Khiemnguyen

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

So sánh ký văn học và ký báo chí




Cùng với sự phát triển của xã hội, báo chí ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống, bởi nhu cầu về thông tin xã hội của người dân ngày càng lớn. Sự phát triển của báo chí được đánh dấu một phần bởi sự phong phú và đa dạng khi thể hiện tin, bài dưới nhiều hình thức, các vấn đề được đề cập dưới nhiều góc độ, mức độ giúp cho độc giả có điều kiện tiếp cận thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau.
Báo chí và phương pháp đào tạo báo chí là vấn đề đang được báo chí hiện nay quan tâm và tranh cãi. Dư luận giới truyền thông đang đứng trước 2 luồng quan điểm trái ngược nhau: nên hay không nên đào tạo báo chí theo kiểu phân chia thể loại? Vấn đề này thực ra vẫn chưa có giải pháp thoả đáng. Vì cho đến giờ phút này, riêng về việc phân chia thể loại đã có rất nhiêu ý kiến và quan điểm khác nhau. Vấn đề thể loại và phân chia thể loại báo chí vẫn là vấn đề được quan tâm nhất trong giới lí luận truyền thông.
Giải quyết vấn đề
1.Thể loại báo chí
Thể loại báo chí là một trong những hiện tượng phức tạp của hoạt động báo chí. Hiện nay, vẫn còn nhiều tranh luận về khái niệm này cả ở trong nước lẫn ngoài nước và chưa hoàn toàn thống nhất.
Trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống đều có sự phân nhóm giữa các yếu tố cấu thành nên nó bởi những thuộc tính riêng biệt. Đó được gọi là sự phân chia thể loại. Từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô 1985 định nghĩa:“ Thể loại là khái quát hóa những đặc điểm của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc tính về nội dung, hình thức và cách thể hiện tác phẩm của một thời đại, một giai đoạn, một dân tộc, hay một nền nghệ thuật thế giới .”
Theo tác giả Đinh Hường “ thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang tính chính trị tư tưởng nhất định”. Còn tác giả Tạ Ngọc Tấn cũng quan niệm: “ thể loại tác phẩm là một khái niệm để chỉ tính quy luật loại hình cuả tác phẩm báo chí”.
Sự phân chia thể loại dựa trên tiêu chí lựa chọn những đối tượng có chung những đặc điểm nội dung, hình thức,… những đặc điểm này thể hiện rõ ràng, dễ nhận thấy, và khi gộp nhóm những đối tượng có chung những đặc điểm ấy lại có thể phân biệt được chúng với những nhóm đối tượng khác dựa trên những đặc điểm chung của cả nhóm. Việc phân chia nhóm vào các thể loại nói trên chủ yếu dựa vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại và cũng chỉ mang tính tương đối
Mỗi tác phẩm báo chí thường được xếp vào một thể loại cụ thể dựa trên các tiêu chí như: tác phẩm đó có dung lượng như thế nào, nói về vấn đề gì, cách thể hiện vấn đề của người viết, cảm xúc của người viết có được gửi gắm trong bài viết hay không?
Báo chí nói chung được chia thành các nhóm thể loại như: tin, phỏng vấn, tường thuật, bài phản ánh, xã luận, bình luận, tiểu luận, phê bình và giới thiệu tác phẩm, điều tra, điểm báo, thư của ban biên tập, ký và các thể loại trào phúng.
Ranh giới giữa các thể loại vẫn chưa được xác định một cách thật sự rõ ràng, vẫn còn tồn tại sự giao thoa giữa chúng. Ngoài ra, những dấu hiệu chung thì thì việc phân chia thể loại báo chí có thể dựa trên những dấu hiệu như:
* Đặc thù của đối tượng mô tả
* Chức năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí
* Chiều rộng của sự phản ánh hiện thực và phạn vi của sự tổng kết và các kết luận
* Phương tiện tái hiện hình ảnh và mức độ truyền cảm
Việc sử dụng đúng thể loại báo chí là rất quan trọng, nó giúp cho nhà báo có thể thể hiện một cách chính xác nội dung, lựa chọn đúng cách trình bày tác phẩm báo chí của mình để nó đến với công chúng một cách có hiệu quả nhất
Để bài biết có thể truyền tải thông tin một cách tích cực nhất lại phụ thưộc không nhỏ ở chỗ người viết lựa chọn cách thể hiện nào để đăng tải thông tin ấy. Chính vì vậy việc nắm bắt chính xác các thể loại báo chí là rất quan trọng đối với những người làm báo.
 Phân biệt thể loại báo chí là một vấn đề lớn, nhiều phức tạp và còn gây nhiều tranh cãi. Trong lí luận và thực tiễn thì việc phân biệt và nắm rõ các đặc điểm của thể loại báo chí là rất quan trọng, đặc biệt là trong chương trình đào tạo sinh viên báo chí cũng như vận dụng những kiến thức về thể loại trong hoạt động sáng tạo của nhà báo.
Khi nắm rõ cách phân biệt các thể loại báo chí thì người làm báo sẽ có cách tiếp cận vấn đề và cách viết mang lại hiệu quả cao nhất, truyền tải thông tin nhiều nhất và thu hút người đọc. Có rất nhiều cách phân chia thể loại báo chí. Tuy nhiên, trong bài tiểu luận này xin tiếp nhận cách phân nhóm các thể loại báo chí đó là: Nhóm các thể loại báo chính chính luận; Nhóm các thể loại báo chí thông tấn; Nhóm các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật.
Bốn đặc thù của thể loại báo chí
- Thứ nhất, các thể loại khác nhau theo đặc thù của đối tượng được phản ánh.
- Thứ hai, các thể loại khác nhau theo mục đích, chức năng, nhiệm vụ sáng tạo của tác phẩm báo chí
- Thứ ba, các thể loại báo chí phân biệt nhau ở mức độ nắm bắt hiện thực, ở các kết luận và khái quát hoá vấn đề cần phản ánh trong tác phẩm.
- Thứ tư, các thể loại phân biệt nhau theo tính chất của phương tiện phản ánh hiện thực (lời, phim, ảnh, âm thanh...), văn phong, ngôn ngữ.
 *
Ký là một trong các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, được nhiều người sử dụng trong sáng tác văn học và làm báo. Tuy nhiên, phân biệt hai thể loại này là khá khó nhưng rất cần thiết cho việc viết báo. Trước tiên, thể loại Ký có nhiều đặc điểm lớn sau:
- Ký phản ánh những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển hình, luôn cố gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội dung.
- Ký có hình thức co giãn thể loại linh hoạt, giọng điệu phong phú.
- Cái tôi trần thuật trong thể loại Ký báo chí là nhân chứng thẩm định hiện thực.
Những đặc điểm trên đã tạo cho Ký một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong văn học và báo chí. Cũng chính những đặc điểm này đã giúp cho Ký tạo ra một kênh giao tiếp riêng đối với công chúng.
Xung quanh sự tồn tại và phát triển của Ký nói chung đã từng có nhiều ý kiến tranh luận. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ký có phải là văn học không? Trong Ký có hư cấu không? Nếu là văn học, Ký đứng ở vị trí nào trong hệ thống? Đặc trưng của các thể Ký là gì? Liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí không?..
Trong quá trình giải quyết những câu hỏi trên có nhiều phương pháp khác nhau. Có người căn cứ vào phương thức biểu hiện và chất liệu kết cấu để chia ký thành ba loại: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Lại có người căn cứ vào bút pháp và đối tượng được phản ánh để chia ký thành hàng chục thể loại như: phóng sự, ký sự, tuỳ bút, hồi ký, truyện ký, nhật ký, du ký, bút ký chính luận, tản văn…Về đặc trưng của Ký, quan điểm hầu như vẫn chưa thống nhất. Có người cho rằng đặc trưng ấy là ở chỗ do Ký viết về người thật, việc thật.
Đứng trước câu hỏi liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí hay không, đã từng có những quan niệm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự phân chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật. Theo quan điểm này thì ký báo chí là những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp hoặc không có nghệ thuật mà chỉ đơn giản là cung cấp thông tin đối với công chúng, còn Ký văn học có chất lượng nghệ thuật cao hơn.
Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người cho rằng không nên có sự phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của Ký chỉ có một. Nếu có sự khác nhau thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống với nhà báo viết ký.
Sự không nhất trí nói trên đã kéo dài trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học trong những năm trước đây. Có một thực tế là trong các bài giảng cho sinh viên báo chí, thông thường người ta chỉ giới thiệu về ký một cách chung chung trên cơ sở tổng hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận văn học. Trong khi đó các thể ký báo chí đích thực lại bị tách riêng ra thành những thể loại báo chí hoàn toàn không có liên quan gì đến ký. Nguyên nhân còn do khoa học báo chí vẫn chưa xác định được hệ thống thể loại dựa trên cơ sở phân loại đúng đắn. Chính sự lúng túng trong lý luận đã có ảnh hưởng không tốt đến thực tiến. Trên các báo hiện nay thường xuyên có những bài ghi không dúng tên thể loại, thậm chí nhiều nhà báo hoàn toàn không phân biệt được bài viết của mình thuộc thể loại nào chứ chưa nói đến những sự phân biệt khó hơn như phân biệt giữa ký báo chí và ký văn học.
Nếu xét ở mục đích, mặc dù thấy cùng xuất phát từ người thật, việc thật nhưng ký văn học luôn cố gắng xây dựng những hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng hình tượng luôn luôn chi phối trong các tác phẩm. Nhà văn không bao giờ chỉ dừng lại ở chỗ trình bày sự thật. Hiện thực chỉ là xuất phát điểm, là cái cớ để thông qua đó trình bày quan niệm thẩm mỹ của mình. Sự thẩm định có thể là ý kiến trực tiếp, những hình ảnh, hình tượng hoặc cũng có thể là cách lựa chọn trình bày chi tiết… Về bút pháp, văn học sử dụng những cách của văn học nói chung để tạo ra một giọng điệu phong phú, sinh động. Trong thể ký văn học, cái Tôi bao giờ cũng là cái tôi thẩm mỹ. Bản chất thẩm mỹ của thể loại được đặc biệt chú trọng. Chính bởi vậy, bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật khác, thủ pháp hư cấu vẫn thường được tác giả văn học sử dụng. Tuy nhiên, mức độ hư cấu trong tác phẩm ký báo chí không giống như các thể loại văn học khác. Tức là nhà văn có thể sử dụng những hình thức không xác định để trình bày cái xác định. Hư cấu nghệ thuật sử dụng trong văn học còn do ở chỗ: trong thực tế, tác giả không thể đồng thời chứng kiến tất cả các khía cạnh của sự việc đang xảy ra. Muốn có được một bức tranh toàn cảnh của sự việc, nhà văn phải hỏi những người khác mà thông qua đó, sử dụng sự hồi tưởng hay trí tưởng tượng để tái tạo hiện thực.
Có thể coi hư cấu là yếu tố quan trọng để phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí. Ký báo chí ( và các thể loại báo chí nói chung) không chấp nhận hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Các thể ký báo chí dù có bút pháp linh hoạt và sinh động như thế nào chăng nữa, cũng không được phép vượt qua nguyên tắc mang tính quy luật loại hình này. Thông tin báo chí phải đạt tới sự xác thực tối đa.
• Ký báo chí:
Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực tiễn. Với tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm tòi những hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà vẫn đảm bảo được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh. Các thể ký báo chí đã đáp ứng được nhu cầu đó. Với hình thức kết cấu tương đối co giãn, với bút pháp đa dạng và đặc biệt là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật sẽ giúp nhà báo có thể truyền đạt thông tin một cách phong phú, hấp dẫn hơn so với các thể loại báo chí khác. Với ý nghĩa đó có thể thấy rằng sự hình thành và phát triển của ký báo chí gắn liền với hoạt động sáng tạo của nhà báo. Việc tìm tòi những hình thức biểu hiện mới nhằm đạt tới những hiệu quả cao hơn vốn là thuộc tính của quá trình sáng tạo và dĩ nhiên nhà báo không thể nằm ngoài quy luật đó.
• Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học:
Điểm khác biệt được coi là căn bản giữa ký báo chí và ký văn học là ở chỗ: Mặc dù đều xuất hiện cái Tôi trần thuật, nhưng cái Tôi trong ký báo chí không phải là cái Tôi thẩm mỹ. Nhà báo không thẩm định được hiện thực trên cơ sở của những cảm xúc thẩm mỹ. Do phải chịu sự chi phối của yêu cầu thông tin thời sự, thông tin xác thực nên mặc dù tác giả vẫn có cơ hội trình bày sự thẩm định của mình, sự thẩm định ấy phải là kết quả của quá trình tư duy lôgic. Hiện thực được trình bày trong ký báo chí phải luôn đảm bảo độc chính xác tối đa và lập luận phải xuất phát từ tư duy lôgic của sự thực. Cái tôi trong ký báo chí phải là cái tôi nhân chứng tỉnh táo và lý trí. Ở đây không loại trừ cảm xúc trước sự thật để phản ánh sự thật.

"Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang tính chính trị - tư tưởng nhất định" (Định nghĩa - Tác giả Đinh Hường). Còn tác giả Tạ Ngọc Tấn cũng quan niệm: "Thể loại báo chí là một khái niệm để tính quy luật loại hình của tác phẩm báo chí. Thể loại là sự thống nhất có tính quy luật - lặp lại của các yếu tố trong một loạt tác phẩm báo chí". v.v…
Báo chí Việt Nam hiện nay đang sử dụng hầu hết các thể loại như tin, phóng sự, tường thuật, phản ánh, xã luận, bình luận, tiểu luận, phê bình, ký chân dung, câu chuyện báo chí, điều tra, điểm báo v.v… Dù là ở thể loại nào thì theo quy luật phát triển chung của xã hội, báo chí cũng có những quy luật phát triển riêng của nó. Để phản ánh sâu sắc và kịp thời đời sống xã hội vốn rất phong phú và đa dạng, giới báo chí đã tìm kiếm nhiều hình thức thể hiện mới. Có thể coi đấy là những hình thức thông tin mới mẻ được bắt đầu từ một câu chuyện có thật.

*
Khi phân biệt ký văn học và ký báo chí nên lưu ý đến sự tương đồng giữ hai thể loại này bởi chúng cùng nằm gần cái Miền giao thoa giữa văn học và báo chí. Giữa chúng vẫn thường xuyên xảy ra quá trình giao lưu, chuyển hoá và điều đó được coi như một động lực của sự phát triển.
Khi so sánh thể loại phóng sự với những thể ký văn học khác, các nhà nghiên cứu văn học cho rằng phóng sự nổi bật bằng những sự thất xác thực, dồi dào và nóng hổi. Về phương diện luận cứ, nó phải trả lời đầy đủ 6 câu hỏi 6w và chỉ có trên cơ sở đó mà phát triển luận chứng. trong khi đó thể bút ký tuy cũng tái hiện con người và sự việc khá dồi dào nhưng thông qua đó biểu hiện trực tiếp khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả. Bởi vậy, nó nghiêng về hướng trữ tình và những yếu tố trữ tình luôn luôn được xen kẽ với sự việc, chính vì thế rất dễ biến thành tuỳ bút.
Trên cơ sở so sánh như vậy, lí luận văn học rút ra kết luận; Về cơ bản, phóng sự cũng có đặc tính của thiên ký sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính thời sự trực tiếp. Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội đang quan tâm. Lấy những tiêu chí như tính chính xác, tính thời sự, giọng điệu văn bản đa nghĩa hay văn bản đơn nghĩa, hư cấu hay không hư cấu để phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã cho rằng: Có lẽ phóng sự là một tiểu loại ký báo chí hơn cả.
