Khiemnguyen

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2015

Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí



I. Thân thế Nguyễn Văn Vĩnh
Ông sinh năm 1882 (ngày 15-6) tại Phượng Vũ, Thường Tín, Hà Đông. Sớm theo học Pháp, vào trường thông ngôn Hà Nội, năm 16 tuổi tốt nghiệp, được bổ làm thư ký tòa sứ Lào Cai, rồi thuyên chuyển qua Hải Phòng, Bắc Ninh, Hà Nội. Năm 1906, được cử sang Pháp dự cuộc hội chợ Đấu Xảo (foire d’exposition) Marseille. Trở về ông từ chức nhà nước để xoay sang nghề văn nghề báo và hoạt động chính trị.
Khởi đầu năm 1907, ông làm chủ bút tờ Đại nam đăng cổ tùng báo. Rồi ông chủ trương tờ Notre Journal (1908 -1909). Năm 1910 ông ra tờ Notre Revue (được 12 số) cũng năm đó làm chủ bút tờ Lục Tỉnh tân văn ở Sài Gòn. Năm 1913 ông về Hà Nội đứng chủ bút tờ Đông Dương tạp chí, rồi năm 1915 kiêm cả tờ Trung Bắc tân văn (Ba tờ này đều do một người Pháp là Schneider sáng lập). Năm 1919, tờ Đông Dương đổi làm Học báo, ông giữ chức chủ nhiệm, lại mua lại tờ Trung Bắc Tân Văn và cho ra hàng ngày. Năm 1927, ông cùng Vayrac lập ra tủ sách Âu Tây tư tưởng (La pensée de occident) in các sách ông dịch thuật. Năm 1931, ông ra tờ Annam Nouveau, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho tới 1934. Trong hai chục năm ông làm báo, vừa viết báo vừa trông nom việc quản trị. Ông lại còn là hội viên rất hoạt động của hai học hội lớn là Trí Tri và Khai Trí Tiến Đức. Thêm vào còn hoạt động về chánh trị, làm hội viên, Hội đồng thành phố Hà Nội từ 26 tuổi, và trong nhiều khóa liên tiếp, làm hội viên Hội Tư vấn Bắc kỳ (tức như viện dân biểu khi đó) từ năm 1913, và có chân trong Đại hội nghị Kinh tài Đông Dương (cơ quan tư vấn tối cao của chánh phủ Đông Pháp). Ngoài ra ông còn là người của Hội Nhân quyền Quốc tế tại Việt Nam (Ligue des droits de l’homme), là hội viên của hội Tam điểm Quốc tế (Franc Maconnerie).
Vào khoảng 1934 -1935, gặp hồi kinh tế khủng hoảng công việc kinh doanh ấn quán bị lỗ lã, ông muốn kiếm phương tiện bằng một đường thực nghiệp khác, mới cùng một người Pháp là Clémenti sang Lào để tìm khai mỏ vàng. Hành trình gian khổ. Lần đi đầu ông chịu được. Đến lần thứ hai ông lâm bệnh và mất ở gần Tchépone ngày 2/5/1936.
II. Nhà báo tiền phong
Cho đến đầu thế kỷ 20, báo chí vẫn là một cái gì chưa được biết tới đối với đời sông Việt Nam. Ớ miền Bắc từ khi người Pháp đến (1885), chỉ mới có hai tờ nhật báo Pháp văn của họ (Avenir du Tonkin và Courier d’Haiphong). Mãi đến năm 1890, nha Kinh lược với sự đồng ý của toàn quyền De Lanessan mới cho phát hành tờ Đại Nam đồng văn viết bằng chữ Hán, chuyên đăng tải công văn và chỉ dụ của chánh phủ. Năm 1905, một người Pháp, ông Babut ra Hà Nội tờ Đại Việt tân báo cũng chú trọng vào phần chữ Hán và giao cho một nhà nho là cụ Đào Nguyên Phổ làm chủ bút.
Nguyễn Văn Vĩnh nhận thấy vai trò quan trọng mà tờ báo có thể đóng ở nước ta khi bước vào cuộc sinh hoạt mới nên chuyển sang Pháp năm 1906 đã để ý nghiên cứu học hỏi. Ông thuật lại về sau trong một bài phỏng vấn báo Tin Văn (số 1 ngày 28/7/1935) như sau: “Năm 1906 tôi được cử vào phái bộ sang dự cuộc đấu xảo Marseille. Gian hàng miền Bắc dựng liền với gian hàng của tờ báo Le petit Marseillais. Ông chủ tờ báo ấy muốn làm quảng cáo cho báo mình đã khuân cả cái tòa báo vào trong trường đấu xảo, xưởng máy, tòa soạn, tòa trị sự đủ cả. Hàng ngày tôi thấy cái cảnh hoạt động trong tòa báo ấy mà thèm, máy chạy ầm ầm, phóng viên đi lấy tin tấp tới. Tôi thấy như tôi đâm mê cái nghề làm báo. Cả ngày tôi sang hỏi hết cái này cái nọ, ông chủ báo ôn tồn giảng giải cho tôi rất tử tế...”, về nước sau đó, ông mới cùng ông Đỗ Thận đứng ra lập tờ Đăng Cổ tùng báo viết bằng quốc ngữ. Tờ này theo nhiều người là tờ báo quốc văn đầu tiên đất Bắc, ra số đầu ngày thứ năm 28/3/1907. Song Nguyễn Văn Vĩnh không phải chỉ để ý đến việc làm báo mà ông còn muốn đi rộng vào nghề ấn loát xuất bản.
Trong những bước đầu, Nguyễn Văn Vĩnh gặp hai người Pháp giúp ông nhiều kinh nghiệm là Dufour và Schneider. Ngay khi làm tờ Đăng Cổ ông đã cùng Dufour lập một nhà in, cái nhà in thứ nhất của người mình Hà Nội (chỗ nhà Địa ốc ngân hàng sau này) và in bộ sách dịch Tam quốc chí của Phan Kế Bính. Được hai năm báo Đăng Cổ chết ông thử ra một tờ báo Pháp nhưng cũng không thọ. Năm 1910, ông cùng Schneider vào Sài Gòn. Schneiđer xuất thân “chef d’atelier” làm việc trong xưởng in nhà nước, sau thời ra mua lại đồ chính phủ mở nhà in riêng, huấn luyện những ấn công Việt Nam đầu tiên và in hai tờ báo đầu ở miền Bắc, Đại Nam và Đại Việt nói trên. Schneider lập ở Sài Gòn tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh đứng chủ bút. Đến năm 1913 hai người ra Hà Nội lập tờ Đông Dương tạp chí. Rồi năm 1915 Schneider lại ra luôn tờ Trung Bấc tân văn cùng giao cho Nguyễn Văn Vĩnh trông nom bài vở. Năm 1919, Schneider già yếu rút lui. Nguyễn Văn Vinh mua lại tờ Trung Bắc đổi làm nhật báo, đứng ra hoàn toàn tự quản trị lấy. Ông cũng mua lại cơ sở ấn loát Trung Bắc và bắt đầu ấn hành những tiểu thuyết, thơ ngụ ngôn dịch của ông cùng những tác phẩm của Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục. Những sách này chính là những sách xuất bản đầu tiên do người mình ấn hành miền Bắc khi đó. Còn tờ Trung Bắc thì cũng là tờ nhật báo đầu tiên trở nên có uy tín và sống bền bỉ mãi cho đến cuối trào Pháp thuộc.
