Khiemnguyen

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

Báo chí trong kỷ nguyên số hóa (phần 1)



Báo chí có hòa tan trong kỷ nguyên số?


Nguyễn Bùi Khiêm

Internet ra đời có làm nên một cuộc đảo chính đối với báo chí? Khó có thể nói đó là một phương tiện có thể vượt lên sự tồn tại lên đài phát thanh, truyền hình và các loại hình báo chí truyền thống. Nhưng có điều chắc chắn là sự tồn tại của nó sẽ chỉ xảy ra với một cuộc cải cách chưa từng có, bởi vì nó không phải là một trang sử mới được mở ra, nhưng là một câu chuyện mới bắt đầu.
Đọc báo không còn là việc “cầu nguyện buổi sáng của người đàn ông hiện đại”, như được giải thích trong một câu nói nổi tiếng của Hegel. Trong một cuộc khủng hoảng kinh tế, sự khan hiếm các nguồn tài nguyên quảng cáo, đã đẩy báo chí cuốn theo cuộc khủng hoảng về cơ cấu. Tính lỗi thời của mô hình kinh doanh truyền thống không còn là yếu tố chính của sự suy giảm này được đặt ra như một câu hỏi: Tại sao ta phải trả tiền cho thông tin khi mà ta có thể có được nó rất dễ dàng và miễn phí trên Internet?
Các nhà báo bị tước đoạt vị thế độc quyền thông tin và điều đó là một bước ngoặt lớn trong lịch sử  hoạt động của báo chí. Thích ứng hay biến mất? điều đó buộc báo chí phải suy nghĩ lại và tái cấu trúc mình để tồn tại trong kỷ nguyên kỹ thuật số.
Để tìm hiểu vấn đề liên quan đến việc số hóa các nội dung, chúng ta bắt đầu bằng cách phân tích sự chuyển động kép giữa công nghệ và kinh tế, sự mất ổn định và suy yếu của các mô hình kinh tế công nghiệp của các phương tiện truyền thông in ấn. Từ đó, buộc chúng ta phải hướng cái nhìn về những thách thức của báo chí truyền thống của đối với cuộc sống của công chúng với văn hóa web, và “công dân nhà báo”, có thể được hiểu như những người bình thường hoặc chuyên gia phổ biến thông tin không được sản xuất bởi các phương tiện truyền thông đại chúng. Và cuối cùng, chúng tôi cố gắng phác họa một định nghĩa lại vai trò của các nhà báo trong ánh sáng của cơ chế mới và tự do mới được tạo ra trong thời đại số.
Kinh tế và Công nghệ
Để hiểu được nhiều thách thức phải đối mặt với báo chí, cần phải nhận thức được sức ép và tốc độ của cuộc cách mạng kỹ thuật số và tác động của nó trên các mô hình kinh doanh của các công ty truyền thông. Trong vòng chưa đầy mười năm, việc số hóa khối lượng nội dung thông tin có tác động như một trận động đất trong một thế giới mà các phương tiện truyền thông đã dựa trên chiến lược của họ phổ biến các phương tiện truyền thông giấy.
Nhưng 600 năm sau Gutenberg, có ba yếu tố đã làm đảo lộn trật tự vốn có, đó là: truy cập miễn phí các thông tin; sự dịch chuyển của ngân sách quảng cáo Internet và sự bùng nổ về nhu cầu đó đã làm chuyển đổi mô hình tiêu thụ thông tin.
Mô hình kinh tế truyền thông vấp phải sự bất ổn đầu tiên - miễn phí. Điều này đã giáng một đòn nặng vào các phương tiện truyền thông. Có thể thông qua sự xuất hiện của báo chí tự do hoặc cổng thông tin Internet, thông tin đã bị mất giá trị thị trường trực tiếp của nó. Có quá nhiều thông tin miễn phí thay vì bạn phải trả tiền cho thông tin chung. Trong bối cảnh của sự giàu có nội dung, đa số người sử dụng Internet hiện nay muốn chỉ là “nhận thức” và không nhất thiết phải được thông báo với những thông tin cụ thể, điều đó có nghĩa là, với nhiều người khi sử dụng Internet chỉ cần dừng lại ở sự nhận thức và hiểu biết bối cảnh của thông tin.
Số hóa và phát hành nội dung số trên các trang web đã phá vỡ sự phụ thuộc vào quảng cáo trên báo chí truyền thống: khách hàng không còn cần báo giấy và tạp chí để truyền bá thông điệp của họ. Điều đó, đương nhiên làm giảm khối lượng của doanh thu quảng cáo.
Các nguồn lực tài chính của các tờ báo Mỹ giảm hai phần ba giữa cuối những năm 1990 (60 tỷ USD) và 2011 (20 tỷ USD). Một nghiên cứu của dự án của Trung tâm nghiên cứu Pew cho Excellence in Journalism [1] ở 121 tờ báo Mỹ cho thấy, trung bình, mỗi đồng đô la mới của doanh thu quảng cáo thu được của các tờ báo trên internet, họ sẽ mất bảy đô la doanh thu quảng cáo trong của họ trong truyền thông in ấn.
Hậu quả trực tiếp của cạnh tranh trên thị trường quảng cáo, công ty truyền thông đã thay đổi cách chúng ta nhận thức sản xuất thông tin và giá trị của nó. Trong một nghiên cứu dành cho các “báo chí kỹ thuật số” [2] tại các trường đại học Báo chí Lille trong tháng 5/2011, Jean-Marie Charon, nhà truyền thông xã hội học tại CNRS, đã tóm tắt:
Trên mạng Internet, xét đến cùng, nội dung thông tin báo chí chỉ là của một nguồn. Ngay từ đầu, các phương tiện truyền thông đã thấy trong phương tiện truyền thông mới đồng thời là mối đe dọa đối với mô hình kinh doanh của họ và, cùng một lúc, nó là một hình thức của cơ hội.
Trên thực tế, logic của sản xuất “nội dung” đã khiến giới truyền thông cạnh tranh với các công ty có hoạt động tập trung vào việc tiếp thị và dịch vụ theo định hướng giải trí, “giải trí”: Facebook, Google, Yahoo hay Microsoft. Như vậy, theo dự báo khác nhau, đến năm 2015 Facebook có thể nắm bắt được một phần năm của tất cả các quảng cáo trực tuyến. Bên cạnh sự cạnh tranh từ các công cụ tìm kiếm, mạng xã hội khác và truy cập Internet có ảnh hưởng đến dòng chảy của các nhà cung cấp lưu lượng truy cập.
Một số biên tập viên đã quyết định phản ứng bằng cách đa dạng hóa thông qua các hoạt động mới. Báo chí nghề và kỹ thuật đã mở đường với doanh thu là từ 20 đến thậm chí 30% các hoạt động phụ trợ cho một mô hình khớp nối với công ty dịch vụ hoạt động.
Trong khi đó, hiện tượng của tự do mở cửa vào tình trạng thừa cung có sẵn. Những hình thức mới của sự cạnh tranh đã là một phần của một tảng băng chìm tổng thể cho báo chí hàng ngày mà đồng thời phải đối phó với suy giảm và lão hóa độc giả, khó khăn tài chính và sự tăng giá của giấy in.
(còn nữa)