* Trong lí luận báo chí từ lâu người ta đã đặc biệt lưu ý đến những phẩm chất văn học của thể loại phóng sự. Nếu ta hình dung đường ranh giới nối liền giữa tiểu thuyết với các loại thể tài báo chí, thì cái đường ranh giới đó có lãe là phóng sự. Phóng sự thông thường phản ánh sự thật bằng hình ảnh, ta có thể hình dung ra bức tranh xác thực về một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Ở đó, phẩm chất tinh thần của người, bộ mặt xã hội trên từng mặt thường được nổi lên rất rõ. Bởi vậy, những phóng sự hay thường toát ra cả ý nghĩa mỹ học.





Câu chuyện báo chí là gì?


Câu chuyện báo chí (Tiếng Anh – Newspaper story), hay còn gọi là “câu chuyện nhân cảm” là thể loại báo chí, có quá trình phát sinh, phát triển nhiều năm trên báo chí thế giới cũng như nước ta.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, thuật ngữ ‘Câu chuyện báo chí” được dùng để chỉ những tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại câu chuyện bao trùm hầu hết các phương tiện của đời sống: đời tư, thế sự, hay nhân tình thế thái với lối viết ngắn gọn độc đáo, bút pháp linh hoạt dễ cuốn hút người đọc. Trong báo chí hiện đại, Câu chuyện báo chí thể hiện một kiểu tư duy mới, cách nhìn cuộc sống, cách nắm bắt đời sống riêng. Câu chuyện báo chí với lối viết giản dị, súc tích có kết cấu co giãn, đề tài gần với cuộc sống đời thường đã có ảnh hưởng lớn tới việc giáo dục nhân cách, lối sống của mọi người.
Câu chuyện báo chí là một thể loại kết hợp cả yếu tố văn nghệ được coi là yếu tố phụ trợ - là phương pháp truyền đạt một vấn đề thời sự mang tính báo chí. Đó là sự kết hợp cả yếu tố văn nghệ và yếu tố báo chí, nó nằm trong miền giao thoa giữa hai loại thể: báo chí và văn nghệ. Với vai trò qua trọng của mình trong hệ thống thể loại. Câu chuyện báo chí là thể loại không thể thiếu được đối với công chúng báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng.
Cũng giống như các thể loại báo chí khác, như tin tức, phóng sự, bình luận,..Câu chuyện báo chí là một thể loại có khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin xác thực và thông tin thời sự, có nghĩa là nó trả lời câu hỏi; ai? cái gì? thế nào?.. Mặt khác câu chuyện báo chí còn sử dụng cả bút pháp văn nghệ với ngôn ngữ hình ảnh có sức biểu cảm cao, chi tiết cô đúc, cách hành văn mang nhiều ẩn ý để tạo chiều sâu cho câu chuyện.

Báo chí là gì?


Báo chí là cách gọi chúng nhất về hoạt động điều tra và phản ánh các sự kiện, vấn đề và xu hướng cho khán giả đại chúng được phát sóng, in ấn và các phương tiện truyền thông trực tuyến như báo, tạp chí và sách, đài phát thanh và đài truyền hình và các sản phẩm trên mạng Internet, các blog và phương tiện truyền thông xã hội và điện thoại di động.
- Các sản phẩm được tạo ra bởi các hoạt động như vậy được gọi là báo chí. 
- Những người thu thập và đóng gói tin tức và thông tin để phổ biến đại chúng là các nhà báo. 
- Lĩnh vực này bao gồm văn bản, biên tập, thiết kế và nhiếp ảnh.
Với ý tưởng trong tâm trí của thông báo các công dân, các nhà báo bao gồm các cá nhân, tổ chức, các tổ chức, các chính phủ và các doanh nghiệp cũng như các khía cạnh văn hóa của xã hội như nghệ thuật và giải trí. Phương tiện truyền thông tin tức là những nhà cung cấp chính của thông tin và ý kiến ​​về các vấn đề công cộng. 
Một nhà báo làm gì?
Mục đích chính của những người làm trong nghề báo chí là để cung cấp cho độc giả và khán giả của họ với thông tin chính xác, đáng tin cậy, họ cần phải hoạt động trong xã hội. 
Có rất nhiều việc khác nhau trong ngành báo chí. Ví dụ, một nhà báo có thể được tham gia những mảng công việc sau:
Nghiên cứu những câu chuyện. Những câu chuyện báo, tạp chí và các trang web yêu cầu nghiên cứu trước khi viết. Tất cả các nhà báo phải tiến hành nghiên cứu và thu thập thông tin trước khi họ có thể bắt đầu viết. Các nhà báo sử dụng ba công cụ để thu thập thông tin cho những câu chuyện: nghiên cứu quan sát, phỏng vấn và kiến thức nền tảng. 
Viết những câu chuyện tin tức: Câu chuyện tin tức cứng là ngắn hạn, rất kịp thời và tập trung vào nói với bạn những gì vừa xảy ra bắt đầu với điều quan trọng nhất đầu tiên.
Chụp hình ảnh và video. Phóng viên ảnh trong báo in và báo truyền hình sử dụng hình ảnh của họ để kể một câu chuyện bằng lời nói rất ít. Đa nhiệm nhiều hơn và nhiều hơn nữa là một phần của cuộc sống trong các phương tiện truyền thông, mà làm cho hình ảnh là một kỹ năng hữu ích cho các nhà báo phải có. 
Biên tập những câu chuyện. Biên tập chuẩn bị và cải thiện công việc của những người khác. Họ sửa lỗi ngữ pháp và chỉ ra vấn đề cấu trúc. Họ viết tiêu đề và chắc chắn rằng ấn phẩm này có một phong cách phù hợp. 
Kiểm tra thực tế. Báo chí hiếm khi sử dụng mọi người để kiểm tra thực tế trong các bài báo. Tạp chí vẫn còn làm thực tế kiểm tra, nhưng nó trở nên ít phổ biến hơn. 
Kế hoạch hóa nội dung công việc. Biên tập chịu trách nhiệm cho tất cả các nội dung trong một tạp chí, báo, trang web. Là những nhà tiến lên trong trách nhiệm công việc, họ làm bằng văn bản ít thực tế và lập kế hoạch và quản lý của các nhà văn, biên tập viên và nhà thiết kế khác. 
Đặt ra các trang. Biên tập thiết kế và đặt ra các trang bản sao trộn được viết bởi các phóng viên với hình ảnh chụp bởi các nhiếp ảnh gia và nghệ thuật khác. Tại các giấy tờ nhỏ hơn, các phóng viên đôi khi đặt ra các trang ngoài viết bản sao cho họ và chụp các bức ảnh cho họ. Biên tập viên tạp chí, mặt khác, thường có một bộ phận nghệ thuật đến các trang thiết kế. Bất cứ ai thiết kế, bố trí được thực hiện bằng cách sử dụng các phần mềm như Quark XPress và Adobe InDesign. Khả năng sử dụng các chương trình này là một kỹ năng có giá trị cho một nhà báo. 
Một số biệt ngữ báo chí 
Vận động báo chí: một phong cách báo chí, trong đó một phóng viên có mặt trong các vấn đề gây tranh cãi và phát triển một quan điểm. Nó là đối diện của báo chí chính thống, trong đó các phóng viên dự kiến ​​sẽ được mục tiêu. 
Ambush báo chí: tích cực chiến thuật được thực hiện bởi các nhà báo người bất ngờ đối đầu và đặt câu hỏi những người nếu không muốn nói chuyện với một nhà báo. 
Bài viết: những câu chuyện viết về các chủ đề tin tức được xem là đáng chú ý bởi các biên tập viên của ấn phẩm. 
Tính chất: tín dụng cho người đã nói những gì hoặc nguồn gốc của sự kiện 
Bối cảnh: thông tin không có ý định công bố 
Byline: tên của phóng viên 
Báo chí người nổi tiếng cũng được biết đến như những người báo chí, nó tập trung vào cuộc sống cá nhân của những người nổi tiếng, bao gồm cả bộ phim và diễn viên sân khấu, nghệ sĩ âm nhạc, các mô hình và các nhiếp ảnh gia, con số thể thao, và những người đáng chú ý trong ngành công nghiệp giải trí, cũng như những người tìm kiếm sự chú ý, chẳng hạn như các chính trị gia, và những người bị đẩy vào sự chú ý của, công cộng như những người làm điều gì đó đáng đưa tin. 
Báo chí Checkbook: nhà báo phải trả một người hoặc một tổ chức cho một câu chuyện tin tức. 
Nhà báo công dân: sự gia tăng nhanh chóng của công nghệ Internet, đặc biệt, tweeting viết blog và mạng xã hội, đã trao quyền người không được đào tạo chuyên nghiệp để hoạt động đôi khi là nhà báo chuyển thông tin cho các phương tiện thông tin đại chúng. Những học viên này được biết đến như một thể loại riêng biệt - nhà báo công dân. 
Columnist: một nhà văn bài viết đưa ra một ý kiến về một chủ đề 
Editor: người "chỉnh sửa" một câu chuyện bằng cách rà soát, đánh bóng, người có công việc phê duyệt bản sao khi nó đi kèm trong và đưa ra quyết định về những gì được công bố trên một tờ báo hoặc tạp chí. 
Biên tập: một bài viết thể hiện một tờ báo hoặc tạp chí của chủ sở hữu hoặc vị trí biên tập viên về một vấn đề. 
Tính năng bài viết: còn hình thức viết tin, chủ đề được đề cập trong chiều sâu, đôi khi các bài viết chính trên trang nhất của một tờ báo, hay một câu chuyện trang bìa trên tạp chí. Tính năng viết báo chí bằng văn bản bao gồm người, địa điểm và các sự kiện trong chiều sâu hơn và kịp thời ít hơn nhiều so với một câu chuyện tin tức cứng ngay lập tức. 
Năm W và H: chính câu hỏi một câu trả lời cho câu chuyện tin tức - Ai cơ? Gì? Ở đâu? Khi nào? Tại sao? và như thế nào? 
Gonzo báo chí: một loại báo chí phổ biến rộng rãi bởi Hunter S. Thompson trong những năm 1970. Nó được đặc trưng bởi một phong cách punchy, ngôn ngữ thô lỗ, và sự coi thường cho các hình thức bằng văn bản thông thường, báo chí và hải quan. Tính khách quan truyền thống của nhà báo đã được đưa ra thông qua ngâm trong câu chuyện. 
Kim tự tháp ngược: cấu trúc của một câu chuyện tin tức mà đặt các sự kiện quan trọng ở đầu và thực tế, ít quan trọng hơn và các chi tiết ở cuối, cho phép trình soạn thảo để cắt phần dưới cùng của câu chuyện nếu không gian là cần thiết. 
Điều tra báo chí: một câu chuyện đòi hỏi một lượng lớn đào sâu nghiên cứu và công việc khó khăn để đến với những sự kiện mà có thể được ẩn, chôn cất, hoặc bị che khuất bởi những người có quyền lợi trong việc giữ những sự kiện được xuất bản, nghiên cứu các phóng viên, điều tra, phơi bày hành vi phi đạo đức, vô đạo đức, và bất hợp pháp của cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan chính phủ. 
Jazz báo chí: báo chí thời trang của tuổi đôi mươi đang bùng nổ đặt tên cho phong cách năng động của nó và bố trí lá cải minh họa. 
Các nhà báo: nhà văn, biên tập viên, các nhiếp ảnh gia, quay phim chụp ảnh, diễn giả truyền hình, các nhà sản xuất và những người khác là những nhà cung cấp thông tin và ý kiến trong xã hội đại chúng đương đại. 
Sapo: câu đầu tiên hoặc vài câu đầu tiên của một câu chuyện 
Tổng biên tập: người đồng phối tất cả các phòng ban tin tức bằng cách thu thập tất cả các bản sao và đảm bảo rằng tất cả các hướng dẫn cho máy in hoặc đánh máy rõ ràng và nhất quán, người đáp ứng và tư vấn với các nhân viên để thực hiện một kế hoạch 
Tin tức: thông tin về các sự kiện gần đây và quan trọng. 
Tin văn bản: viết văn xuôi phong cách được sử dụng cho báo cáo tin tức trên các phương tiện truyền thông như báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, sách và Internet. 
Gói báo chí: phóng viên dựa vào nhau cho lời khuyên tin tức và thường phụ thuộc vào một nguồn duy nhất để biết thông tin 
Báo in: thực hành báo chí trên các tờ báo, tạp chí và khó sao chép các ấn phẩm in khác. 
Báo chí chuyên nghiệp: một hình thức của báo cáo tin tức được phát triển tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20, cùng với các trường học chính thức của báo chí phát sinh tại các trường đại học lớn. 
Phóng viên: những người thu thập dữ kiện cho những câu chuyện được phân công viết 
Khoa học báo chí: phóng viên truyền đạt thông tin tin tức về các chủ đề khoa học cho công chúng. Nhà báo khoa học là phóng viên hiểu và giải thích chi tiết, thông tin kỹ thuật và biệt ngữ và viết câu chuyện tin tức về họ vì vậy họ sẽ được thú vị cho người đọc. 
Nguồn: một người nói chuyện với một phóng viên vào biên bản ghi trong một câu chuyện tin tức 
Style: phong cách là sự phù hợp của việc sử dụng ngôn ngữ của tất cả các nhà văn trong ấn phẩm (ví dụ, phong cách AP là phù hợp với các quy tắc của ngôn ngữ theo AP) 
Báo hình: over-the-không khí và cáp truyền tải câu chuyện tin tức nâng cao hình ảnh âm thanh và video. 
Wire dịch vụ: thu thập tin tức và các dịch vụ giao hàng, hoặc các cơ quan, cung cấp tin tức từ khắp nơi trên thế giới tới các ấn phẩm đăng ký cho một khoản phí. Nổi tiếng nhất là AP, Reuters, United Press International, Agence France-Presse và Canadian Press. Dịch vụ Wire hợp tác xã chia sẻ câu chuyện tin tức giữa các thành viên. 
Nguồn: http://www.uncp.edu/home/acurtis/Courses/ResourcesForCourses/Journalism
 

Phê bình báo chí - một hoạt động cần thiết của văn hóa truyền thông

Ở các hình thái ý thức xã hội gần gũi với báo chí như văn học, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc….về cơ bản, thực tiễn sáng tạo đồng hành khá thường xuyên với hoạt động lý luận phê bình. Ở đó lý luận phê bình luôn đóng vai trò tổng kết, thẩm định, đánh giá, thậm chí thực hiện chức năng hướng đạo thiết thực cho quá trình sáng tạo của các chủ thể. Còn trong hoạt động báo chí ở ta, mối quan hệ tương hỗ giữa 3 bình diện: sáng tạo, nghiên cứu lý luận và phê bình, nhìn chung ít có được hiệu ứng tương tác như ý.
Phê bình báo chí với tư cách là một hoạt động học thuật nhằm vào định giá, phê bình các sản phẩm nghiên cứu và sáng tạo tác phẩm báo chí thì còn khá nhiều bất cập. Trong phạm vi giới hạn của bài viết này, bước đầu chúng tôi xin bàn tới những biểu hiện phát triển thiếu cần bằng của hoạt động phê bình báo chí trong tương quan với hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn sáng tạo,. từ đó phác thảo những phương hướng nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động phê bình báo chí hiện nay, góp phần định hướng và làm lành mạnh hóa môi trường văn hóa truyền thông thời kỳ hội nhập.