Như vậy Nguyễn Văn Vĩnh đã đương nhiên mở lối cho nghề xuất bản và phong trào ngôn luận quốc văn của người mình. Ông đã đi những bước đầu bỡ ngỡ và khó khăn. Cho nên năm 1936 khi ông mất, cả làng báo đất Bắc, bâý giờ đã đông đảo, đi sau linh cữu ông và tặng ông danh hiệu “thủy tổ nhà báo của xứ sở”. Không những là nhà báo đầu tiên mà còn là một nhà báo xứng danh, có tài có lực. Ông đem vào nghề đó nhiều đức tính như: óc thực tế, óc tổ chức, tháo vát, ham hoạt động, chịu học hỏi, những đức tính rất ít có người Việt Nam mình khi đó, nên ông càng đi, càng tiến. Không những thế ông còn là một cây bút ký giả lỗi lạc vào buổi đầu ấy. Ông học rộng, có biệt tài nhận định nhanh chóng mọi vấn đề và biết trình bày một cách sáng sủa rành rẽ dù bằng câu văn Pháp hay Việt. Ông Nguyễn Văn Tố là người biết rõ ông hơn ai hết trong báo Đông Dương và hội Trí Tri có nhận xét về tài viết của ông Nguyễn Văn Vĩnh như sau: “Ông nghĩ rất lanh, tìm ngay được những tiếng để diễn tả ý kiến, bài của ông thường khi đã sẵn có trong đầu khi ông cất bút”. Làm chủ bút một tờ báo mà lúc đầu thường thường ông viết ráo, từ bài xã thuyết, mục thời sự, đến bài dịch đoản thiên đến cả mục tâm sự bạn gái. Cái khiếu hoạt bát ấy tất nhiên là một khiếu tối cần cho nhà báo mà ông đã nêu gương cho người hậu tiến ngay buổi đầu.
III. Đông Dương tạp chí
Trong những cơ quan ngôn luận ông đứng điều khiển hẳn rằng Đông Dương tạp chí là tờ gây được nhiều ảnh hưởng hữu ích nhất cho việc thành lập nền văn học mới tại nước ta. Tạp chí ấy ra hàng tuần, số đầu ngày thứ Năm 15/5.1913. Đọc mấy trang đầu số này người ta không khỏi nhận thấy quá rõ ràng cái chủ trương tuyên truyền cho chính sách của Pháp. Theo như lời cẩn cáo thì tờ báo tuy được sửa soạn, nhưng cũng chưa đến lúc ra, nếu không có một biến cố làm chấn động dư luận khi ấy, là việc một trái bom được ném vàò nhà hàng Hà Nội Hotel làm thiệt mạng hai quan tư Pháp. Vì có việc nguy biến ấy nên mới phải vội vàng mà in ra để “đem văn chương học thuật đem ân huệ văn minh của nhà nước Lang sa mà khua sáo cho lấp được nhừng lời gây loạn”, để làm cho “tiếng pháo tịt ngòi không nổ kịp tiếng chuông trống văn minh”. Nguyễn Văn Vĩnh tất nhiên đứng trong hàng ngũ nhà cầm quyền Pháp và trong số đầu đầy một giọng đả kích gay gắt, ta thấy ông Tân Nam Tử bài xích bọn “ngụy nho”: “Tiểu nhân cuồng dại trốn ra nước ngoài, xúi người làm loạn gieo họa hại dân”.
Qua mấy số đầu, cơn sóng thời sự tạm yên, ta thấy bài vở trở nên biến đổi hơn, phong phú hơn, nghiêng về luận thuyết và văn chương hơn. Tuy nhiên lúc đầu có thể nói Nguyền Văn Vĩnh đã viết gần hết tờ báo, từ bài về quan điểm, chủ nghĩa, phương châm đến các bài tạp luận, xã hội, đến mục Pháp văn hợp thái, trích dịch tư tưởng Pháp. Ông đặt ra một mục Xét tật mình để luận những cái dở, cái tệ của người An nam, cần phải ý thức và sửa bỏ để tiến bước trên đường văn minh. Ông lại đặt ra một mục Nhời đàn bà và dưới bút hiệu Đào Thị Loan chuyên luận về các vấn đề phụ nữ. Bắt đầu từ 1913, ông dịch tiểu thuyết Gil Blas de Santillane. Bắt đầu từ số 15 ông đăng thơ ngụ ngôn dịch của La Fontaine. Từ số 18 ta thấy dịch truyện Kiều ra Pháp văn của ông. Như vậy có thể nói tất cả sự nghiệp văn chương của Nguyễn Văn Vĩnh sau này, luận thuyết xã hội, dịch tiểu thuyết Pháp, dịch La Fontaine, dịch truyện Kiều đã khởi lên trong những năm đầu làm báo Đông Dương này.
Ngoài Nguyền Văn Vĩnh về sau đến thêm nhiều cây bút khác. Trần Trọng Kim viết bài đầu Sư phạm khoa số 3 rồi từ số 42 đứng ra chủ trương hẳn một mục Tân học văn tập gồm mỗi kỳ một số bài mẫu về luận quốc văn, sử địa, toán pháp, cách trí để giúp các thầy giáo dạy tiểu học (phần Sư phạm này sau tăng thêm dọ giáo sư trong Hội Trí Tri phụ trách, và thành hẳn một phần quan trọng của tờ báo). Phạm Quỳnh trong mấy bài đầu bàn về Học cũ học mới (số 5) về cách hòa hợp hai cái học Đông Tây (số 8) đã cho ta thấy ló rạng cái chủ nghĩa của người lãnh tụ Nam Phong vài năm sau. Tuy nhiên ông không viết thường xuyên, thĩnh thoảng mới có bài. Ngoài ra còn có Nguyễn Văn Tố chuyên dịch những bài trích tuyển Pháp văn có tính chất tư tưởng học thuật, Phạm Duy Tốn với những bài bút ký ngăn ngắn có vẻ như những đoản thiên quốc văn đầu tiên. Nguyễn Đỗ Mục khởi đầu bằng loạt bài Gõ đầu trẻ (từ số 20). Phan Kế Bính chỉ có mặt từ số 35 (bài Luận về văn minh là gì?) nhưng là một biên tập viên lâu dài và đặc sắc cho Đ.D.T.C. về sau. Ngoài ra vì tờ báo còn có một số độc giả Pháp và chính chủ nhân sở hữu của nó cũng là người Pháp nên mỗi nhan bài thường đều có phụ đề chữ Pháp (như Cách buôn bán Lang Sa thì phải thêm vào dưới Comment les Francais font du commerce), và từ số 14, báo có một phụ mục đằng sau để dạy tiếng Việt cho người Pháp (Cours de langue Annamite) do một người Pháp là Saintonge biên soạn.
Tóm lại xem qua trường hơp ra đời, thành phần chủ trương, các bài, các mục như trên ta có thể nhận định các mục tiêu của Đ.D.T.C. như sau :
- Về chánh trị: tờ báo hiển nhiên là một cơ quan tuyên truyền cho cuộc bảo hộ của Pháp. Tuyên truyền bằng cách nào? Bằng cách đem những công việc của nhà nước mà kể cho dân nghe (như số 2: Kỳ này bản quân hãy kể một việc khai đường thông thủy cho lợi ruộng đất của dân An nam để ai nấy được biết chú ý vì dân của nhà nước Lang Sa) bằng cách đem điều hơn lẽ thiệt mà khuyên dụ dân đừng làm loạn, đừng theo cách mạng bạo động.
- Về học thuật thì “báo dựng nên cốt ở việc đem cái học thuật thái Tây dùng tiếng Nôm mà dạy phổ thông cho người An nam không phải đi nhà tràng cũng học được hoặc đã đi học rồi mà học thêm’’. Việc giáo dục này có tính cách phổ thông và bách khoa cho nên ta thấy dịch thuật và giảng giải về đủ các vấn đề, từ việc nuôi con cho đến việc tu bổ đê điều, từ cách buôn bán của người Lang Sa đến sự phân chia khoa tâm lý học thái tây.
Về văn tự thì cổ động cho chừ quốc ngữ, thứ chữ tiện cho người Annam gấp mấy lần chữ nho: “Mở ngay tờ báo này ra mà ngắm xem, bấy nhiêu điều luận trong báo, thử nghĩ giá mà luận bằng chữ nho thì có mấy người hiểu cho hết nghĩa. Thế mà chữ quốc ngữ thì không những là người biết chữ quốc ngữ đọc được hiểu được mà đọc lớn cả nhà nghe cũng hiểu được”. Không phải chỉ cổ động bằng cách viết một tờ báo quốc ngữ để mọi người đọc chơi, nhận ra những ưu điểm của thứ chữ mới, báo quán còn tích cực hơn, hứa “nay mai phát không cho những người mua báo một quyển sách dạy quốc ngữ rất tiện cho các ông để không phải đem sách đi hỏi, ai cũng tự học được chữ quốc ngữ”.
Tất nhiên đối với Schneider và đám người Pháp đứng sau thì mục tiêu chính trị trên kia là quan yếu nhất. Còn đối với những người Việt Nam cộng tác, bắt đầu từ Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn các ông cũng muốn lợi dụng làm một cơ quan để tuyên truyền cho việc duy tân đất nước và xây dựng văn học mới.
Tuy nhiên bắt đầu tháng giêng 1915, Đ.D.T.C. nội dung cũng như hình thức có nhiều biến đổi. Sehneider ra riêng một tờ Trung Bắc tân văn in theo khổ nhật báo (tuy mới đầu cũng chỉ ra hàng tuần) để đăng tải tin tức, bình luận thời sự, tức như tờ Lục Tỉnh tân văn Nam Kỳ. Còn tờ Đông Dương thì đổi ra hình thức một tờ tuần báo in khổ nhỏ để đóng thành sách và chuyên hẳn về văn chương và sư pham. Phan Kế Bính mở đầu các thiên biên khảo hoặc dịch thuật của ông về quá khứ nước nhà như Việt Nam phong tục, Đại Nam điển lệ trong mục gọi là Bổ quốc sử. Nguyễn Đỗ Mục cũng bắt đầu dịch những truyện Tàu sau này nổi tiếng của ông như Tây sương ký, Song phượng kỳ duyên, rồi Đông chu liệt quốc. Nguyễn Khắc Hiếu đưa ra những bài nghị luận quốc văn độc đáo của ông trong một mục gọi là Tản Đà văn tập. Ngoài ra trong Đông Dương loại mới này còn có thêm mấy cây bút sau này trở nên rất quen biết: Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Trác, Thân Trọng Huề... Tờ báo từ đây không còn những lời tuyên truyền trắng trợn cho Pháp nữa, bỏ phần dạy tiếng An nam cho người Pháp, chuyển thành một cơ quan cho riêng người đọc Việt Nam, lại có tính chất hữu khuynh, mang nặng một phần cổ văn, cổ học. Riêng Nguyễn Văn Vĩnh cũng không còn thấy trình bày những lý thuyết bài cựu nghinh tân của ông nữa. Ông bỏ hẳn văn luận thuyết mà quay sang chuyên dịch tiểu thuyết, kịch Pháp: Tê lê mạc phiêu lưu ký, Trưởng giả học làm sang, Cổ tích của Perrault, Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký...
Đến năm 1919, tờ báo lại biến hình một lần nữa. Bấy giờ Phạm Quỳnh đăng đàn được gần hai năm đương cổ xúy thức giả đi vào con đường dung hòa và bảo tồn. Đông Dương tạp chí nhường việc xây dựng học thuật cho Nam Phong. Nó chỉ giữ mục sư phạm và biến thành tờ học báo bậc tiểu học, giao cho Trần Trọng Kim trông nom bài vở.
IV. Tư tưởng “duy tân cấp tiến” của Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh là một trong những phần tử Tây học tiền phong nước ta. Ông vào trường thông ngôn rất sớm, lại thông ham học nên lãnh hội rất cao. Ngày nay nói đến chữ thông ngôn ta có ý coi thường, coi khinh cái học của mấy ông tốt nghiệp trường Bưởi ban đầu ấy. Song, nên nhớ là mấy người như Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố đều là những bộ óc thông minh vượt bực và hiếu học vô cùng. Có tài nói đó là những “autodidactes terribles”. Họ đọc nhiều, tìm tòi nghiên cứu nhiều, có một trình độ học vấn rất rộng về mọi vấn đề, nhất là có thể sử dụng Pháp ngữ một cách rất tinh tường.
Riêng ông Vĩnh vốn xuât thân hoàn cảnh bình dân, trí óc sớm mở về Tây học lại được sang Pháp du quan, rồi thường sống bên cạnh người Tây nên ông đặc biệt có khuynh hướng về văn hóa Tây. Do đó mà khi phong trào duy tân của nho gia nổi lên, ông đã hăng hái đứng vào hỗ trợ. Ông nhận làm trưởng ban giảng huấn Pháp văn cho Đông Kinh nghĩa thục, xướng ra môn thể thao, lập sân thể dục cho trường nữa. Lại mời thục trưởng là cụ Lương Văn Can đứng ra cùng ông lập Hội dịch sách Bắc Kỳ (1907).
Tuy nhiên ông chỉ có thể ngồi chung với các cụ nhà nho khi ấy ở cái chiếu duy tân này thôi (mà thật ra các cụ cũng không chịu ngồi ở đây lâu), còn đối với cái xã hội nho lưu, những quan niệm nho gia, ông không thể nào chia xẻ. Trước nhất ngay về chính trị, nếu ông ủng hộ việc duy tân của nho gia, ông không hề tán thành việc Đông du, chủ trương cách mạng bạo động của một số. Không phải chỉ vì dưới con mắt ông đường lối ấy không hy vọng đi đến thành công (dân trí thấp kém, gương nước Nhật đối xử tàn tệ với Cao Ly, ưu thế của nước Pháp) mà nhất là vì nó hứa hẹn sự trở lại của thế lực phong kiến mà ông thù ghét. Đối với ông muốn cho nước tiến hóa, cần phải trước hết thanh toán cái xã hội cũ với ưu thế của nho gia, lớp người chuyên ăn không xã hội, của Hán học, cái học làm hàng rào ngăn chặn văn minh. Đối với ông hình ảnh tiến bộ tột bực ấy là nước Pháp, người Pháp, chế độ văn minh Pháp. Nước Nam phải duy tân đó là một “điều bất đắc bất nhiên” nhưng mà phải duy tân với người Pháp đó là một điều “bất đắc bất nhiên” khác.
Ông sẵn sàng cãi cho đường lối thân Tây ấy trong nhiều số đầu báo Đông Dương khi công kích “cách mạng Đông Du”. Ông viết dưới bút hiệu Tân Nam Tử “Tục thường nói: theo Tây thì sau mất nước, chỉ những lo quốc hồn mai hậu không còn. Phải biết rằng cơ còn mất ấy là ta. Còn người thì còn nước. Còn đẻ thì còn người. Còn có ruộng đất mà cày cấy thì còn đẻ được. Mà may sao đất của ta thì lại chỉ có tay ta cày được mà thôi. Đó là cái cơ còn chớ không mất được. Người Lang Sa sang đây có thu cái quyền lợi trong tay cũng chỉ là thu được cái thương quyền, chánh trị quyền mà thôi. Ví phải tay mấy giống mọt trong xã hội, đâu cũng được, ăn thế nào cũng xong, mà ở đâu mọc rễ sâu tại đó, thì không những là mọi lợi quyền ta mất hết lại còn sợ nó lấn đến lều tranh ta, ao rau muống ta nữa”.
Nói cách khác, thực dân tuy hại nhưng không hại bằng phong kiến. Trở lại với phong kiến ấy là trở lại với quan liêu áp bức, với hào mục mọt dân, với cướp đêm cướp ngày. Nguyễn Văn Vĩnh không tin tưởng một chút nào vào việc cách mệnh do đám nho gia lãnh đạo. Ông thâm thù cái trật tự phong kiến, những hủ lậu xâ hội cổ truyền và chào mừng đời sống an ninh, những tiện lợi sinh hoạt, những tiến bộ vật chất, cùng những thể thức dân chủ, khoa học mà Tây phương đem lại.
Tư tưởng ấy ngay khi làm tờ Đăng cổ ông đã biểu lộ. Năm 1911, cách mạng Trung Hoa thành công ở Vũ Xương, ông viết báo bày tỏ mơ ước một nước Cộng Hòa Việt Nam với một Tổng thống đứng đầu và dưới sự bảo hộ của Pháp. Năm 1913 trên tờ Đông Dương, ông đứng vào phe trật tự Pháp bài xích phe nho gia bạo động. Cũng ở trên tờ Đông Dương ông đi mổ xẻ tất cả những cái xấu, cái dở trong một xã hội An nạm cổ lỗ mà ông mong muốn gấp rút sự canh tân dưới ngọn đuốc “khai hóa” của người Pháp. Những bài luận thuyết của ông đây cũng đáng ta dừng lại xem qua.
Loạt bài Xét tật mình (từ số 6 đến 29) là để phơi trần những hủ lậu xấu xa người mình cần phải ý thức và từ bỏ nếu muốn học theo văn minh. Nào là sự hủ bại của thôn xã trong tay bọn kỳ mục, kỳ nát (số 10). Nào là thói tín ngưỡng lăng nhăng, mê muội làm cho ta không có một tôn giáo nào mạnh mẽ nên không có sự tin tưởng nhiệt thành, do đó không có sức mạnh tinh thần để làm một công cuộc gì lớn lao (số 13). Nào là sự nông cạn và sai lầm của cái học người mình, cái học tạo ra một giai cấp kẻ sĩ “với dăm ba chữ ngồi rung đùi từ sáng đến chiều, no cơm ấm cật, còn gạo thổi cơm ở tay ai mà ra, vải may áo tay ai mà ra, không nghĩ đến lại còn có ý khinh người chân lấm tay bùn nông giả nãi vũ phu chi cục mịch, tóm lại tạo ra “một hạng người ăn lường cơm mặc lường áo của xã hội” (số 11). Nào là tình trạng xã hội bất ổn, loạn lạc, áp bức thường xuyên, làm cho dân quê điêu đứng và do đó sự an ninh và dân chủ người Tây đem lại quả là một con đường giải phóng (số 12). Ngoài ra còn bao nhiêu tật nữa: ham cờ bạc, vụng nói chuyện, huyền hồ lý tưởng, gì cũng cười...”. Tóm lại tất cả từ chế độ, học thuật, văn chương, chỗ nào so với Tây phương cũng là kém là thua, cũng xấu, cũng hủ, cũng cần phải sửa đổi, phải học theo Tây phương.
Nhời đàn bà là một mục khác để xét tật mình nhưng mà hướng riêng vào nữ giới. Tác giả vạch những nết dở, thói ngang của phụ nữ ta khi đó, từ trong cách ăn ở, sanh đẻ, đến phép đối xử với chồng con bè bạn. Nào là tục nằm bếp kỳ cục (số 9), nào là cách nuôi con luộm thuộm (số 10), nào là thói ngồi đồng cốt chỉ là trá hình của thị dục nữ tính (số 20), nào là tục ăn trầu có người cho là lịch sự nhưng cái lịch sự ấy cũng dã man một chút (số 49). Nào là nết nói bẩn nói tục “chắc hẳn không người nước nào bằng nước An nam ta” (số 50).
Khát vọng Âu hóa, lòng ghét bỏ khinh bỉ phong tục của người mình được tỏ rõ nhất trong bài ký sự Hương Sơn hành trinh (nguyên bằng Pháp văn trong Notre Journal năm 1909, tự ông dịch ra tiếng Việt và đăng Đông Dương từ số 41, nhân hội chùa Hương năm 1914). Hương Sơn là một trung tâm hành hương của hàng vạn phật tử miền Bắc mỗi năm vào tháng ba, là nơi dân chúng lũ lượt kéo đến lễ Phật cầu phúc, cũng là nơi mà thi nhân mặc khách ta về trước thường ca tụng phong cảnh hùng vĩ nên thơ. Đối với Nguyễn Văn Vĩnh, cảnh đã không thi vị mà sự lễ bái cũng chẳng có nghĩa gì cao siêu. Ông có một giọng báng bổ rõ rệt khi nói về những việc như cầu tự, xin con. Ông viết: “Cách trí ôi! Văn minh ôi! Mau mau đến mà đuổi những sự tin nhảm, những tục buồn cười ấy đi”. Ông kết luận về sự tín ngưỡng của người “An nam ta như sau: Người nước Nam ta tin có bụt cũng như tin có trời hay có thần thánh yêu ma, tin nhưng không phân biệt, không nghĩ tách bạch ra xem cái mình tin nó thế nào... Bởi chưng có trí tin hồ đồ thế cho nên trong những việc tin có nhiều điều trái ngược nhau mà không biết cứ chịu cả là thực. Như có kẻ sáng ngày ra lễ điện phủ thờ bà cô, ông mãnh, chiều lại vào làm tôi con ông Hưng Đạo là thần hay trị những tà ma, những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau có thể cũng người ấy lại chay lòng thật dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông Khổng vốn không có dạy phải tin thờ ông thần ông thánh nào, hoặc là đi lễ Phật là một đạo trái hẳn với đạo ma thiêng thần dữ”.
Tóm lại thật là một mớ tín ngưỡng hỗn độn, nông nổi, nhiều khi lại rất nhảm rất bậy, vì bị một số người thừa ăn thừa mặc lợi dụng làm một phương tiện để giải tỏa những ý hướng tầm thường của bản năng. Ông nhận xét về cái tục lễ bái đồng bóng: “Xin cứ kiếm cho người đàn bà ta những cách nào khoe đươc khăn tơ áo lụa, khoe được hoa, hột, mặt phấn, môi son, cứ ít bữa lại có dịp nào gia nhân tài tử được hội họp một nơi mà nhìn nhau thỏa thích cho các cô được thấy người nhìn, người yêu, người muốn, người thèm thì rồi có tịt cả chùa Hương với cái hang hôi hám, Hòa giai với bọn tăng, chư vị với những cách õng ẹo lẳng lơ”.
Và ông kết thúc thiên ký sự “Ở nước ta, tới tưởng không phải cầu cho thần thánh chóng chết bởi vì thần thánh xưa nay chưa như ở các nước Âu châu, nước ta thần thánh bịa ra chẳng qua chỉ để làm nê cho những kẻ bị phong tuc bó buộc quá xưa nay mượn lễ bái mà làm cho thỏa những tánh tự nhiên của người ta mà thôi” (số 45).
Nói rằng ông chỉ làm việc đả kích phá hoại thôi thì không đúng, ông cũng làm công việc xây dựng, giáo dục nữa. Cả tờ Đông Dương tạp chí là một công cuộc giáo dục theo đường hướng bài cựu nghinh tân ấy. Đặc biệt ông còn viết loạt bài Phận làm dân (từ số 48). Ông chỉ lối cho người dân quê mỗi khi tới cửa công thường lúng túng ngớ ngẩn không biết quyền lợi của mình đâu mà đòi hỏi. Đó chính là những bài công dân giáo dục đầu tiên mà một người có tân học đem giảng dạy cho dân quê ta. Ông phân tích những chức vụ chánh quyền của nhà nước bảo hộ từ trên xuống dưới, cắt nghĩa tổ chức thôn xã, thủ tục tố tụng từ phủ huyện lên tỉnh, vạch trần những thói đút lót, tâm lý hiếp đáp của nha lại, tinh thần khiếp sợ của người dân đến trước cửa công.
Ngoài ra ông còn là tác giả một thiên khảo luận đặc sắc Chỉnh đốn cách cai trị dân xã (từ số 61). Thiên khảo luận này nhằm giải đáp một vấn đề người Pháp đặt ra cho Hội đồng tư vấn Bắc kì mà Nguyễn Văn Vĩnh là một hội viên. Khi người Pháp bắt tay vào cai trị miền Bắc, họ đụng phải ở nền gốc một tổ chức rất phiền toái cái làng An nam, một tổ chức tự trị với những luật lệ riêng rẽ mà triều đình xưa cùng không xâm phạm vào. Mỗi làng có khoán lệ, có hương ước riêng. Song có điều chung là làng nào cùng chịu ách thống trị của một bọn kỳ mục hách dịch hủ bại, tranh nhau chiếu trên chiếu dưới, giành nhau từ miếng đùi gà, má lợn, đến nỗi vì đó mà “cái cổng làng thành ra một cái thành quách vững bền để mà chống cự với cái văn minh không cho lọt vào đến dân thôn”. Do đó một cuộc cải tổ tỏ ra rất cần thiết. Trong loạt bài này Nguyễn Văn Vĩnh chưa kịp đưa ra một giải pháp nào nhưng ông để ý phân tích những nguyên lý cắt nghĩa tổ chức thôn xã của ta, những lý do của chế độ tự trị ấy, sự trái ngược của nó với quan niệm pháp trị phổ biến ở những nước dân chủ Tây phương, những hậu quả tai hại của nó đối với dân trí mà nó làm cho hẹp hòi, nhất là đối với dân sinh mà nó làm cho nghèo khó. Và theo ông thì rút lại chính cái nghèo khó ấy đã làm phát sinh ra đủ điều ngăn cản việc tiến hóa. Ông viết: Tiến hóa cốt ở việc học hành việc công nghệ, việc lo cho cái thân con người được hưởng những cái sung sướng vui vẻ, cửa cao nhà rộng, mặc quần lành áo sạch, ăn uống đồ ngon bổ, chơi bời những cách thỏa thuê thần trí. Người ta có dư dật thì mới nghĩ đến được những cách cao mặc sạch, ăn ngon, uống mát, chơi bời cho tiêu khiển, luyện tập tâm trí cho khôn ngoan và biết cảm những tình cao thượng. Nghèo như dân ta thì quanh năm chỉ lo đổ vào miệng còn chưa xong. Nhà rách vách nát, cơm thì bữa khoai bữa đậu, quý hồ nuốt trôi cổ để đỡ bụng đói mà làm lụng, đồ ăn ngon lành còn sợ hao phí, thì phỏng còn học hành gì, còn luyện tập gì đến tâm trí, còn nghĩ gì đến những việc ích lợi cho xã hội” (số 64).