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Hội tụ đa phương tiện



HỘI TỤ ĐA PHƯƠNG TIỆN


Nguyễn Bùi Khiêm

Đa phương tiện là sự cùng tồn tại và tương tác của một số phương tiện thông tin đai chúng trong cùng một môi trường hoặc bối cảnh thông tin.
Thuật ngữ “đa phương tiện” được đưa ra vào cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990, media xuất phát từ tiếng Latinh là “trung gian”, ở đây được hiểu như một “phương tiện bắc cầu để truyền bá thông tin”. Khi ta kết hợp với từ Multi (nhiều, đa) thì gần như có thể chuyển thành “một loạt các phương tiện”.
Trong những năm qua, thuật ngữ “đa phương tiện” đã có nhiều ý nghĩa. Theo học giả Maragliano, đa phương tiện có thể được hiểu như là sự hợp lưu của ba phương tiện truyền thông và truyền thống văn hóa:
- Báo chí với đặc trưng bởi tính khách quan, phân tích, có hệ thống;
- Hệ thống nghe nhìn (audiovision) với tính chủ quan, tính toàn cầu, mở,
- Cơ chế tương tác, nơi người sử dụng có một chức năng đồng tác giả. 
Mặc dù nghiên cứu tâm lý đã giúp mở rộng ý nghĩa của thuật ngữ, phân biệt giữa hai hình thức đa phương tiện: cách trình bày định dạng mà sử dụng nhiều kênh cảm giác, chẳng hạn như quá trình nhận thức cho phép việc trao đổi các kiến ​​thức và nhận thức mới.
Trong lĩnh vực truyền thông, khi truyền đạt thông tin về một cái gì đó chúng ta sử dụng nhiều phương tiện truyền thông, có nghĩa là các phương tiện thông tin đại chúng có thể truyền tài hình ảnh chuyển động khác nhau (video), hình ảnh (pictures, photo), âm nhạc (music), văn bản (text) và đồ họa (graphic). Ví dụ, một bách khoa thư truyền thông” (chẳng hạn như Wikipedia), không thể giống như một bài báo hoặc một từ điển bách khoa toàn thư bình thường, vì nó có thể cho phép kết hợp cho từng hạng mục không chỉ giải thích của văn bản, mà còn hình ảnh, bản vẽ giải thích, phim, âm thanh, âm thanh bình luận... Nhờ khả năng biểu cảm và giao tiếp, đa phương tiện đã lan rộng trong mọi lĩnh vực của nền văn hóa và xã hội, từ giáo dục cho các trò chơi, từ tài liệu đến chương trình. Như vậy, nó liên quan đến tất cả các hình thức truyền thông.
Hội tụ đa phương tiện được thực hiện dựa trên những thành tựu của công nghệ kỹ thuật số để tạo ra một công cụ (mới) để cung cấp thông tin. Hội tụ có nghĩa là sử dụng một giao diện duy nhất cho tất cả các dịch vụ thông tin về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: giáo dục, an ninh, dịch vụ, ngân hàng, giải trí…
Nicholas Negroponte là một trong những người sáng tạo của lý thuyết hội tụ, theo đó, công nghệ kỹ thuật số cho phép tạo ra các giao diện được gọi là “tùy biến kỹ thuật số” như một thư ký riêng của mình, những người sẽ có thể tự động phân biệt xử lý các thông tin mà chúng ta quan tâm. Dòng chảy tự do của thông tin phù hợp với nhu cầu thông tin của người sử dụng sẽ đảm bảo rằng bạn đưa ra điểm mạnh và điểm yếu của khu vực này ngay lập tức dựa trên chất lượng cuộc sống trong các phạm vi, khu vực nhất định, mặt khác sẽ mang lại lợi ích lớn mang tính tổng thể kết nối với các sự kiện và các lĩnh vực được quan tâm. Có thể đưa ra năm quy luật chi phối sự hội tụ:
- Tất cả các thông tin có thể được chuyển đổi thành dạng kỹ thuật số và có thể hội tụ;
- Hội tụ là cơ sở đa phương tiện và loại bỏ sự phân biệt giữa các phương tiện thông tin liên lạc.
- Bản chất của hội tụ là làm cho các loại hình truyền thông có trước náo trở nên lỗi thời và thoát ra khỏi những áp đặt của bất kỳ quy tắc riêng có về loại hình truyền thông truyền thống;
- Hội tụ có quy luật tự nhiên của riêng mình;
- Hội tụ không phụ thuộc vào ranh giới của những nguyên tắc có tính chất hành chính./.

Hội tụ truyền thông là gì?



TRUYỀN THÔNG HỘI TỤ


Nguyễn Bùi Khiêm

Sự phát triển của công nghệ thông tin đã dẫn đến sự thay đổi vai trò cho các nhà báo và những điều kiện cần thiết cho các nhà báo đa kỹ năng hoạt động tạo ra sự đột phá mang tính cách mạng về cách làm tin và đưa tin. Hình thức hoạt động mới của báo chí đặt ra yêu cầu mới về kỹ năng và quy trình sáng tạo các sản phẩm báo chí.
Ngoài nhiệm vụ truyền thống của họ, các phóng viên trở thành phải sử dụng máy camera, ghi âm; vừa là phóng viên, biên tập viên, vừa làm chủ nhiệm, trợ lý sản xuất, sản xuất và có thể phải trực tiếp sử dụng các chương trình biên tập.
Một xu hướng phát triển trong các nhà truyền thông là nhiều nhà báo có thể làm việc cho nhiều hơn một phần quy trình của truyền thông truyền thống. Các nhà báo phát thanh truyền thống hàng ngày phải nộp cả bản tin phát thanh (đương nhiên), bản tin video cho truyền hình và bản text cho báo in và cho các phiên bản trực tuyến của tờ báo của họ. Đó chính là sự hội tụ.
Từ thực tiễn hoạt động đó, khoa học báo chí đang đi theo một đường hướng rõ ràng. Hầu hết các khóa học báo chí ở các cơ sở đào tạo đã và đang phải có bước dịch chuyển về chương trình đào tạo với những nội dung và kỹ năng phù hợp để đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp truyền thông cho các nhà báo đa kỹ năng. Sinh viên được đào tạo để học các kỹ năng không chỉ trong phương tiện truyền thông truyền thống mà còn trên nhiều nền tảng phương tiện truyền thông.
1. Lý thuyết về truyền thông hội tụ 
Hội tụ công nghệ là xu hướng tích hợp vào một hệ thống nhiều công nghệ khác nhau để phát triển theo hướng thực hiện nhiệm vụ tương tự. Hội tụ có thể tham khảo công nghệ riêng biệt đã có từ lâu nay như giọng nói (voice), dữ liệu (data, text, graphic), và hình ảnh (video) thành một nguồn tài nguyên có thể chia sẻ và tương tác với nhau.
Sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông kỹ thuật số vào cuối thế kỷ 20 đã làm cho nó có thể cho các tổ chức phương tiện truyền thông có thể phát hành, cung cấp văn bản, âm thanh và tài liệu video qua các phương thức truyền tin có dây, kết nối không dây, hoặc cáp quang cùng. Đồng thời, nó lấy cảm hứng từ một số tổ chức phương tiện truyền thông để khám phá giao thức đa phương tiện thông tin (Multimedia). Thuật ngữ hội tụ kỹ thuật số của phương tiện truyền thông (Mediamorphosis) của nhà nghiên cứu Roger Fidler đưa ra trong một cuốn sách của ông từ năm 1997. 
Ngày nay, chúng ta được bao quanh bởi một phương tiện truyền thông hội tụ đa cấp mà tất cả các phương thức truyền thông và thông tin liên tục để thích ứng với nhu cầu lâu dài của công nghệ: “thay đổi cách chúng ta tạo ra, tiêu thụ, tìm hiểu và tương tác với nhau”.
Hội tụ trong trường hợp này được định nghĩa là sự nối kết với nhau các máy tính và công nghệ thông tin khác, nội dung truyền thông, và các mạng lưới thông tin liên lạc đã phát sinh như là kết quả của sự phát triển và phổ biến của Internet cũng như các hoạt động, các sản phẩm và dịch vụ đã xuất hiện trong các không gian phương tiện truyền thông kỹ thuật số. 
2. Hội tụ truyền thông
Hội tụ truyền thông là giao điểm giữa phương tiện truyền thông cũ và mới. Jenkins nói rằng hội tụ truyền thông: “Là dòng chảy của nội dung thông tin trên nhiều nền tảng phương tiện truyền thông, sự hợp tác giữa các ngành công nghiệp truyền thông và hành vi dịch chuyển (moblie) của công chúng sử dụng  phương tiện truyền thông”.
Phương tiện truyền thông hội tụ không chỉ là một sự thay đổi công nghệ, quy trình công nghệ, nó cũng bao gồm những thay đổi trong mô hình công nghiệp, văn hóa và xã hội khuyến khích người tiêu dùng để tìm kiếm thông tin mới. Hội tụ, chỉ cần đặt, là cách người tiêu dùng cá nhân tương tác với những người khác trên phương diện xã hội và sử dụng nền tảng phương tiện truyền thông khác nhau để tạo ra những trải nghiệm mới, hình thức mới của phương tiện truyền thông và nội dung kết nối xã hội, và không chỉ cho người tiêu dùng khác, nhưng các nhà sản xuất của công ty của phương tiện truyền thông trong những cách mà đã không được như dễ dàng tiếp cận trong quá khứ.
Những tiến bộ trong công nghệ mang lại khả năng hội tụ công nghệ mà Rheingold tin rằng có thể thay đổi “hiệu ứng xã hội” mà bên trong đó “thế giới ảo, xã hội và thể chất được va chạm, kết hợp và phối hợp”.