1. Phê bình báo chí hiện nay còn thiếu cân bằng hệ thống
Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển, chúng ta đã có được những thành tựu nghiên cứu lý luận báo chí rất đáng ghi nhận. Hệ thống các giáo trình lý luận về nghiệp vụ báo chí đã được hình thành và xác lập đến từng loại hình, loại thể báo chí cơ bản. Những thành tựu nghiên cứu báo chí học của các nước đã được giới thiệu và cập nhật khá thường xuyên. Nhiều công trình nghiên cứu dưới dạng chuyên luận và tài liệu tham khảo về báo chí học nói chung, về các tác gia hay thể loại báo chí nói riêng càng góp phần khơi thêm những chiều sâu mới cho tư duy nghiên cứu khoa học về báo chí. Thực tiễn sáng tạo tác phẩm báo chí của ta cũng đã vươn tới những tầm cao mới chưa từng có cả về quy mô số lượng và chất lượng nhờ không gian văn hoá dân chủ thoáng rộng và cới mở. Chưa bao giờ chúng ta có được một diện mạo đời sống báo chí sôi động và thăng hoa như hiện nay. Tốc độ sinh thành nhanh chóng của các đơn vị báo chí mới cùng sự lớn mạnh của một đội ngũ các nhà báo thuộc đủ các loại hình báo chí khác nhau đã cho thấy sức sống và uy lực to lớn của nền báo chí nước nhà.
Từ khi đổi mới và hội nhập, đời sống nghiên cứu lý luận và sáng tạo báo chí đã có được sự bứt phá, vươn tầm ngoạn mục, xứng đáng là công cụ đắc lực phụng sự cho sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước. Nhìn vào bức tranh đời sống sôi động của hoạt động nghiên cứu và sáng tạo báo chí, chúng ta có thể kỳ vọng vào khả năng hội nhập năng động của báo chí nước nhà trong xu thế phát triển chung của báo chí khu vực và thế giới.

Chẳng những chưa có được bước chân đồng hành tin cậy cùng với đời sống nghiên cứu và sáng tạo tác phẩm, hoạt động phê bình báo chí ở ta trong những năm qua đã hiện diện trong một diện mạo nhợt nhạt, thiếu cân bằng hệ thống với các chỉnh thể khác của đời sống báo chí nói chung. Chúng ta có một đội ngũ đông đảo các nhà báo trực tiếp tác nghiệp và sáng tạo tác phẩm báo chí trên mọi phạm vi cuộc sống xã hội khác nhau. Chúng ta cũng đã có một đội ngũ không ít các nhà nghiên cứu và giảng dạy báo chí chuyên nghiệp. trong khi đó ở ta chưa hề có một cây bút phê bình báo chí nhiệt tâm và tận tuỵ với đúng nghĩa lao động phê bình đích thực. Giải thưởng báo chí hàng năm được trao cho đủ các thể loại tin, bài, phóng sự, bình luận, bút ký, điều tra…, song xưa nay chưa hề có bài báo nào được giải lại thuộc thể loại phê bình báo chí.
Quy luật sáng tạo các giá trị tinh thần của nhân loại cho thấy, đã có sự sáng tạo thường kéo theo sự hiện diện của hoạt động phê bình, đánh giá. Vì thế, sự xuất hiện có phần quá vênh lệch so với thực tiễn sáng tạo tác phẩm của phê bình báo chí đã phần nào phản ánh tình trạng phát triển thiếu cân bằng hệ thống tới mức khó chấp nhận của nền báo chí chúng ta. Trong tương quan so sánh với đời sống văn học, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, điện ảnh…, ở lãnh địa báo chí dường như chưa có chỗ đứng xứng đáng cho hoạt động phê bình với tư cách là một mắt xích quan trọng góp phần hướng đạo cho sự phát triển lành mạnh của báo chí trên cả bình diện nội dung tư tưởng và cấu trúc hình thức sáng tạo. Công bằng mà nói phê bình báo chí ở ta hiện mới chỉ là một bộ phận mờ nhạt, sống nhờ và “ăn theo” hoạt động nghiên cứu lý luận. Chúng ta chưa có phê bình báo chí với tư cách là một hoạt động khoa học tồn tại độc lập, đồng đẳng bên cạnh các hoạt động nghiên cứu lý luận và sáng taọ tác phẩm báo chí. Một số đánh giá khái quát hay nhận xét về báo chí của các chính trị gia, các nhà lãnh đạo quản lý báo chí hoặc của giới nghiên cứu thông qua các báo cáo, nghị định, chỉ thị hay các bài viết… đôi khi có hơi hướng phê bình ở góc độ phê phán, nhắc nhở khi có biểu hiện nào đó lệch lạc về tư tưởng. Tuy nhiên tất cả chỉ là những khái quát chung, không chỉ mặt gọi tên hiện tượng nào cụ thể để người cầm bút có dịp chiêm nghiêm, uốn nắn và tự điều chỉnh hành vi sáng tạo của mình .Vả lại, phê bình toàn diện không chỉ dừng lại ở những phê phán về vấn đề nội dung tư tưởng mà còn bao gồm cả các khía cạnh cấu trúc hình thức sáng tạo nữa. Chỉ có phê bình sâu sắc và toàn diện về mọi cấp độ cấu thành chỉnh thể của đời sống báo chí mới góp phần làm giàu thêm tiềm năng tri thưc sáng tạo và nghiên cứu của người làm báo.
Một số ấn phẩm báo chí có duy trì khá đều đặn mục “dọn vườn” nhằm phê bình những non yếu trong hoạt động sáng tạo báo chí nhưng cũng lại chỉ thiên về phê phán vụn vặt chuyện sử dụng câu từ chữ nghĩa chưa chuẩn, chưa hay…tuyệt nhiên chưa thấy bài viết nào có khả năng mở rộng năng lực “ dọn vườn” đến các bình diện hình thức như kết cấu, tổ chức chi tiết, ngôn từ, ý tưởng, quan niệm của chủ thể sáng tạo… Nghiên cứu, phê bình báo chí hiện đại chuyên nghiệp rất cần thiết phải tạo lập được tư duy phê bình toàn diện về mọi yếu tố cấu thành chỉnh thể đời sống báo chí.
Phê bình nhằm uốn nắn kịp thời những sai sót và định hướng tích cực cho hoạt động báo chí cũng chưa được ý thức như một công việc thường xuyên. Dường như phê bình báo chí cuả ta hiện nay chỉ chú tâm vào phần ngọn, thiên về xử lý hậu quả khi “sự đã rồi”. Chúng ta chưa có được năng lực phòng ngừa của một nền phê bình giàu tính năng chủ động tích cực, có thể tạo được sức đề kháng tự giác trong ý thức sáng tạo của các nhà báo. Thường trực ý thức phê bình và tự phê bình cũng là thứ công năng đối trọng hiệu quả nhằm phản vệ lại những nguy cơ sai sót từ trong tiềm thức của người cầm bút.
Phê bình báo chí của ta hiện nay cũng mới chỉ dừng lại ở các trao đổi, nhận xét nhằm “rút kinh nghiệm” hoặc xử lý “kín” trong các cuộc họp giao ban định kỳ của các cấp lãnh đạo vá quản lý . Phê bình chưa trở thành một hoạt động chuyên môn dân chủ công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, do vậy chưa tạo được hiệu ứng lan toả rộng rãi tới đông đảo đội ngũ những người làm báo.
Những phác thảo trên cho thấy tình trạng phát triển của phê bình báo chí trong tương quan hệ thống của đời sống báo chí hiện vẫn còn nhiều bất cập khiến phê bình trở nên lạc điệu trước sự phát triển khá ổn định của đời sống nghiên cứu lý luận và sáng tạo báo chí. Tình trạng phát triển vênh lệch hệ thống diễn ra ở lãnh địa phê bình - một mắt xích quan trọng của đời sống báo chí sẽ gây trở ngại không ít cho hoạt động báo chí nói chung. Phê bình báo chí lành mạnh và đúng hướng có giá trị như một thứ” biệt dược” có khả năng phòng ngừa và chữa trị các căn bệnh cố hữu của báo chí cả về ý thức tư tưởng lẫn hình thức tổ chức quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí. Sự phát triển hài hoà của phê bình báo chí cũng góp phần củng cố bền chắc thêm trong ý thức sáng tạo của người làm báo về các nguyên lý lý luận báo chí cơ bản, do đó nó kéo gần lại khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn sáng tạo trong một cơ cấu quan hệ tương tác thống nhất, hữu cơ của đời sống báo chí.