Những bài tham luận này không thiếu đặc sắc nhưng cũng là những bài duy nhất của Nguyễn Văn Vĩnh ta được đọc trong hai năm đầu báo Đông Dương này thôi. Qua kỳ đổi mới 1915, ông bỏ cây bút nghị luận quay sang chuyên dịch tiểu thuyết, kịch. Rồi khi Đ.D.T.C. chết, ông qua làm tờ Trung Bắc tân văn (là một tờ nhật báo chuyên về thông tin) và khai thác việc dịch thuật và xuất bản. Thời này là thời toàn thắng của tư tưởng dung hòa và bảo tồn của Nam Phong. Ngôi sao Nguyễn Văn Vĩnh có mờ đi. Nhưng đến năm 1930 khi Phạm Quỳnh cổ võ cho chủ nghĩa lập hiến ta lại thấy Nguyễn Văn Vĩnh đứng ra chống chế quan điểm Âu hóa cấp tiến của ông. Ông ra tờ báo Pháp Annam Nouveau và đốì lại thuyết lập hiến của Phạm Quỳnh cổ võ cho thuyết trực trị. Thuyết này đại khái chủ trương triệt bỏ hẳn vai trò trung gian của quan lại phong kiến để cho người Pháp trực tiếp cai trị dân chúng (như ở Nam kỳ). Cách ấy theo ông đem lại cho người bình dân không khí tự do dân chủ hơn, cho phép thực hiện một cuộc Âu hóa nhanh chóng hơn.
(Cũng nên thêm rằng Nguyễn Văn Vĩnh không phải chỉ chủ trương Âu hóa trên lý thuyết mà còn thực hiện lý tưởng ấy ở con ngưởi ông, sự sinh hoạt của ông. Vào một thời mà toàn dân ta còn khăn đóng áo dài, kiểu cách khúm núm, tẩm nhiễm nho phong, ông mặc đồ tây, đội mũ thuộc địa (casque colonial), đi bình bịch (mô tô) cử động phóng khoáng, nói năng cởi mở... Tóm lại Nguyễn Văn Vĩnh có thể coi như hình ảnh của sự Âu hóa sớm sủa nhất cao đạt nhất trong giới trí thức Bắc Hà vào đầu thế kỷ này. Ở chỗ này ông thật là một hình ảnh đối nghịch với Phạm Quỳnh. Sau này ông có làm một việc mà phái Tây học thường công kích, cho là thoái hóa, là việc ấn hành Niên lịch thông thư (dạy cách tính ngày giở tốt xấu, so đổi tuổi...). Ông có cắt nghĩa trong một cuộc phỏng vấn của Đào Hùng (trên tờ Phụ nữ tân văn số 91) là để... thu nhặt tài liệu cho các nhà khoa học. Song người ta đều hiểu đây chỉ là một phương tiện kinh tài của nhà xuất bản (sách niên lịch này khi ấy bản rất chạy).
V. Người chiến sĩ của quốc ngữ
Người ta không bao giờ quên câu nói của Nguyễn Văn Vĩnh: “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng nhờ chữ quốc ngữ”. Câu ấy ông đã viết trong bài tựa bộ Tam Quốc Chí do Phan Kế Bính dịch. Đó là vào năm 1907 ông lập nhà in với Dufour và ấn hành cuốn sách quốc ngữ đầu tiên ấy. Phải nhớ lại tình hình bấy giờ. Khoa cử vẫn còn, chữ Hán vẫn ngự trị trên văn đàn. Có người như Thượng thư bộ học Nam triều Cao Xuân Dục cương quyết đả đảo thứ chữ do Tây đem lại ấy. Quốc ngữ tuy đã truyền bá được 30 năm ở Nam Kỳ nhưng mới được biết ở ngoài Bắc. Nho gia trí thức tuy có vì tò mò mà học nhưng không ai tin có thể dùng để làm văn chương báo chí. Do đó câu nói của Nguyễn Văn Vĩnh quả có tính cách một tiên đoán, một niềm tin, một lời nguyền. Ai muốn cho nước Nam sau này hay, hãy đem tâm gây dựng xây đắp cho thứ chữ ấy. Và Nguyễn Văn Vĩnh đem chính thân sức ông thực hiện lời nguyền ấy, từ bỏ chức vị nhà nước đứng ra dựng ấn quán, mở tạp chí, viết văn, làm báo bằng thứ chữ mới ấy, để phổ biến nó sâu rộng vào quần chúng, đặt nền móng cho văn mới sau này.
Lòng nhiệt thành đối với chừ quốc ngữ ông thật ra cũng nằm trong cái khuynh hướng Âu hóa nói trên. Chữ quốc ngữ là chữ của bọn Tây học. Ông viết: “Đứng vào phe quốc ngữ chỉ có bọn Tây học. Trong đám Tây học thì không mấy người biết chữ nho mà nguyên âm mình (ý ông nói từ ngữ Việt ròng) thì nghèo, phàm văn chương Nôm mình muốn đàm luận đến những việc hơi cao một chút tất phải có pha chữ Hán mới xong, vì chữ Hán đã thâm nhiễm tiếng An nam mình. Thành ra phe quốc ngữ ta vẫn kém thế lực nhưng chắc không đến nỗi phải đành thoái, vì sự học quốc ngữ là một sự “bất đắc bất nhiên”, là một việc sống chết của nước Nam ta(Văn chương An nam, Đ.D.T.C. số 9).
Tại sao lại việc sống chết? Vì quốc ngữ là cái cầu bắc sang văn minh Tây phương, là con đường thoát ra khỏi sự lao lung của chữ Tầu, tức là của Hán học cổ lỗ, của phong kiến tối tăm, con đường đưa tới tiến bộ, tới duy tân. “Chữ nho chính là hàng rào chắn ngang đường văn minh”. Nguyễn Văn Vĩnh đã viết câu ấy ngay từ 1907 trên báo Đăng cổ. Ông nhìn cái xã hội Việt Nam cũ kỹ ngàn xưa, chồng chất những thế hệ hủ bại, thâm nhiễm những tư tưởng lỗi thời, ông tìm cách để đưa văn minh vào lọt mấy cái cổng gỗ làng An nam. Ông thấy chỉ có một cách là giáo dục. Không phải là giáo dục các ông Tổng ông Lý hách dịch rởm, lý sự cùn, vì việc đó khó mà là giáo dục bọn con nít, thế hệ mới từ trong trứng ra. Ông nóí: “Ai muốn lo khai hóa cho nước Nam tôi tưởng nên lo cho mấy đứa trẻ đó trước. Và nghĩ đến thế thì lại càng nên quý cái chữ quý hóa là chữ quốc ngữ, nay mai ta khéo cổ động thì chuyển được tới chốn lưng trâu, mà lên cho đến chiếu cạp đình, cho đến nơi thư phòng người đi học, cho đến công đường ông quan, từ gốc mà lên cho đến ngọn, mớí thực là cái duy tân chính sách” (Xét tật mình, Đ.D.T.C s 7).