Nó đã được dự đoán trong những năm 1990 rằng một cuộc cách mạng kỹ thuật số sẽ diễn ra, những phương tiện truyền thông cũ sẽ được đẩy sang một bên bởi phương tiện truyền thông mới. Báo chí nói chung, trong đó có phát thanh, truyền hình ngày càng được thay thế bằng Internet, cho phép người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới được tự do truy cập nội dung phương tiện truyền thông ưa thích của họ dễ dàng hơn và với tốc độ ngày càng hơn.
Trong xã hội ngày nay, ý tưởng của phương tiện truyền thông hội tụ đã một lần nữa nổi lên mang tính cách mạng với mô hình phương tiện truyền thông cũ ngày càng được thay thế bằng phương tiện truyền thông mới. Mô hình hội tụ cho thấy rằng phương tiện truyền thông mới và cũ sẽ tương tác theo những cách phức tạp hơn so với dự đoán trước đây. Sự thay đổi mô hình theo sau cuộc cách mạng kỹ thuật số cho rằng phương tiện truyền thông mới đã được thay đổi ở tất cả mọi khía cạnh khác nhau. 
Phương tiện truyền thông hội tụ, trong thực tế, không chỉ là một sự thay đổi trong công nghệ. Nó làm thay đổi mối quan hệ giữa các ngành công nghiệp, công nghệ, khán giả, thể loại và thị trường. Phương tiện truyền thông hội tụ về cơ bản là một quá trình chứ không phải là kết quả, vì vậy không có hộp đen kiểm soát dòng chảy của phương tiện truyền thông. Với sự phát triển của các kênh truyền thông khác nhau và tính di động ngày càng tăng của viễn thông mới và các công nghệ máy tính, chúng ta đã bước vào một thời đại mà phương tiện truyền thông liên tục bao quanh chúng ta.
Phương tiện truyền thông hội tụ yêu cầu công ty truyền thông xem xét lại những giả định hiện tại về phương tiện truyền thông từ quan điểm của người tiêu dùng, như những ảnh hưởng tiếp thị và quyết định lập trình. Các nhà sản xuất phương tiện truyền thông phải trả lời cho người tiêu dùng mới được trao quyền.
Ngược lại, có vẻ như phần cứng đó là thay vì phân kỳ trong khi nội dung phương tiện truyền thông đang hội tụ. Phương tiện truyền thông đã phát triển thành thương hiệu có thể cung cấp nội dung trong một số hình thức. Hai ví dụ về điều này là Star Wars  The Matrix. Cả hai đều là những bộ phim, nhưng cũng là những cuốn sách, trò chơi video, phim hoạt hình, và con số hành động. Xây dựng thương hiệu khuyến khích mở rộng của một khái niệm, chứ không phải là việc tạo ra các ý tưởng mới. Trong khi đó, phần cứng đã đa dạng hóa để thích ứng hội tụ truyền thông. Phần cứng phải được cụ thể cho từng chức năng.
3. Sức mạnh và điểm yếu của truyền thông hội tụ
Một tác động tích cực của hội tụ là hiệu quả trong việc tạo ra nội dung và sản phẩm cho phép để thỏa mãn nhu cầu thông tin của người tiêu dùng. Đài truyền hình được phép có sâu hơn báo cáo vì quan hệ đối tác với báo. Báo chí và các đài truyền hình được phép cung cấp các báo cáo đa phương tiện đầy đủ các sự kiện thông qua Internet.
Tuy nhiên, một trong những tác động tiêu cực của báo chí hội tụ là lợi ích ít hơn là kiểm soát các thông tin cung cấp cho khán giả đại chúng. Dường như không có ai đặc biệt quan tâm trong rà soát thông tin trên Web, trên thực tế là không thể kiểm soát được.
Ý tưởng “dân chủ hóa thông tin” là tuyệt vời, tuy nhiên, có vẻ như chúng ta vẫn cần một cái gì đó hoạt động như một người gác cổng.  Cơ cấu báo chí truyền thống với người gác cổng của nó - biên tập viên và nhà xuất bản - chắc chắn là không hoàn hảo, nhưng nó đã cố gắng để sản xuất tin rằng có phần khách quan. Khách quan dường như là một giá trị bị loại bỏ trong xã hội hiện tại của chúng ta.
Tóm lại, sự xuất hiện của hội tụ truyền thông đáp ứng nhu cầu công nghệ kỹ thuật số đã được nâng lên trong vài năm qua. Và điều quan trọng là phải hiểu rằng hội tụ làm sáng tỏ về tương lai của các phương tiện truyền thông và những biến đổi đó sẽ ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.
Với các chuyên gia và sinh viên báo chí trong sự nghiệp báo chí tương lai của họ, những chuyển biến mới mang tính thời đại đã đặt ra những yêu cầu rất quan trọng để tìm hiểu những gì hội tụ truyền thông nói chung, báo chí nói riêng với những thách thức mà công nghệ đã mang lại.
Trong tương lai, phương tiện truyền thông truyền thống phải nắm lấy phương tiện truyền thông mới. Các nhà báo phải được trang bị kiến ​​thức, kỹ năng nhiều hơn. Và họ sẽ cần phải tham gia với một loạt các công nghệ và phong cách làm việc, cả trong và ngoài kỹ năng nghiệp vụ báo chí truyền thống.