2. Để phê bình báo chí trở thành một mắt xích của văn hóa truyền thông
Sự trầm lắng của phê bình báo chí đã từng trường diễn trong lịch sử. Quan niệm sống “ dĩ hoà vi quý”, truyền thống ứng xử vi tình của người Việt là một trong những căn nguyên chi phối thiếu tích cực tới nhịp độ phát triển bất thường của phê bình báo chí ở nước ta hiện nay. Thúc đẩy sự phát triển của phê bình báo chí theo kịp với đà phát triển của đời sống nghiên cứu lý luận và sáng tạo báo chí do vậy là công việc của cả một quá trình dài lâu, phức tạp, có liên quan tới tất cả các ngành, các cấp và mỗi chủ thể hoạt động báo chí. Bước đầu xin được phác thảo một vài phương hướng cơ bản với mong muốn góp phần đưa đời sống báo chí phát triển lên một tầm vóc mới.
2.1. Về nhận thức
Việc tăng cường và thúc đẩy sự phát triển của phê bình báo chí hiện nay phải được khơi dậy trước hết từ việc nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, tính năng và các nguyên tác phê bình báo chí hiện đại trong khuôn khổ luật pháp cùng đạo đức nghề nghiệp cho mọi tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia hoạt động báo chí. Phê bình đã đến lúc không còn chỉ là công tác đặc quyền của các cơ quan chức năng hay các nhà lãnh đạo báo chí mà là công việc bình thường của tất cả mọi người có nhiệt tâm với báo chí nước nhà. Hoạt động phê bình báo chí, nếu không thuộc những nội dung thông tin nhạy cảm, cần phải được phổ cập rộng rãi tới mọi ngõ ngách của không gian giao tiếp xã hội theo hướng công chúng hoá phê bình báo chí .
2.2. Về tổ chức hành động
Các cơ quan chức năng quản lý và các cơ quan chủ quản báo chí cần có các biện pháp thu hút đông đảo lực lượng xã hội, các tầng lớp công chúng tham gia tích cực vào hoạt động phê bình báo chí nhằm kịp thời phát hiện những “ hạt sạn”, những tỳ vết trong các sản phẩm nghiên cứu lý luận và sáng tạo báo chí cả trên bình diện nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Chế tài thưởng phạt thích đáng sẽ góp phần giữ vững mối quan hệ tương tác giữa đời sống báo chí và đông đảo công chúng tiếp nhận. Các ấn phẩm, cơ quan báo chí cần hình thành và duy trì thường xuyên các chuyên mục trao đổi, phê bình báo chí như một nhịp cầu gắn kết báo chí với công chúng tiếp nhận báo chí. Những tác phẩm báo chí tốt hoặc những bài viết còn non yếu về một số phương diện nào đó cần được thông tin trao đổi, phê bình, đánh giá kịp thời. Theo định kỳ, giải thưởng báo chí hàng năm cần có thêm tỷ lệ giải thưởng cho các tác phẩm nghiên cứu lý luận và phê bình báo chí xuất sắc ( Lâu này chỉ chủ yếu trao giải cho lĩnh vực sáng tạo tác phẩm báo chí). Ở các Hội, Chi hội nhà báo, nếu điều kiện cho phép có thể thành lập các Tiểu ban nghiên cứu lý luận và phê bình báo chí; Cần sớm hình thành một lực lượng những người có chuyên môn sâu về phê bình báo chí để có thể đảm trách công việc này một cách chuyên nghiệp hơn. Để có được hiệu quả tích cực và sâu rộng, những tác phẩm báo chí mắc sai lầm, thiếu sót ( nếu không phải là những vấn đề nhạy cảm), cần được tổ chức trao đổi, phê bình công khai giúp đông đảo người làm báo có điều kiện tiếp cận và rút kinh nghiệm.
2.3. Về đào tạo, bồi dưỡng
Hoạt động phê bình báo chí hiện nay đã đến lúc cần phải được hệ thống hoá thành những vấn đề lý thuyết khái quát để trước mắt hình thành nội dung Chuyên đề Phê bình báo chí, tiến tới định hình môn học Phê bình báo chí có mặt trong khung chương trình đào tạo và bồi dưỡng báo chí . Người học nghề báo chí cần sớm được trang bị những tri thực cơ bản về cấu trúc lý thuyết của Bộ môn Phê bình báo chí như: vai trò, vị trí, chức năng, các nguyên tăc và cách thức phê bình báo chí hiện đại...Cần có cơ chế đan xen hợp lý giữa thông tin lý luận về phê bình báo chí với thực hành phê bình những hiện tượng báo chí cụ thể. Những tác gia, tác phẩm, trào lưu, xu hướng báo chí…đương đại hoặc quá khứ “có vấn đề” sẽ trở thành đối tượng “giải phẫu” của hoạt động thực hành phê bình báo chí sinh động .Những hành trang tri thức lý luận và thực tiễn phê bình báo chí như vậy sẽ sớm định hình ở các nhà báo những kỹ năng cơ bản về phê bình báo chí chuyên nghiệp. Ở các ấn phẩm báo chí do chính các cơ sở đào tạo sáng lập để rèn nghề như Báo chí trẻ, Sóng trẻ...( Học viện Báo chí - Tuyên truyền) cũng cần có chuyên mục phê bình báo chí để người học chủ động trau dồi tri thức lý luận và thực tiễn về lĩnh vực học thuật thiết yếu này. Các cơ sở đào tạo và các cơ quan báo chí cũng cần nên tuyển chọn các bài viết trao đổi và phê bình báo chí có chất lượng tốt để phát hành rộng rãi như một nguồn tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí.
Để thúc đẩy sự phát triển của phê bình báo chí và từng bước hiện thực hóa phê bình báo chí trở thành một phạm vi học thuật quan trọng sẽ còn cần phải có thêm những nỗ lực mới nhằm đào sâu hơn nữa vào nhiều khía cạnh khác nhau của phê bình báo chí trên cả phương diên lý luận và thực tiễn. Những chấm phá ban đầu của bài viết này hy vọng có thêm sự chia sẻ và hợp lực của các nhà quản lý báo chí, các bạn đồng nghiệp và tất cả những ai quan tâm tới phê bình báo chí – một mắt xích quan trọng của văn hóa truyền thông./.

Học Tiến sỹ để làm gì? (phần 1)


Những năm gần đây có khá nhiều sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ và nhiều nước khác, bằng nhiều con đường khác nhau. Người có học bổng, chức trợ giảng (teaching assistant - TA), hoặc trợ nghiên cứu (research assistant - RA), người thì du học tự túc. Tôi không nhớ chính xác là đã đọc ở đâu đó rằng có hơn nghìn du học sinh mỗi năm sang Mỹ. Nhiều người trong số họ theo học tiến sĩ (Ph.D).
Thông tin về làm thế nào để xin học bổng, TA, RA, xin thư giới thiệu, cách viết dự định cá nhân (personal statement), vân vân đầy rẫy trên các mailing lists trên Internet.
Thế nhưng, một số câu hỏi quan trọng mà tôi ít thấy sinh viên hỏi là: "Tại sao lại học Ph.D?", "có đáng bỏ thời gian học Ph.D hay không?", "làm thế nào để đánh giá mảnh bằng Ph.D?", "tôi có đủ khả năng để học Ph.D hay không?", "học Ph.D xong rồi làm gì?"…
Có lẽ ta cần một luận án ... Ph.D để trả lời phần nào thỏa đáng các câu hỏi trên. Cũng có lẽ có ai đó trong các ngành giáo dục hay tâm lý học đã làm rồi. Về mặt kinh tế thì một người bạn cho tôi biết đã có cả mớ công trình nghiên cứu về “cái giá của giáo dục” (returns to education).
Trong bài viết này, tôi thử lạm bàn lan man xung quanh các câu hỏi trên. Bài viết hoàn toàn không mang tính hàn lâm (academic), nghĩa là sẽ không có các con số thống kê, bảng phân tích, để ủng hộ một (vài) luận điểm nào đó. Sẽ không có tham khảo đến các nguồn thông tin tín cẩn và các thứ tương tự. Tác giả chỉ dựa trên các kinh nghiệm, quan sát, và suy nghĩ cá nhân, sau gần chục năm học và "hành nghề" Ph.D ở Mỹ.
Tôi chắc là một cá nhân khác trong hoàn cảnh của tôi sẽ có không ít ý kiến bất đồng. Tôi cũng không có tham vọng nói hết được những cóp nhặt kinh nghiệm của mình. Ngoài ra, tôi sẽ nhấn mạnh nhiều hơn mặt trái của việc học Ph.D.
Ðiều tôi hy vọng là qua bài viết này, tôi có thể giúp cho các sinh viên (cùng gia đình) sẽ và đang học Ph.D ít nhiều chuẩn bị tinh thần cho đoạn đường chông gai nhưng thú vị này; hy vọng chỉ ra được một góc nhìn khác về Ph.D so với quan niệm chung của xã hội.
1. Ph.D là gì ?
 Trước hết ta hãy thử bàn về mảnh bằng Ph.D từ cái nhìn hàn lâm. Ph.D là viết tắt của chữ Doctor of Philosophy. Học bậc Ph.D, cao nhất trong các học bậc, đầu tiên xuất hiện ở Ðức, sau đó được Mỹ và nhiều nước phương tây khác sử dụng. Bằng Ph.D đầu tiên của Mỹ xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19 (ở Ý cho đến những năm 1980 mới có bằng Ph.D.)
Từ Ph.D có gốc latin là Philosophiae Doctor. Chữ doctor nghĩa là "thầy" (teacher), và "chuyên gia", "chức trách" (authority). Chữ philosophy (triết học) có nguồn gốc từ thời trung cổ (medieval) ở Châu Âu, khi mà các trường đại học có bốn chuyên khoa (faculty) chính: thần học (theology), luật học (law), y học (medicine), và triết học (philosophy). Philosophy ở đây dùng để chỉ các ngành học không dẫn đến một nghề nghiệp thực tế nhất định của thời đó như người của nhà thờ, luật sư, và bác sĩ.
Ðến nay thì không phải Ph.D nào cũng liên quan đến philosophy, cho dù lấy theo nghĩa bóng nhất của từ này. Tuy nhiên chữ doctor vẫn mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Ở phương Tây, trong nghi thức giao tiếp người ta gọi một người có bằng Ph.D là doctor. Hầu hết các trường đại học đều đòi hỏi toàn bộ giảng viên và các giáo sư có bằng Ph.D. Ða số các nhà nghiên cứu ở các phòng nghiên cứu chuyên nghiệp đều có bằng Ph.D.
Tuy vậy, điều ngược lại không đúng: không phải tất cả các Ph.D đều có thể làm giảng viên, giáo sư, hay nghiên cứu viên. Có những Ph.D thậm chí chẳng bằng một kỹ sư thông thường. Cũng có khá nhiều Ph.D, sau khi "hành nghề" một thời gian thì lên chức, hoặc chuyển sang làm salesman hoặc làm quản lý... Ta sẽ quay lại đề tài này sau.
Cái nhìn hiện đại của Ph.D như sau. Ðể hoàn tất Ph.D, sinh viên phải đạt được hai mục tiêu chính:
(a) hoàn toàn tinh thông một ngành (hoặc phân ngành) nào đó;
(b) góp phần mở rộng khối kiến thức của nhân loại về ngành đó.
Mục tiêu (b) là cái lõi để phân biệt bậc Ph.D với các bậc học khác. Ph.D không phải là cái bằng "nhai lại": đọc nhiều, thi lấy điểm cao là xong. Một Ph.D đúng nghĩa phải có một vài công trình và ý tưởng nghiên cứu của riêng mình (originality).
Về mặt lý thuyết thì là thế. Thực tế ra sao?
2. "Nghề" Ph.D: đoạn trường cũng lắm chông gai
 Ở Mỹ, là sinh viên sau đại học (graduate student) cũng là một nghề (tôi không dùng từ "nghiên cứu sinh" vì không phải graduate student nào cũng làm nghiên cứu thực thụ, nhất là các sinh viên đang học thạc sĩ.) Các graduate students thường làm TA hoặc RA, với mức lương khoảng 900USD đến 1200USD một tháng (sau thuế), tiền học được bao. Sống tằn tiện thì mức lương này vừa đủ một người sống. Thường thì các gradudate students sống chui rúc trong một căn hộ nhỏ bé nào đó (dĩ nhiên là có ngoại lệ, đa phần do may mắn), hầu hết thời gian dùng ở các phòng lab (phòng thí nghiệm hoặc phòng máy tính) và thư viện. Tối về đến nhà là lăn ra ngủ để rồi sáng mai mèo con lại hớn hở bút chì bánh mì lên đường.
Kể chuyện cuộc sống gradudate students thì có lẽ cần một tiểu thuyết vài trăm trang. Ðiều tôi muốn đề cập là: trong hoàn cảnh làm việc căng thẳng như vậy, một sinh viên thông thường thỉnh thoảng sẽ phải tự đặt câu hỏi "có đáng không?" Nhất là khi công việc học tập và nghiên cứu không trôi chảy. Mà kể cả khi nó hoàn toàn trôi chảy, tính về các mặt kinh tế, tinh thần, thời gian, và ... philosophy, câu hỏi trên vẫn hoàn toàn hợp lệ.
Về mặt kinh tế thì lương trung bình của Ph.D ra trường có nhỉnh hơn thạc sĩ (M.S) và bậc đại học (B.S) một chút, nhưng sự khác biệt này không khỏa lấp được lỗ lã cho thu nhập đã mất trong khoảng thời gian làm Ph.D: trung bình từ 4 đến 5 năm. Tính tổng số USD kiếm được cho mỗi giờ học tập thì Ph.D là hạng bét (tính tương đối theo từng ngành học).
Về mặt tinh thần thì làm việc căng thẳng và cật lực trong một thời gian dài trong một môi trường cạnh tranh tương đối công bằng nhưng khắc nghiệt (!) hoàn toàn có thể ảnh hưởng xấu đến tâm lý cá nhân. Ðiều này đặc biệt đúng với sinh viên du học: thiếu thốn các nhu cầu văn hóa và tinh thần cơ bản của quê hương, cơ hội tìm bạn tình hoặc bạn đời bị giảm thiểu (với phái nam), vân vân. Không phải hiếm mà người ta hay thấy bọn Ph.D hơi ... gàn gàn. Công bằng mà nói, gradudate students do thiếu thốn văn hóa hay tìm cách nghiên cứu học hỏi thêm cái này cái khác ngoài ngành của mình (nhạc, thơ, lịch sử, chính trị, triết học, ...), cho nên bọn gàn cũng có thể rất đa tài. Ở Mỹ thì địa vị xã hội của một Ph.D cũng chẳng hơn gì các nghành nghề khác là mấy.
Yếu tố tinh thần này rất quan trọng. Có không ít các gradudate students cần đến 8, 9 năm mới làm xong Ph.D. Nhiều năm trời "ở mãi kinh kỳ với bút nghiên", ngoảnh đi ngoảnh lại chưa làm được gì ra hồn mà đã ngoài 30. Khi thị trường việc cho Ph.D bị thuyên giảm thì người ta rơi vào cái vực muôn thuở: "về hay ở", "về thì đâm đầu vào đâu?". Nhiều năm làm việc với mức lương vừa đủ sống, các Ph.D mới ra trường hoàn toàn không dành dụm được gì, chưa nói đến việc nợ thẻ tín dụng kha khá. Dù các nhà chức trách đã có kế hoạch đãi ngộ nhân tài, chế độ này vẫn còn xa rời thực tế. Ðầu tư tinh thần và thời gian của một Ph.D quá nhiều để có thể hài lòng với một công việc một vài triệu đồng một tháng. Họ sẽ phải tự hỏi: nếu xưa mình không đi học thì bây giờ cũng có thể đã phây phây lương vài triệu một tháng? Vậy cả chục năm trời bỏ ra công cốc à? Tôi đã nhập nhằng yếu tố tinh thần và kinh tế, nhưng đôi khi ta không tách rời chúng được.
Một khía cạnh khác của yếu tố tinh thần là sức ép của gia đình và người thân. "Người ta 4 năm đã xong Ph.D, vợ con nhà cửa đàng hoàng, bọn không Ph.D thì cũng giám đốc với trưởng phòng, xây nhà to cửa rộng cho bố cho mẹ; còn mày bây giờ ngoài 30 mà vẫn cứ lông bông tay trắng. Ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng".
Về mặt triết học mà nói thì có đáng học Ph.D không? Câu hỏi này phụ thuộc rất nhiều vào bản thân sinh viên: đi học Ph.D để làm gì? Ta sẽ quay lại điểm này trong phần tới.
Bây giờ hãy giả dụ cụ hay mợ Ph.D yêu dấu của ta tìm được một công việc ổn định ở nước ngoài, quyết định ở lại tích lũy tư bản giúp gia đình và tích lũy kinh nghiệm để  sau này, cách này hay cách khác, (về) giúp quê hương. Có hai nhánh công việc chính cho một Ph.D mới ra trường: (a) làm việc ở một phòng nghiên cứu chuyên nghiệp nào đó, và (b) một chân giảng viên hoặc giáo sư ở một trường đại học.
(Hai công việc này có thể chỉ có được sau một vài năm làm postdoc nữa . Ta hãy cứ gộp luôn postdoc vào tổng thời gian cho tiện, mặc dù lương postdoc khá hơn lương gradudate students).
Lương bổng và giá trị của vị trí mới phụ thuộc hoàn toàn vào việc người ta đánh giá Ph.D như thế nào. Tôi sẽ bàn về việc này trước. Tôi cũng có ý nói lan man về đề tài "định trị Ph.D" sau khi đọc một bản tin ở VNExpress thấy trong nước người ta có nói về đánh giá Ph.D loại "giỏi, khá, trung bình" (sau một buổi họp nào đó). Phạm vi "định trị Ph.D" của tôi chủ yếu áp dụng cho các nghành kỹ thuật và khoa học tự nhiên như điện, điện tử, khoa học máy tính, toán, lý, ...
Khi xưa thì giá trị của một Ph.D mới ra trường tùy thuộc vào giá trị công trình nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp. Sau khi ra trường thì doctor mới sẽ phát triển công trình này thành một vài bài báo đăng ở các tạp chí (journals) và hội nghị (conference) chuyên ngành. Các bài báo này đều được phê bình (reviewed) bởi các chuyên gia đã trưởng thành trong cùng ngành. Các bài báo không đóng góp gì nhiều hoặc vớ vẩn sẽ không được nhận đăng.
Hiện nay thì áp lực đăng báo (publication) của graduate students khi còn đang học lớn hơn gấp bội. Một công việc kha khá ở một trường đại học hay phòng nghiên cứu danh tiếng thường nhận doctor mới với hơn chục bài báo. Trung bình một giáo sư trẻ mới ra trường trong ngành khoa học máy tính có đến khoảng 3-5 journal papers và cả chục conference papers.
Dĩ nhiên số lượng là thứ yếu, chất lượng mới quan trọng. Một công trình chất lượng cao sẽ được nhiều người biết đến rất sớm, và có thể nói không ngoa là nó quan trọng hơn cả trăm bài báo dạng ... "bổ củi". (Bổ củi là tính từ dân gian trong giới khoa học Việt Nam để chỉ các bài báo thường thường bậc trung, ai làm mãi rồi cũng xong).
Ðối với Ph.D ở Mỹ thì điểm học trung bình khi học Ph.D hầu như không mang ý nghĩa gì cả, ngoại trừ điểm tối thiểu để có thể được tiếp tục học, khoảng chừng 3.3 đến 3.5 trên 4.0, tùy theo trường. Số lượng và chất lượng các bài báo và các công trình nghiên cứu khác (một ứng dụng máy tính chẳng hạn) mới là tiêu chí đánh giá Ph.D. Không có chuyện người ta xếp loại Ph.D trung bình, yếu, giỏi, khá, vân vân. Lý do chính là: làm chuyện này hầu như là vô vọng. Ai có đủ thẩm quyền và thời gian để đánh giá. Kể cả giáo sư hướng dẫn chưa chắc đã biết hết về phân ngành mà sinh viên của mình làm, huống gì người ngoài. Có rất nhiều công trình đăng báo vài năm hoặc vài chục năm sau người ta mới thấy hết giá trị của nó. Cũng có cả tỉ công trình lúc mới đăng thì ai cũng xúm vào khen, nhưng vài năm sau thì lặng tăm.
Dĩ nhiên có khá nhiều các công trình mà người trong ngành đọc biết ngay là "dỏm" hay "xịn". Nhưng vấn đề chính là không ai có thời gian xếp loại và định trị Ph.D. Ở Mỹ, kinh tế thị trường tương đối công bằng. Ph.D giỏi sẽ được đồng nghiệp biết đến, tìm được việc ở các trường đại học và phòng nghiên cứu danh tiếng, vân vân. Cũng có thể có Ph.D giỏi không tìm được việc, hoặc Ph.D dỏm "lọt lưới" cung cầu. Các trường hợp này đều là ngoại lệ hiếm hoi.
Lại nói thêm về đăng báo. Ta hãy nhớ mục tiêu (b) của Ph.D: đóng góp vào khối kiến thức của nhân loại. Ph.D mà không có bài báo nào thì có 10 Ph.D cũng hoàn vô nghĩa, theo nghĩa tinh khiết nhất của chữ Ph.D. Chí ít, Ph.D phải chia xẻ các thu lượm và nghiên cứu của mình với đồng nghiệp ở một vài hội nghị và journal danh tiếng nào đó.
Các nhà xuất bản khoa học ở phương Tây cũng làm kinh tế. Có rất nhiều các hội nghị và journals hạng bét, bài vớ va vớ vẩn cũng đăng vào được. Chỉ có người trong ngành mới biết được hội nghị và journal nào có uy tín. Mà kể cả ở các nơi có uy tín này ta vẫn có thể tìm thấy các bài báo tồi.
Tóm lại, công việc "định trị Ph.D" hoàn toàn không đơn giản chút nào. Áp lực phải đăng báo đè rất nặng lên vai các gradudate students. Ngược lại, cảm giác công trình của mình được đồng nghiệp công nhận và đánh giá cao cũng rất tuyệt vời!
Trong 5, 6 năm đầu sau khi ra trường, bất kể công việc là giáo sư hay nghiên cứu viên, áp lực viết báo và xin tiền làm nghiên cứu còn nặng hơn khi còn là sinh viên nữa.
(Ở đây ta loại trừ các trường hợp người ta chỉ muốn có Ph.D để theo đuổi nghề giảng viên (lecturer) nào đó. Có lẽ phải khẳng định rằng mục tiêu này cũng cao quí như các mục tiêu "cạnh tranh khắc nghiệt" khác.)
Nếu Ph.D trẻ không khẳng định được mình trong 5, 6 năm đầu tiên này thì thường là sẽ không giữ được công việc của mình. Có lẽ bạn đọc cũng có thể tưởng tượng được áp lực này nặng như thế nào. Các bài báo đều là các công trình sáng tạo mà trước đó chưa có ai làm, chưa có ai nghĩ ra (chí ít là về nguyên tắc). Làm thế nào mà ai đó có thể đảm bảo một năng suất sáng tạo nhất định trong một thời gian dài như vậy? Có đáng bỏ ngần ấy thời gian và công sức cho một mục tiêu mà phần thưởng về cả kinh tế, tinh thần, triết học, sức khỏe đều khá mập mờ?