Vì muốn giúp đắc lực vào việc giáo dục con em nên tờ Đ.D.T.C số 42 có một mục Sư phạm học khoa là mục dành riêng cho các thầy giáo dùng làm tài liệu dạy học. Mục này sau càng mở rộng. Chính Nguyễn Văn Vĩnh cũng đứng vào hàng ngũ thầy giáo dạy quốc ngữ. Năm 1916 ông cùng với mấy người bạn hoàn chỉnh một phương pháp học quốc ngữ mới, ông đem giảng dạy ở Nam học niên khóa (một phụ trương của tờ Đ.D. từ 1917). Phương pháp này sau được áp dụng bởi các thầy giáo vỡ lòng trong tất cả các lớp đồng ấu cho mãi tới gần đây (phương pháp đánh vần ngờ-a-nga thay vì n-g-a-nga). Sau tờ Nam Học niên khóa cùng với Đ.D. đổi thành học báo, Nguyễn Văn Vĩnh đứng chủ nhiệm và trông coi trong rất lâu. Như vậy ông đã chính mình đi bước đầu tiên trong việc đặt một nền tiểu học tân thức lấy quốc ngữ làm chuyển ngữ.
Yêu mến thứ chữ mới ấy nên đã nhiều lần ông để ý cải tiến ngay hình thức của nó, muốn sửa cho nó tiện lợi và hợp lý hơn. Ngay khi còn làm báo Đăng cổ ông đã đề nghị một ít cải cách, tuyên truyền lối “Kuôch ngữ tân thưk” mà không ai chịu theo. “Tân thưk” lại mang tiếng oan rằng khéo vẽ vời cho nhiễu sự. Đến khi làm báo Đ.D. ông lại đem vấn đề ra bàn (số 33). Lần này ông mong ước chữ quốc ngữ cũng đặt theo vần chữ Lang Sa thì người học quốc ngữ vừa học được vần Lang Sa, nhân thế mà trong vần quốc ngữ giá có lộn tiếng Lang Sa vào cứ viết theo cách Lang sa ai cũng đọc được nghĩa là người ta sẽ viết Shai gone (Sài gòn), Cheu leune (Chợ lớn) sẽ bỏ đ, ơ, ỉ/, thêm vào f, z... Như thế cái cầu bắc sang Pháp văn sẽ trực tiếp hơn và sự đồng hóa những kiến thức Tây học sẽ dễ dàng hơn, đó sẽ là một thứ “quốc ngữ teunè thưque” mà ông cho là tuyệt diệu. Mười năm sau (1927) trên tờ Trung Bắc tân văn ông lại bàn về khuyết điểm của quốc ngữ và đưa ra cách thay 5 dấu giọng bằng chữ. Tất cả những ý kiến cải cách ấy bởi nhiều lý do, không đưa đến kết quả nào, nhưng cũng chứng tỏ lòng nhiệt thành hiếm có của người chủ trương.
Song bênh vực một thứ chữ, tuyên truyền một thứ chữ sẽ không hữu ích gì nếu không tìm cách chứng tỏ khả năng xây dựng của nó. “Học chữ quốc ngữ thật là hay, nhưng mà chữ quốc ngữ chẳng qua chỉ là một cái xe tư tưởng mà thôi. Xe ấy đã có rồi ta chớ để cho sự sai lầm huyền hoặc, nhân vắng lời hay mà mượn xe lan đi khắp bốn phương. Bao nhiêu người có kiến thức cố gắng mà rung động (ý nói khua động) làm ra sách vở ra lời nghị luận để thuê tranh cái xe bỏ trống, kẻo việc dị đoan nhân vắng điều hay, đi lên trước mà ngăn đường ta khắp nơi” (ĐDTC số 28, Tội sách Tầu). Có chữ tiện lợi mà không có tư tưởng mới chở theo, sự tiện lợi ấy chỉ để tuyên truyền những sự nhảm nhí hoang đường như những tiểu thuyết kiếm hiệp Tầu thì lại càng nguy hại.
Tóm lại, người chiến sĩ của quốc ngữ phải để tâm xây dựng học thuật mới, văn chương mới. Cái khuyết điểm của nước ta về trước không phải chỉ là thiếu một thứ chữ thích hợp mà còn là thiếu cả một nền quốc văn xứng đáng, thiếu ngay một kho từ ngữ điển lệ, một mẹo viết rõ ràng. Nguyễn Văn Vĩnh đã nhìn rõ những khuyết điểm căn bản đó và ông hô hào mọi người hãy khởi công xây dựng:
Nay muốn gây cho văn tự nước Nam có kinh điển thì bao nhiêu những bậc tài hoa, những người có học thức trong nước phải chuyên về nghề văn quốc ngữ. Các bậc danh nho thì nên bỏ quách cái tài ngâm hộ cho người đi (ý nói ngâm nga thi phú Tầu) chỉ học cho biết để mà nhân cái hay người làm lấy làm cái hay của mình mà thôi. Các bậc có Pháp học thì tuy rằng cái ngoại tài ấy phải chuyên làm cách cạnh tranh làm mồi kiếm ăn, nhưng nếu muốn nhân việc lập thân mà lại có ích cho đồng bào mình thì phàm luyện được chút tài nào của người thì cũng nên dùng quốc văn mà phát đạt nó ra cho cả người đồng bang được hưởng”.
“Nào báo quốc ngữ, nào sách học quốc ngữ, nào thơ quốc ngữ, văn chương quốc ngữ, án ký hành trình, tiểu thuyết nghị luận, tờ bồi việc quan, đơn từ kiện tụng, nên làm toàn bằng văn chữ quốc ngữ hết cả. Cả đến những cách cao hứng vịnh đề, tình hay cảnh đẹp, câu đối dán nhà, tứ bình treo vách, câu phúng bà con, lời mừng bạn hữu, đều nên dùng quốc văn hết thảy, mà cốt nhất là phải tập lấy lối văn xuôi, diễn dịch như in lời nói cho rõ ràng, cho nhất định, phải khiến cho lời văn chương theo lời mẹ ru con, vú ấp trẻ, lời anh nói với em, vợ nói với chồng, chớ đừng để cho văn chương thành ra một cách nói lối, mà tiếng nói vẫn cho là nôm na. Văn chương phải như ảnh tiếng nói và tiếng nói phải nhờ văn chương hay mà rõ thêm, đủ thêm ra”.