Nguyenbuikhiem@gmail.com

Phóng sự báo chí và phóng sự văn học



ĐƯỜNG BIÊN THỂ TÀI


Nguyenbuikhiem@gmail.com

Mối quan hệ giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí có thể ví như hai vòng tròn cùng giao thoa ở một vòng cung”. Ngoài những điểm gặp gỡ nhau về đối tượng phản ánh, về tính xác thực và thời sự, giữa chúng có một khoảng cách nhất định bởi sự khác nhau về phương thức biểu hiện. Phóng sự báo chí chỉ dừng lại ở chức năng thông tin sự kiện, “tường thuật sự việc một cách trần trụi, không văn hoa”. Còn phóng sự văn học luôn hướng đến sử dụng một số hình thức biểu đạt của văn chương nhằm tạo sức năng động cho tác phẩm và hấp dẫn người đọc. Ngoài chức năng thông tin sự kiện, phóng sự văn học còn đảm nhiệm chức năng thông tin thẩm mỹ.
Vẫn còn nhiều ý kiến xung quanh việc có nên phân chia phóng sự thành phóng sự văn học và phóng sự báo chí hay không? Phóng sự là dạng thức phản ánh hiện thực cuộc sống có tính chất lưỡng hợp, nằm ở miền giao thoa giữa văn chương và báo chí. Vì thế, giữa chúng không cần thiết phải “thiết lập một giải phân cách” cố định. Một số nhà nghiên cứu đã quan niệm như vậy. Ngược lại, có ý kiến cho rằng: Mối quan hệ giữa văn chương và báo chí là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, khác với mối quan hệ “văn - báo bất phân” trước 1945, báo chí đương đại đang chuyển động theo xu hướng tách dần khỏi “sự phong tỏa của văn học”. Hai ngành đã thực sự tách ra độc lập. Từ quan điểm này, một số nhà lý luận, phê bình như Bùi Huy Phồn, Nôen Đuytơre, Đức Dũng, Hoài Thanh,... khẳng định việc xác lập đường biên giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học là cần thiết đối với việc phân định chức năng phản ánh, cũng như việc xác định kênh giao tiếp phù hợp với mỗi thể phóng sự.
Thế nhưng, lâu nay vấn đề này vẫn chưa được lý luận văn học và lý luận báo chí quan tâm đến. Trong một số công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và báo chí, sự khác biệt giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học cũng được điểm qua, song chỉ là những nhận xét sơ lược, thiếu tính hệ thống. Xuất phát từ tính chất cấp thiết của vấn đề, trên cơ sở khảo sát tác phẩm, bài viết sẽ đi đến xác lập ranh giới giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học thông qua một số đặc điểm nhận diện cụ thể sau.
Phóng sự báo chí
Phóng sự là thời đại. Nhiều nhà báo đã quan niệm như vậy. Leonard Ray Teel và Ron Taylor trong cuốn Bước vào nghề báo cho rằng: Nếu được nói một câu thật khái quát về báo chí, câu nói đó sẽ là “Cái gì mới?”. Thông tin thời sự là yêu cầu của phóng sự, song đối với phóng sự báo chí, yêu cầu đó càng được đặt ra nghiêm ngặt hơn. Phóng sự báo chí phải thông tin hiện thực ở tư thế trực tiếp nhất, cận kề nhất. Khác với phóng sự văn học, đường biên hiện thực có thể được nới rộng theo chiều quá khứ, thì vấn đề mà phóng sự báo chí quan tâm phải là vấn đề hôm nay, là những vấn đề, sự kiện nóng hổi, mới nảy sinh, “là những ghi chép còn tươi rói những chất liệu của đời sống hiện thực” [1, 24].
Thời gian là sinh mệnh của phóng sự. Áp lực của yêu cầu thời sự đã qui định phong cách người viết phóng sự báo chí: năng động, nhanh nhạy - nhanh nhạy trong nghe ngóng, dò tìm thông tin và nhanh nhạy, kịp thời chiếm lĩnh và công bố thông tin vào thời điểm lý tưởng nhất, đem lại hiệu ứng cao nhất.
Là thể loại “nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi dào và nóng hổi”, phóng sự báo chí được xem như một tư liệu sống có giá trị. Hiện thực được dịch chuyển vào phóng sự phải là một hiện thực “nguyên vẹn, một hiện thực còn chưa bị “chưng cất”, chính xác ở từng chi tiết, từng con số, từng địa chỉ . Bàn về đặc trưng của phóng sự, Trọng Lang cho rằng: “Phóng sự phải đúng và thật. Đúng như một tờ biên bản của một nhân viên có tuyên thệ để người đọc có thể tự động đi tìm để kiểm soát được ngày, giờ, địa điểm sự việc đã xảy ra, tên tuổi nhân vật đã tả, cả cái không khí lúc đó. Thật như một sự việc ghi trong hồ sơ toà án”. Tính xác thực là nguyên tắc, là thước đo giá trị tác phẩm báo chí. Vì vậy, một điều tối kỵ đối với người viết phóng sự báo chí là anh ta không được “sản xuất” thông tin, bịa đặt sự kiện, không được di chuyển không gian, thời gian, không được thay hình, đổi dạng nhân chứng. Phóng sự báo chí không chấp nhận hư cấu dưới bất cứ hình thức nào, kể cả hư cấu ở những miền không xác định. Phóng sự báo chí thuyết phục người đọc bằng lôgic của sự thật, “mô tả được hiện thực điển hình đúng với những phẩm chất tinh thần và bộ mặt của nó, nghĩa là tác phẩm đã tiếp cận đến với những phạm trù thẩm mỹ [2, 51].
Xuất phát từ mục đích thông tin sự kiện nên ngôn ngữ phóng sự báo chí có tính chất thông báo, hướng đến mô tả con người, sự việc. Tường minh, chính xác, cụ thể,… là đặc trưng của ngôn ngữ phóng sự báo chí. Nếu như phóng sự văn học cho phép sử dụng “ngôn ngữ của độ không xác định”, thì đối với phóng sự báo chí, mọi sự mơ hồ về ngôn ngữ, về hình ảnh đều không được chấp nhận. Phóng sự báo chí lôi cuốn người đọc bởi sự tinh tế trong lựa chọn và sắp xếp sự việc, chi tiết, bởi “cái tầm” trong nhìn nhận và đánh giá vấn đề của chủ thể sáng tạo, chớ không phải nhờ vào công nghệ luyện chữ. Ngôn ngữ phóng sự báo chí “đến thẳng trực tiếp với người đọc, không thông qua một trung gian nào. Không cần đến những hình thức diễn đạt quanh co gián tiếp, những ẩn dụ, phóng dụ, những thách đố về chữ nghĩa, những trò chơi về ngôn từ” [3, 91].
Phóng sự báo chí nhằm tạo ra văn bản đơn nghĩa. Ngoài tầng nghĩa hiển thị trực tiếp qua hệ thống ký hiệu ngôn ngữ, phóng sự báo chí không gợi mở một trường tư duy nào khác.
Phóng sự báo chí phản ánh và thẩm định hiện thực bằng cái tôi tỉnh táo và lý trí. Trong phóng sự báo chí, cái tôi tác giả có khi x uất hiện với tư cách là một nhân chứng làm nhiệm vụ nối kết các dữ liệu thông tin đến bạn đọc, khi khác trong vai trò một bình luận viên thẳng thắn bình bàn, luận xét vấn đề, không ít trường hợp làm công việc của một chuyên gia xã hội học nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện thực trạng. Dù đứng ở vị trí nào thì cái tôi tác giả luôn tỏ ra khách quan và sáng suốt. Khác với phóng sự văn học, có thể thẩm định hiện thực thông qua cái tôi cảm xúc thẩm mỹ, phóng sự báo chí xuất phát từ cái tôi khách quan, lý giải hiện thực bằng một tư duy biện chứng khoa học. Mọi kiến giải, mọi lập luận mà phóng sự báo chí đưa ra đều dựa trên những cứ liệu có thực. Phóng sự báo chí tác động trực tiếp đến lý trí, nhận thức người đọc.
Phóng sự văn học
Cũng lấy sự chân xác và thời sự làm thước đo chuẩn mực, song không yêu cầu phải ở mức độ tuyệt đối, phóng sự văn học cho phép tồn tại những miền “không xác định”. Những địa danh, những tên người có tính chất phiếm chỉ vẫn có thể xuất hiện trong phóng sự văn học. Với phóng sự văn học, thời sự không có nghĩa là hôm nay. Những vấn đề hôm qua - những vấn đề có tính chất vĩnh hằng vẫn có thể là đối tượng của phóng sự văn học. Thiên phóng sự Buried Secrets, Brutal Truth (Bí mật chôn vùi, Sự thật tàn bạo) của Michael D. Sallah và cộng sự được đăng trên tờ The Blade (Mỹ) vào giữa tháng 10/2003 là một minh chứng. Buried Secrets, Brutal Truth đã làm rúng động dư luận thế giới bởi nó đã lật lại, đã xới tung một sự thật mà chính phủ Mỹ đã cố tình chôn vùi hơn 36 năm qua. Đó là sự kiện trung đội thám báo tinh nhuệ Tiger Force - Mãnh Hổ (Mỹ) trong suốt 7 tháng của năm 1967, bằng nhiều hình thức giết người man rợ đã thảm sát hàng trăm thường dân khu vực thung lũng sông Vệ, thuộc tỉnh Quảng Ngãi (Việt Nam). Khi nói về ý tưởng thực hiện phóng sự này, Michael D. Sallah cho biết: khai quật quá khứ chiến tranh ở Việt Nam, đưa ra ánh sáng vụ việc bị chìm vào quên lãng là “để những vụ việc như thế sẽ không bao giờ diễn ra nữa. Chúng ta hẳn không ai muốn nhiều năm sau lạ phải đọc những bài viết về một vụ thảm sát như thế tại Iraq chẳng hạn. Lịch sử luôn có cách lặp lại nếu chúng ta không biết cách xử lý ngay từ hôm nay” [4, 189]. Vì lẽ đó mà câu chuyện xảy ra hơn 36 năm về trước, đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Sau khi đăng trên tờ The Blade và đoạt giải Pulizer - giải thưởng cao quí nhất của báo chí Hoa kỳ vào năm 2004, Buried Secrets, Brutal Truth tiếp tục được đăng lại trên nhiều tờ báo danh tiếng của Mỹ. Hiện tượng Buried Secrets, Brutal Truth cho thấy khái niệm thời sự trong phóng sự văn học có thể được hiểu rộng hơn. Thời sự không hẳn là thực tại. Phóng sự văn học có thể lùi về với những vấn đề của quá khứ, song đó là những vấn đề đang làm “nhức nhối trí tuệ” cộng đồng.
Khác với phóng sự báo chí, thời sự và xác thực là yêu cầu tối thượng, phóng sự văn học “có thể thoát ra khỏi áp lực của người thật, việc thật” để mở rộng biên độ phản ánh bằng những liên tưởng, tưởng tượng giàu tính thẩm mỹ. So với phóng sự báo chí, không gian sáng ạo trong phóng sự văn học rộng rãi hơn. Ngoài hư cấu kỹ thuật - kỹ thuật lựa chọn, loại bỏ những gì được xem là thừa thãi, không cần thiết, giống như “rodin cắt bỏ phần thừa của tảng đá để tạo ra pho tượng”, phóng sự văn học còn được phép sử dụng hư cấu nghệ thuật ở những thành phần không xác định (thế giới nội tâm nhân vật, cảnh sắc thiên nhiên). Tuy nhiên, khác với tiểu thuyết và truyện ngắn, hư cấu trong phóng sự văn học không phải là sự tưởng tượng, thêm thắt vô căn cứ. Trong phóng sự văn học, trường tư duy, liên tưởng của nhà báo như “cánh diều luôn bị sợi dây giữ chặt với mặt đất”. Phóng sự văn học có thể căn cứ vào “cái lõi của sự thật” để tưởng tượng, để sáng tạo thêm những chi tiết mới miễn là không làm thay đổi bản chất của sự kiện.
Phóng sự văn học và phóng sự báo chí còn có thể phân biệt ở cách thức sử dụng ngôn từ. Để chuyển tải thông tin đến người đọc, phóng sự báo chí chủ yếu sử dụng ngôn ngữ sự kiện, trong khi đó phóng sự văn học có thể chuyên chở hiện thực bằng kênh ngôn ngữ giàu hình tượng thẩm mỹ, là lớp ngôn ngữ sống động, giàu sắc thái biểu cảm, hàm ẩn nhiều tầng nghĩa thông qua nghệ thuật sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ khá phổ biến. Được tôi luyện, nung cháy, gọt giũa qua bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ, ngôn ngữ trong phóng sự văn học trở nên mềm mại, giàu sức biểu cảm hơn. Nếu ở phóng sự báo chí, mọi sự mơ hồ về mặt ngôn ngữ sẽ không được chấp nhận thì phóng sự văn học cho phép vận dụng “ngôn ngữ của độ không xác định”, là cách diễn đạt khơi gợi, kích thích khả năng tư duy, tạo cơ hội để người đọc đồng sáng tạo. Vì vậy, phóng sự văn học không tồn tại một cách hiểu duy nhất. Ý nghĩa của văn bản sẽ được phái sinh, chuyển hoá tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức cuả người đọc. Phóng sự văn học “như con ong, chỉ chích một mũi rất nhẹ nhàng nhưng hiệu quả thì không phải là một ” [5, 252], nói một điểm nhưng ý nghĩa bao trùm nhiều chân trời của cuộc sống. Những ưu thế trên đã tạo nên đặc điểm của phóng sự văn học là tính đa nghĩa của văn bản.
Phóng sự văn học là một thể tài có cấu trúc mở, có thể kết hợp nhiều phương thức phản ánh như tự sự, trữ tình, nghị luận. Sự đan xen, phối kết của nhiều cách thức chuyển tải thông tin đem lại cho phóng sự văn học khả năng “phủ sóng” đến nhiều vùng hiện thực của cuộc sống, kể cả những vùng hiện thực được xem là nhạy cảm. Mặt khác, sự cộng hưởng, sự kết hợp uyển chuyển của các phương thức phản ánh đã qui định tính chất của cái tôi trong phóng sự. Cái tôi trong phóng sự văn học là cái tôi năng động, linh hoạt. Ở đó, cái tôi cảm xúc thẩm mỹ như một thứ gia vị không thể thiếu trong quá trình phản ánh và thẩm định hiện thực, qui định sắc diện của phóng sự văn học: sâu sắc, mềm mại, nhân văn hơn.
Bản sắc của phóng sự văn học còn được nhận diện ở nghệ thuật di chuyển điểm nhìn trần thuật. Nếu như phóng sự báo chí thường khởi động tại thời điểm hiện tại. Theo đó, sự kiện lần lượt được mở ra theo dòng chảy tuyến tính, dòng trần thuật dường như không còn chỗ dành cho những suy tư, hoài niệm thì ở phóng sự văn học trình tự trần thuật nhiều khi không tuân thủ theo diễn biến của sự kiện. Thời gian, không gian có thể dịch chuyển, hoạt biến theo ý đồ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Từ hiện tại, phóng sự văn học có thể ngược dòng hồi ức trở về với quá khứ, đôi khi lại theo dòng tưởng tượng để hướng đến tương lai. Bên cạnh đó, đường biên trần thuật còn được nới rộng bởi nhiều nhánh phụ với những đoạn, tiểu đoạn miêu tả nội tâm nhân vật, cảnh sắc thiên nhiên khá ấn tượng. Vì vậy, bức tranh con người và cuộc sống trong phóng sự văn học hiện lên khá sinh động và sắc nét.
Từ những tìm hiểu trên, có thể nhận thấy phóng sự báo chí và phóng sự văn học, ngoài những điểm giống nhau về đối tượng phản ánh, tính xác thực và thời sự, giữa chúng vẫn có một khoảng cách nhất định bởi sự khác nhau về phương thức biểu hiện. Phóng sự báo chí chỉ dừng lại ở chức năng thông tin sự kiện, “tường thuật sự việc một cách trần trụi, không văn hoa”. Còn phóng sự văn học luôn hướng đến sử dụng một số hình thức biểu đạt của văn chương nhằm tạo sức năng động cho tác phẩm, hấp dẫn người đọc. Ngoài chức năng thông tin sự kiện, phóng sự văn học còn đảm nhiệm chức năng thông tin thẩm mỹ.
Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử báo chí từ khi xuất hiện đến nay, một điều dễ dàng nhận thấy là văn học và báo chí quan hệ, gắn bó như hai người bạn đồng hành. Vì thế, sự phân biệt phóng sự văn học và phóng sự báo chí cũng chỉ ở mức độ tương đối. Thực tế, phóng sự văn học và phóng sự báo chí thường xuyên có sự chuyển hoá lẫn nhau.
[1]                    Đức Dũng, Ký văn học và ký báo chí, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội , 2003.
[2]                    Đức Dũng, Ký báo chí, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, 1992.
[3]                    Hà Minh Đức, Cơ sở lý luận báo chí đặc tính chung và phong cách, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2000.
[4]                    Michael D. Sallah, Mitch Weiss, Joe Mahr, Bí mật chôn vùi, sự thật tàn bạo, Nhà xuất bản Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2005.
[5]                     Nhiều tác giả, Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2000.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Danh nhân làng báo Việt Nam - Đào Trinh Nhất



ĐÀO TRINH NHẤT(1900-1951)
MỘT NHÀ BÁO SÁNG DANH
                                                                   
Nguyễn Đình Chú
   Đào Trinh Nhất là nhân vật đã được Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại quyển Ba ở mục Truyện ký và lịch sử ký sự mệnh danh là “một tay kỳ cựu trong làng văn làng báo Nam kỳ và Bắc kỳ”. Đặc biệt, ngày ông qua đời (23/02/1951), báo chí trong Nam ngoài Bắc đã tôn vinh, dành cho ông không ít lời tốt đẹp: “Một lão thành trong làng báo”, “Một anh tài”, “Một kiện tướng trong văn giới, báo giới”, “Một ký giả lão thành”, “Một nhà báo kiêm sử gia có tiếng”, “Học vấn uyên thâm và thiên tài về nghề báo”, “Một danh tướng trong làng báo Việt Nam”... điếu văn của chủ nhiệm báo Cải tạo, nơi ông là chủ bút thì viết: “Nhớ anh xưa: khoa bảng nhà dòng, văn chương nếp cũ/ Học nhiều biết nhiều, Tây có Nho có/ đường trường dong vó ngựa, Nam tiến bao phen. Bể rộng vượt cánh hồng, Tây du mấy độ/ Cành câu cơm áo, đường công danh dơ gót mặt đua chen/Ngòi bút sắc đanh, trường ngôn luận thích đóng vai tự chủ”.
Vậy mà thời gian ít nhiều đã lãng quên ông.
Ngay người viết bài này, gần nửa thế kỷ trước đã phục ông khi đọc Nước Nhật Bản 30 năm duy tân và Đông Kinh nghĩa thục nhưng rồi cũng chỉ ngừng ở đấy. May mắn gần đây có ông Đào Duy Mẫn, một người nhiệt tâm với thân tộc, sau khi thành công với tuyển tập Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ mà tôi cũng có tham gia trong việc giới thiệu bài Văn sách thi Đình của cụ Hoàng Giáp cách đây vài năm, nay lại làm tiếp Tuyển tập tác phẩm Đào Trinh Nhất và cũng mời tôi tham gia. Quả thật lần này, nhờ sự hỗ trợ tư liệu của ông Đào Duy Mẫn mà tôi được tiếp cận với tác giả Đào Trinh Nhất tương đối đầy đủ hơn trước nhiều thì lòng cảm phục đã tăng lên gấp bội lần.
Tôi thấy đây là một ngòi bút có tài, có tầm, có tư tưởng không dễ có nhiều ở đương thời, cần được làm sống dậy cho xứng với tác giả đã đành mà còn cần cho đông đảo độc giả, những ai đang tha thiết quan tâm đến việc kho báu văn hoá tinh thần của dân tộc giữa thời buổi hội nhập gấp gáp, sôi động chưa từng có, được nhiều mà mất cũng không ít.
Đào Trinh Nhất xuất thân với nghề làm báo. Ông từng là chủ bút hoặc bỉnh bút của nhiều tờ báo khắp Nam Bắc trong khoảng 30 năm trời. Hữu Thanh tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Trung Hoà nhật báo, Đông Pháp (phụ trương bằng Việt ngữ của tờ France Indochine), Phụ nữ tân văn, Thần trung, Công luận, Đuốc nhà Nam, Mai, Trung Bắc tân văn, Trung Bắc chủ nhật, Sài Gòn mới, Ánh sáng, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy, Nước Nam, Việt thanh, Cải tạo. Thời gian du học ở Pháp (1926-1928), ông đã viết trên Việt Nam hồn.
Không biết trong làng báo nước ta xưa nay đã có bao nhiêu người có mặt trên nhiều báo chí như Đào Trinh Nhất mà phần lớn lại là báo có thanh thế, nhiều độc giả của đương thời. So với nhiều người làm báo cùng thời, Đào Trinh Nhất có mấy điều lợi thế hẳn hoi.
- Một, ông là con của Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, từng là yếu nhân của trường Đông Kinh nghĩa thục. Cái tên trường Đông Kinh nghĩa thục là do cụ đề xuất và được chấp nhận. Cụ lại là người làm báo đầu tiên của miền Bắc: Đốc biện (tức chủ bút) Đại Nam đồng văn nhật báo, chủ bút Đại Việt tân báo là tờ báo đầu tiên ở Hà Nội một nửa bằng chữ Hán, một nửa bằng chữ quốc ngữ (năm 1905). Năm 1907, đại Nam đồng văn nhật báo chuyển thành Đăng cổ tùng báo có quan hệ gần gũi với phong trào Đông Kinh nghĩa thục, trong đó phần chữ Hán vẫn do cụ làm chủ bút. Trường Đông Kinh nghĩa thục chỉ tồn tại được 9 tháng (3/1907-12/1907) thì bị giải tán. Năm 1908, sau vụ Hà thành đầu độc binh lính Pháp, các cụ tham gia Đông Kinh nghĩa thục bị khủng bố. Cụ Đào Nguyên Phổ bị truy lùng ráo riết. Trong cơn nguy nan đó, để tránh phiền toái cho người thân và những người từng cưu mang che chở cho mình, cụ đã quyên sinh. Cuộc sống cao cả của người Cha như vậy chắc hẳn đã ảnh hưởng rất lớn đến người con, mặc dù lúc cha qua đời thì con mới lên 8 tuổi.
Đào Trinh Nhất chịu ảnh hưởng cha trước hết là về nhân cách một con người đã sống chết với chính nghĩa, với lý tưởng ích quốc lợi dân, với nhiệt tình duy tân đất nước. Và dĩ nhiên còn là ảnh hưởng về sở thích, về khả năng làm báo trong đó có ký sự, có sử học. Một đời cầm bút của Đào Trinh Nhất đã để lại rất rõ những ảnh hưởng sâu đậm đó. Đây là hiện tượng cha truyền con nối, cha thế nào, con thế ấy, khá đẹp. Đào Trinh Nhất là người con có hiếu. Có thể chưa làm được một việc lớn như cha, nhưng ít ra cũng không làm việc gì đi chệch hướng của cha.
- Hai, Đào Trinh Nhất cũng có điều này khác với nhiều người làm báo đương thời. Ấy là chỗ, có những nhà báo nổi danh, ngang hoặc hơn cả Đào Trinh Nhất như Tản Đà, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố... nhưng đến với công việc viết báo, chủ yếu vẫn chỉ bằng văn hoá Hán học, dĩ nhiên ít nhiều đã được hiện đại hoá. Ngược lại không ít người làm báo khác cũng nổi tiếng như Hoàng Tích Chu hay như các cây bút của Phong hoá, Ngày nay thì hầu hết lại chỉ có Tây học. Trong khi ở Đào Trinh Nhất là vừa Hán học, vừa Tây học. Về Hán học, với ông, ngày học trường Đông Kinh nghĩa thục đã có được một ít. Sau đó, học thêm và đã dự kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915 dù không đỗ. Về Tây học, ông là học sinh trường Quốc tử giám ở Huế mà chương trình học vừa có Hán học vừa có Tây học. Sau đó từ năm 1926 đến 1928, ông lại cùng Hoàng Tích Chu, Đỗ Văn du học Pháp, chuyên ngành báo chí. Đọc vào báo phẩm, văn phẩm của Đào Trinh Nhất, ta thấy rõ các thế mạnh, chỗ hơn nhiều người khác của ông chính là ở vốn tri thức vừa có Hán, vừa có Tây, vừa có cổ, vừa có kim. Và chính đó đã lộ tư cách học giả của ông ngay trên mặt báo chí.
- Ba, cũng còn một nét khác giữa công việc làm báo của ông so với nhiều người làm báo khác đương thời là ông ít viết theo từng bài lẻ, mà viết theo chủ điểm lớn, viết theo hệ thống, theo chuyên đề... để rồi xâu chuỗi lại là thành một công trình chuyên khảo. Không ít công trình chuyên khảo của ông được in về sau là kết quả của một trạng thái làm báo mang phong cách riêng đó.
                                                                   
Nguyenbuikhiem@gmail.com