HỘI TỤ ĐA PHƯƠNG TIỆN
Nguyễn Bùi Khiêm
|
Đa phương
tiện là sự cùng tồn tại và tương tác của một số phương tiện thông tin đai
chúng trong cùng một môi trường hoặc bối cảnh thông tin.
Thuật ngữ “đa
phương tiện” được đưa ra vào cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990, media
xuất phát từ tiếng Latinh là “trung gian”, ở đây được hiểu như một “phương
tiện bắc cầu để truyền bá thông tin”. Khi ta kết hợp với từ Multi (nhiều, đa)
thì gần như có thể chuyển thành “một loạt các phương tiện”.
Trong những
năm qua, thuật ngữ “đa phương tiện” đã có nhiều ý nghĩa. Theo học giả
Maragliano, đa phương tiện có thể được hiểu như là sự hợp lưu của ba phương
tiện truyền thông và truyền thống văn hóa:
- Báo chí với đặc trưng bởi tính khách quan,
phân tích, có hệ thống;
- Hệ thống nghe nhìn (audiovision) với tính
chủ quan, tính toàn cầu, mở,
- Cơ chế tương tác, nơi người sử dụng có một
chức năng đồng tác giả.
Mặc dù nghiên
cứu tâm lý đã giúp mở rộng ý nghĩa của thuật ngữ, phân biệt giữa hai hình thức
đa phương tiện: cách trình bày định dạng mà sử dụng nhiều kênh cảm giác, chẳng
hạn như quá trình nhận thức cho phép việc trao đổi các kiến thức và nhận thức
mới.
Trong lĩnh
vực truyền thông, khi truyền đạt thông tin về một cái gì đó chúng ta sử
dụng nhiều phương tiện truyền thông, có nghĩa là các phương tiện thông tin đại
chúng có thể truyền tài hình ảnh chuyển động khác nhau (video), hình ảnh
(pictures, photo), âm nhạc (music), văn bản (text) và đồ họa (graphic). Ví
dụ, một bách khoa thư truyền thông” (chẳng hạn như Wikipedia), không thể giống
như một bài báo hoặc một từ điển bách khoa toàn thư bình thường, vì nó có thể cho
phép kết hợp cho từng hạng mục không chỉ giải thích của văn bản, mà còn hình
ảnh, bản vẽ giải thích, phim, âm thanh, âm thanh bình luận... Nhờ khả năng
biểu cảm và giao tiếp, đa phương tiện đã lan rộng trong mọi lĩnh vực của nền
văn hóa và xã hội, từ giáo dục cho các trò chơi, từ tài liệu đến chương trình. Như
vậy, nó liên quan đến tất cả các hình thức truyền thông.
Hội tụ đa
phương tiện được thực hiện dựa trên những thành tựu của công nghệ kỹ thuật số
để tạo ra một công cụ (mới) để cung cấp thông tin. Hội tụ có nghĩa là sử
dụng một giao diện duy nhất cho tất cả các dịch vụ thông tin về tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: giáo dục, an ninh, dịch vụ, ngân hàng, giải trí…
Nicholas
Negroponte là một trong những người sáng tạo của lý thuyết hội
tụ, theo đó, công nghệ kỹ thuật số cho phép tạo ra các giao diện được gọi
là “tùy biến kỹ thuật số” như một thư ký riêng của mình, những người sẽ có thể
tự động phân biệt xử lý các thông tin mà chúng ta quan tâm. Dòng chảy tự
do của thông tin phù hợp với nhu cầu thông tin của người sử dụng sẽ đảm bảo
rằng bạn đưa ra điểm mạnh và điểm yếu của khu vực này ngay lập tức dựa trên
chất lượng cuộc sống trong các phạm vi, khu vực nhất định, mặt khác sẽ mang lại
lợi ích lớn mang tính tổng thể kết nối với các sự kiện và các lĩnh vực được
quan tâm. Có thể đưa ra năm quy luật chi phối sự hội tụ:
- Tất cả các thông tin có thể được chuyển
đổi thành dạng kỹ thuật số và có thể hội tụ;
- Hội tụ là cơ sở đa phương tiện và
loại bỏ sự phân biệt giữa các phương tiện thông tin liên lạc.
- Bản chất của hội tụ là làm cho các loại
hình truyền thông có trước náo trở nên lỗi thời và thoát ra khỏi những áp đặt
của bất kỳ quy tắc riêng có về loại hình truyền thông truyền thống;
- Hội tụ có quy luật tự nhiên của riêng
mình;
- Hội tụ không phụ thuộc vào ranh giới của
những nguyên tắc có tính chất hành chính./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét