàng hơn.
n báo chí ỉà những phương tiện thông tin đại chúng có đặc điểm trước hết là một quá trình truyền thông phi cá nhân, nghĩa là không thể phát hành một tờ báo hay một chương trinh phát thanh, truyền hình bằng kết quả lao động của chỉ một người. Đã từ lâu, các nhà báo cách mạng Việt Nam xác định báo chí là người tuyên truyền tập thể, người cổ động tập thể và người tổ chức tập thể. Về đối tượng tiếp nhận thông tin báo chí cũng mang tính chất đại chúng, nghĩa là số luợng người cùng tiếp nhận một nguồn tin thường là đông đảo. Nhưng số lượng độc giả, khán giả, thính giả thường thay đi và ít có hội để có thông tin phản hi. Đẽ thực hiện một quá trình truyền thông bằng báo chí, nhất định phải cần đến các công cụ như máy móc, mực, giấy để in ấn, phương tiện đ ghi hình, ghi âm và phát sóng ...
Khi đã xác định được rằng báo chí là một kênh quan trọng của truyn thông đại chúng, muốn cho báo chí hoạt động có hiệu quả, chúng ta nhất thiết phải quan tâm đến báo chí học - một ngành khoa học dù còn non trẻ ờ nước ta nhưng có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến hệ thổng báo chí thực tiên (nghể làm báo), đc biệt là trong công tác đào tạo người làm báo tương lai các trường đại học.
Kết quả hoạt động thực tin của báo chí có thể đạt đến sự đồng nhất trong việc cung cấp những thành quả nhất định trong một xã hội nhất định. Chúng ta có thể trình bày quan niệm này một cách rõ ràng hơn: Những thành quả mà báo chí đem lại cho xã hội hiện nay thể hiện ở chỗ báo chí phản ánh hiện thực khách quan mà trong đố chứa đựng những giá trị mới mẻ. Những giá trị này một mặt tác động trực tiếp đến công chúng, mặt khác, những nhân viên làm công tác truyền thông vận dụng chúng để kết hợp với những hiểu biết của mình như vấn đề nhân chủng học, dân số học, đặc điểm tâm lý từng vùng, min... tạo ra những thông tin mới phù hợp với từng đối tượng phục vụ cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của công tác truyền thông. Có thể coi đó là giá trị thực tin của thông tin báo chí đối với giới truyền thông. Ví dụ như giới truyn thông khai thác thông tin báo chí để vận dụng vào công việc cụ thể trong tiếp thị, vận động quần chúng, nghiên cứu thị trường... Nói cách khác là giới truyền thông sẽ căn cứ vào những mô hình hiện thực của xã hội để khai thác thông tin báo chí và vận dụng một cách hợp lý.
Trong quá trình tái tạo hiện thực, h thống ứng dụng của báo chí (tức nghề làm báo) thường chú trọng phản ánh những ch đề có thể thu hút sự chú ý của công chúng. Đó chính là sự biểu hiện của tính thường xuyên trong hoạt động báo chí. Vn đ này đặt ra cho hệ thống báo chí học nhiệm vụ tìm hiểu xem tính thường xuyên nào là cơ bản trong việc tìm kiếm những yếu tố có thể tạo nên sự chú ý. Đây cũng chính là mối quan tâm của khoa học truyền thông. Vì thế khoa học truyền thông luôn luôn liên quan đến thực tin nghề làm báo.
Qua việc báo chí học nghiên cứu để tạo lập lý thuyết và định hướng cho hoạt động thc tin của nghề báo, tính thường xuyên sẽ được phát hiện và lý giải. Sự lý giải này gắn bó với nghề làm báo như là một hoạt động tái tạo nằm trong tính thường xuyên của khoa học xã hội. Tuy nhiên hiện tượng này không thể hiện đều nhau trong các ỉoaị hình báo ciúv Quan niệm trên đây không có nghĩa là có sự đồng nhất giữa thực hành báo chí và báo chí học mặc dù cả hai lĩnh vực này đều có nhiệm vụ nghiẻn cứu về khả năng tái tạo hiện thực. Bởi vì báo chí học quan tâm trước hết đến những yếu tố có khả năng quyết định đến sự xuất hiện cùa nội dung. Còn điều kiện để tạo nên một cơ cấu hợp lý ca các cơ quan báo chí. Và kết quả của quá trình gây ảnh hưng tới hành vi ca các phương tiện thông tin đại chúng chỉ có thể nói tới trong từng trường hợp cụ thể.
Từ đó chúng ta sẽ thấy rằng giữa khoa học truyền thông và báo chí học có sự khác nhau. Trong khi khoa học truyền thông tập trung sự chú ý vào điểm đầu, nơi luôn luôn có sự biểu hiện hành vi của cơ quan hoặc của người chủ có vai trò làm xuất hiện nội dung. Điều này tạo nên ranh giới giữa công tác nghiên cứu về người làm truyền thông và các lĩnh vực khác của khoa học truyền thông, ví dụ như nghiên cứu về tác động cùa truyền thông.
Nguợc lại, báo chí học với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu thường hướng tới các quy tắc, cơ cấu, chức năng và địa vị ca các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình. Điểu đó có nghĩa là báo chí học giống như cầu nối giữa khoa học truyền thông và báo chí thc tiễn.
Để làm sáng rõ hơn về đối tượng của báo chí học, chúng ta hãy tìm một ví dụ trong thực tiễn có tính phức tạp, như báo chí viết về các lĩnh vực khoa học chẳng hạn. Đây là một lĩnh vực tương đối khó đối với nhà báo. Sự ngăn cách về sự hiểu biết các chuyên ngành sâu thường cản trở công việc của nhà báo, trong khi đó nhiệm vụ của báo chí là phải đơn giản hoá các công thức, bảng biểu và các thuật ngữ chuyên môn của các nhà khoa học thành ngôn ngữ đại chúng để độc giả có thể hiểu được. Vì thế nghiên cứu về lĩnh vực này là điều cần thiết cho công tác giảng dạy.
Việc nghiên cứu về báo khoa học, trước hết phải tìm hiểu và nắm chắc phạm vi đề tài, soi sáng cấu trong mối liên hệ giữa nhà khoa học và nhà báo, phân tích có hệ thống phạm vi tìm kiếm thông tin của nhà báo trong hoạt động cùa các nhà khoa học. Bằng cách đó ta có thể nhận biết được những gì đã làm trở ngại đến việc tìm kiếm thông tin và loại bỏ nó.
Nhiệm vụ của báo chí học trong lĩnh vực này còn phải chỉ rõ xem ở khâu nào sự lựa chọn tin tức thường bị thất bại, nhằm giúp các phóng viên trong việc phát triển cách chọn lựa thông tin phù hợp. Khi nghiên cứu về báo chí khoa học phải nắm bắt và hệ thống hoá các phương pháp thu thập, xử lý và chuyển tải thông tin cùa người làm báo khoa học. Bởi vì báo chí khoa học có những đặc thù mà không thể ứng dụng phương pháp phổ thông như trong các lĩnh vực khác.
Những nội dung mang tính quy phạm như trên vẫn chưa thể gọi là đầy đủ vì còn thiếu một phần kết về lý thuyết, tương tự như phần quan trọng mang tính thực tiễn. Bởi vì yêu cầu cùa công tác đào tạo là chí ít thì khi ra trường, người làm báo cũng phải có đủ khả năng để diễn đạt ý tưởng của mình thành văn bản. Đó chính là những khuôn mẫu mang tính chế định mà trong thực tiễn báo chí gọi là phương thức diễn đạt bao gồm nội dung và các hình thc thể hiện qua phương tiện thông tin. Những vấn đề này vô cùng quan trọng đối với người làm báo, nhưng là vấn đề quyết định ca công tác đào tạo.
(còn nữa)

Nguyenbuikhiem@gmail.com