“Lại còn một điều khẩn yếu nữa là muốn cho văn quốc ngữ thành văn chương hay khỏi thành một tiếng nôm na mách qué thì cách đặt câu, cách viết, cách chấm câu phải dần dần tập cho có lệ có phép, mà lệ phép thì phải theo ý nhiều người đã thuận chớ đừng ai tự đắc lối của mình là phải, đem ý riêng ra sửa đổi thói quen” (Tiếng Annam, Đ.D. số 40).
Qua những lời hô hào trên ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh đã vạch ra không phải chỉ một tương lai cho chữ quốc ngữ mà còn cả một chương trình kiến thiết cho văn Việt mới, tiếng Việt mới, một chương trình mà Phạm Quỳnh và báo Nam Phong sẽ bắt tay vào thực hiện.
VI. Kết luận về Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí
Để kết luận về Nguyễn Văn Vĩnh và tờ Đông Dương tạp chí của ông, chúng ta cần trở lại xác định mấy điểm sau đây:
1. Về đường tư tưởng: Nguyễn Văn Vĩnh có thể coi làm tiêu biểu cho một tư trào bài Á nghinh Âu tại nước ta vào đầu thế kỷ này. Có thể nói ông đã thừa cơn gió duy tân nho gia mà đưa tư trào ấy đến những bờ bến cực đoan. Sau đó - nghĩa là sau năm 1917 - người ta lại lui trở lại phần nào. Song trong khoảng 10 năm, từ báo Đăng Cổ đến Đông Dương, bằng hoạt động bằng tư tưởng, ông đã lay động mạnh cái xã hội Việt Nam cổ truyền, hối thúc nó biến hình lột xác.
2. Về đường văn học, hiển nhiên ông đã đứng ra mở đường cho văn học mới:
- Ông đã tranh đấu cho việc truỳền bá và thắng thế chữ quốc ngữ lã thứ chữ của văn học mới.
- Ông đã đem vào xã hội ta nhà in và tờ báo là hai khí cụ giúp ông gây dựng văn học mới và sẽ giúp đắc lực cho sự phát triển của Văn học mới sau này.
- Ông đã làm được trong bước đầu một tờ báo rất bổ ích cho văn mới lúc phôi thai là tờ Đông Dương tạp chí. Trước 1913, trước khi Đông Dương ra đời, ấy mới chỉ là giai đoạn học quốc ngữ của người mình. Sau 1913, với Đông Dương mới là giai đoạn dùng chữ ấy để viết câu văn mới. Kể về báo thì trước tờ Đông Dương cùng đã có một vài tờ Bắc hoặc Nam, nhưng chỉ chuyên về thông tin. Với Đông Dương, mới bắt đầu có một tạp chí, một cơ quan thiên về văn học và đào tạo ra nhà văn. Những cây bút Đông Dương này sau một thời gian ngắn tập sự đây rồi đều mọc cánh bay cao. Nhóm cốt cán: Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục sẽ sang tờ Trung Bắc, độc chiếm sạp báo hàng ngày một thời. Nhất là Nguyễn Văn Vĩnh nhờ câu văn dịch mà nổi tiếng với tủ sách Âu Tây tư tưởng. Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Thuật thì qua Nam Phong, tạo nên một hội vinh quang. Người khác như Trần Trọng Kim, từ viết bài giáo khoa trên Đông Dương tạp chí mà đi đến gây lấy một sự nghiệp biên khảo riêng.
Nhưng cái quả tốt của Đông Dương không phải chỉ chỗ tạo ra các bậc thầy mà còn ở chỗ tạo ra các trò. Nhớ là Đ.D.T.C. ngay từ buổi đầu có một phần sư phạm. Các giáo sư trong hội Trí Tri theo cách phân chia của Pháp văn, khởi thủy viết ra những bài tác văn quốc ngữ đầu tiên, nào tả cảnh nào thuật sự, tung ra khắp nước cho các thầy giáo sơ học, tổng sư, hương sư làm mẫu mực mà dạy trẻ nhỏ viết quốc văn. Ngay khi Nam Phong đã ra đời đã được hoan nghênh tán tụng, chồng báo Đông Dương vẫn còn những đệ tử. Nam Phong là tờ báo của người lớn tuổi, của học giả, lắm chữ nghĩa, lý thuyết cao kỳ. Cái trường quốc văn Đông Dương cũng như câu văn truyện dịch của ông Vĩnh bình dị hơn, khả cập, khả ái hơn, nhất là đối với lớp độc giả còn tuổi đồng ấu bấy giờ. Nhiều nhà văn sau này (lớp sau 1932) đã thú nhận họ được đào tạo từ tấm bé trong cái trường ấy.
Thái Phĩ kể: “Tôi còn nhớ như mới ngày hôm qua những buổi mấy anh em bạn nhỏ, anh lớn nhất chưa đầy 12 tuổi, cùng nhau châu đầu đọc không biết chán những thơ ngụ ngôn, những chuyện trẻ em, chuyện Gil Blas de Santillane và kịch Trưởng giả học làm sang của ông Vĩnh dịch mà chúng tôi khi ấy chỉ biết là hay lắm vui lắm”.
Tam Lang kể: “Tôi ngồi học miệng kêu như cuốc kêu hè nhưng mắt không thể rời bỏ được tập Đ.D.T.C. dấu dưới quyển vở của mình... Tôi học, học mãi trong cái trường Đ.D.T.C. ấy, kết quả sự học của tôi là ở trường thầy giáo cho làm luận quốc văn kể truyện một cuộc đi chơi ngày chủ nhật mà tôi làm thành một bài văn dài ngót 10 trang giấy”.
Họ đã học ở đó lòng yêu quốc văn, những bước đầu say mệ sáng tác. Nhà nghiên cứu văn học Lê Thanh (trên báo Tri Tân năm 1944) đi thâu lượm nhiều những chứng ngôn như trên đã đi đến nói quyết rằng: “Thái Phỉ, Tam Lang, Nguyễn Công Hoan, Vũ Đình Long và còn bao nhiêu nhà phê bình nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch khác ngày nay làm việc cho quốc văn cùng xuất thân cái trường mà Nguyễn Văn Vĩnh là hiệu trưởng ấy”.
Nguồn: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Phạm Thế Ngũ, Nxb Đồng Tháp, 1998)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét