Khiemnguyen

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Các sự kiện quan trọng của giáo dục Việt Nam từ 1807 đến 1945 (phần 1)



CÁC SỰ KIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM
(Từ năm 1807 đến năm 1945)
- Năm 1807 (Gia Long thứ sáu) Khoa Đinh mão: tổ chức tại 6 trường thi (Nghệ An, Thanh Hóa, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam, Hải Dương) lấy đỗ 61 cử nhân.
- Năm 1813 (Gia Long thứ mười hai) Khoa Quí dậu : tổ chức tại 6 trường thi (Quảng Đức, Nghệ An, Thanh Hóa, Thăng Long, Sơn Nam, Gia Định) lấy đỗ 82 cử nhân.
- Năm 1819 (Gia Long thứ mười tám) Khoa Kỉ Mão : tổ chúc tại 6 trường thi  (Trực Lệ, Nghệ An, Thanh Hóa, Thăng Long, Sơn Nam, Gia Định) lấy đỗ 112 cử nhân.
- Năm 1822 (Mình Mạng thứ ba) Khoa Nhâm ngọ. Triều đinh (Huế) lần đầu tiên  trong triều đại minh mở khoa thi Hội lấy đậu 8 Tiến sĩ trong đó có một người (Nguyễn Ý) được sắc ban Đệ nhất giáp tiến sĩ (tức Bảng nhãn - vị cao khoa nhất - vì triều Nguyên không lấy Trạng nguyên).
- Năm 1826 (Minh Mạng thứ bảy) Khoa Bính tuất. Khoa thi này mô phỏng theo phép thi triều Lê là lấy những năm Thìn, Tuất và Mùi là khoa thi Hội. Khoa này lấy đậu 10 Tiến sĩ, trong đó có Phan Thanh Giản là người đầu tiền ở Nam Ki đỗ đại khoa. Người đỗ đầu (sắc ban Đệ nhị giáp Tiến sĩ) là Hoàng Tế Mĩ.
Năm 1829 (Minh Mạng thứ mười) Khoa Kỉ sửu. Khoa này định phân điểm để chia ra Phó bảng, Tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa cử triều Nguyễn nói riêng và Việt Nam nói chung. Hội đồng giảm khảo lấy đậu 9 Tiến sĩ và 5 Phó bảng.
- Năm 1832 (Minh Mạng thứ mười ba) Khoa Nhâm thin. Triều đình mở khoa thi Hội thứ tư đời vua Minh Mạng, lấy đậu 8 Tiến sĩ và 3 Phó bảng.
- Năm 1835 (Minh Mạng thứ mười sáu) Khoa Ắt mùi. Triều đinh mở khoa Ất mùi lấy đậu 11 Tiến sĩ và 2 Phó bảng.
- Năm 1838 (Minh Mạng thứ mười chín) Khoa Mậu tuất. Triều đình mở khoa thi Hội lấy đậu 10 Tiến sĩ và 10 Phó bảng.
- Năm 1841 (Thiệu Trị thứ nhất) Khoa Tân sửu. Triều đình mở khoa thi Hội lấy đậu 11 tiến sĩ và 4 Phó bảng.
- Năm 1842 (Thiệu Trị thứ hai) Khoa Nhâm dần. Triẻu đình mở ân khoa hội thí, khoa này lấy đậu 13 Tiến sĩ và 6 Phó bảng.
- Năm 1843 (Thiệu Trị thứ ba) Khoa Qui mão. Triều đình liên tiếp mở ân khoa hội thí thứ 2, khoa này lấy đậu 7 Tiến sĩ và 2 Phó bảng.
- Năm 1844 (Thiệu Trị thứ tư) Khoa Giáp thin. Triều đinh mở khoa thi Hội liên tiếp trong 4 năm, đặc biệt khoa này những giáo thọ, huấn đạo xuất thân cử nhân, Tú tài hoặc giám sinh (học sinh trường Quốc tử giám) đều được ứng thí. Tuy nhiên các hạng trên nếu được bổ làm quan rồi thi không đưọc vào thi Hội.
Khoa này lấy đậu 10 Tiến sĩ và 12 Phó bảng, cộng tất cả 25 vị trúng cách. Đây là khoa có số đại khoa cao nhất so với các khoa các.
- Năm 1847(Thiệu Trị năm thứ bảy) Khoa Đinh mùi : Triều đình mở kì hội thí lấy đậu 8 Tiến sĩ và 4 Phó bảng, nhưng sau đó Đặng Huy Trứ bị loại vi phạm trường qui nên chỉ còn 7 Tiến sĩ và 4 Phó bảng.
- Năm 1848 (Tự Đức thứ nhất) Khoa Mậu thân. Năm đầu Tự Đức, triều đình mở khoa thi Hội lấy đậu 8 tiến sĩ, 14 Phó bảng.
- Năm 1849 (Tự Đức thứ hai) Khoa Kỉ dậu. Triều đình mở khoa thi Hội lấy đậu 12 Tiến sĩ, 12 Phó bảng.
- Năm 1851 (Tự Đức thứ bốn) Khoa Tân hợi. Triều đình mở kì hội thí lấy đậu 10 Tiến sĩ, 10 Phó bảng.
- Năm 1851 (Tự Đức thứ tư) Khoa Cát sĩ (Chế khoa). Khoa này các cử nhân, giám sinh, giáo thọ, huấn đạo, phó bảng, tú tái, học sinh ở làng nếu đã trúng hạch đều được dự thi. Đây là một khoa đặc biệt phi thường để đãi người tài phi thường. Khoa này lấy đỗ 3 Tiến sĩ, 4 Phó bảng, trong đó có Vũ Duy Thanh, Nguyễn Thái đã từng đỗ phó bảng năm 1851, khoa này cả 2 ông cùng đỗ Bảng nhãn (sắc ban bác học hoành tài đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh) và Tú tài Phạm Huy đỗ Hoàng giáp.
- Năm 1853 (Tự Đức thứ sáu) Khoa Quí sửu. Triều đình mở ki thi Hội lấy đậu 7 Tiến sĩ, 6 Phó bảng.
- Năm 1856 (Tự Đức thứ chín) Khoa Bính thìn. Khoa này Hội đồng giám khảo lấy đậu 6 Tiến sì, 1 Phó bảng.
- Năm 1862 (Tự Đức thứ 15) Khoa Nhâm tuất. Triều đình mở kì thi Hội lấy đậu 6 Tiến sĩ, 5 Phó bảng.
- Năm 1864 (Tự Đức thứ 17) Khoa Giáp tí tại trường thi An Giang. Triều đình mở ki thi Hương cuối cùng ở Nam Kì, trường thi phải đặt tại Cần Thơ (vi Pháp chiếm Gia Định).
Ngày 16/7/1864. Sau khi chiếm các tỉnh miền Đông Nam Kì, Thống đốc Nam Kì Bonard ra Sắc lệnh mở Trường Thông ngôn tại Sài Gòn (Collège des Interprètes) đào tạo nhân viên làm thông ngôn cho công việc cai trị của chính quyền thực dân.
- Năm 1866. Theo yêu cầu của Đô đốc De Lagrendière các vị sư huynh thuộc dòng Écoles Chrétiennes xây dựng và tổ chức một trường học do nhà Dòng quản lí. Trường mang tên Collège d’Adran. Trường này hoạt động cho đến tháng 12 năm 1882 thi đóng cửa, vi Hội đồng Quản hạt Nam Ki ngưng cấp kinh phí. Đây là một trường Trung học thành lập đầu tiên tại Việt Nam.
-Năm 1864 (Tự Đức thứ 18) Khoa Ất sửu. Triều đình mở khoa thi Hội lấy đậu 3 Tiến sĩ (có một Tam nguyên là Trần Bích San) và 13 Phó bảng.
- Cũng năm 1865 này triều đình mở khoa Nhã sĩ lấy đậu 5 Tiến sĩ.
- Năm 1868 (Tự Đức thứ 21) Triều đình mở khoa thi Hội (Khoa Mậu thin) lấy 4 Tiến sĩ và 12 Phó bảng.
- Năm 1869 (Tự Đức thứ 22) Tríều đình mở khoa ân khoa Kỉ tị (thi Hội) lấy đỗ 5 Tiến sĩ, 4 Phó bảng.
- Năm 1871 (Tự Đức thứ 24) Triều đình tổ chức kì thì Hội (khoa Tân mùi) lấy đỗ 3 Tiến sĩ (có một tam nguyên là Nguyễn Khuyến) và 5 Phó bảng.
Ngày 20/2/1873. Chinh quyền thuộc địa Pháp mở Trường Tập sự (Collège des Stagiaires) ở Sài Gòn và giao cho Trương Vĩnh Ký điều hành, nhằm đào tạo nhân viên hành chánh cho công cuộc cai trị buổi đầu ở các tinh thuộc Nam Kì. Luro, một trong số “Thanh tra công việc ở Bản xứ ở Nam Ki là người đầu tiên (1862) đã soạn “Cours d’Administration Annamite” (Giáo trinh về tổ chức cai trị hành chánh của người Việt). Đây là tài liệu giảng dạy, học tập cho học viên và Giáo sư của trường này ngay từ những năm đầu mới thành lập. (Người kí sắc lệnh cho mở Trường là Phó Thủy sư Đô đốc Dupré giữ chức Thống đốc Nam Kì, lúc đó chưa có chức Toàn quyền).
Ngày 14/11/1874. Thiếu tướng Hải quân Krantz đang giữ chức Thống đốc Nam Ki kí Nghị định mở trường Trung học Chasseloup Laubat (Collège Chasseloup Laubat) đầu tiên Sài Gòn (Chasseloup Laubat người giữ chức Bộ trưởng pháp quốc Hải ngoại hay còn gọi là Bộ Thuộc địa, chủ trương ngoan cố giữ đất Nam Ki không chịu trả lại cho chính quyền thời vua Tự Đức). Thời đó trường này được gọi là Trường Bản xứ, vi trường mở ra để thu nhận con em người Pháp đang cai trị tại Nam Kì và con một số viên chức người Việt làm việc với họ.
Trường dạy từ Tiểu học đến Cao đẳng Tiểu học (Brevet Elémentaire - chương trình Pháp). Trong trường chia làm hai khu : Khu dành cho học trò học toàn chương trình Pháp gọi là khu Européen, khu dành cho học trò Việt có học thêm giờ tiếng Việt, gọi là khu “Bản xứ”. Trường tuy có hai khu (vì là nội trú cho nên có tên gọi đó) nhưng đều học theo chương trinh Pháp và đến khi thi tốt nghiệp học sinh đều lấy Tú tài pháp chứ không có chương trình thi Tứ tài Bản xứ như các học sinh các trường khác. Chương trình học thêm giờ tiếng Việt là dành riêng cho học trò Bản xứ.
Niên khóa đầu (1874-1875) Trường thu nhận 100 học sinh, hoàn toàn theo nội trú, học trình kéo dài 3 năm (vì đã có bằng Tiểu học) đến năm 1877 mới có cuộc thi ra trường đầu tiên. Thi sinh tốt nghiệp có thể làm việc tại các công sở như giữ chức: Thơ kí, Thông ngôn, phụ việc Đốc công cầu cống, đường lộ (Piqueurs pour les ponts et chaussées); hạng đỗ thấp hơn làm nhân viên Đo đạc và Điện tín (Employés pour le Service du cadastre et le télégraphe). Đến đầu thế ki XX mới dạy đủ cả chương trình Tú tài Pháp, năm 1928 trường đổi tên là Lycée Jean Jacques Rousseau, năm 1966 đổì tên một lần nữa và trường có tên Việt Nam là trường Lê Quí Đôn cho đến ngày nay (2004).
- Năm 1875. Khoa Ất hợi. Triều đinh tổ chức khoa thi Hội lấy đỗ 11 Tiến sĩ và 6 Phó bảng.
- Năm 1877. Khoa Đinh sửu. Triều đinh tổ chức khoa thi Hội lấy đỗ 4 Tiến sĩ và 3 Phó bảng.
Ngày 06/4/1878. Thống đốc Nam Kì ra Nghị định số 82 ngày 6/4/1878 bắt buộc các công văn, thư từ phải viết bằng chữ Quốc ngữ thay vi chữ Hán hoặc chữ Nôm. Như vậy kể từ thời điểm này chữ Quốc ngữ chính thức thay thế chữ Hán ở Nam Ki.
Ngày 17/1/1879. Thống đốc Nam Ki, Bá tước Lafont kí nghị định mở trường Trung học Mĩ Tho. Ban đầu trường có tên như trên. Nhưng theo Nghị định ngày 14/6/1881 của Quyền Thống đốc Nam Ki Trentinian trường Trung học Mĩ Tho mang tên mới là Trường Trung học Le Myre de Villers (Collège Le Myre de Villers) đặt tạì Thị xã Mĩ Tho. Đây là một trường Trung học được chính quyền thuộc địa mở sớm nhất tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Sau năm 1945, trường được gọi là trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu. Còn tên Le Myre de Vilers là tên của viên Toàn quyền dân sự (gouvemeur civil) đầu tiên tại Nam Kì (thực ra Thống đốc Nam Kì là dân sự, trước đó các thống đốc Nam Kì đều là quân nhân, cho nên đương thời thường gọi là Thống soái, nơi làm việc của ông ta cùng được gọi là Dinh Thống soái, sau gọi là Dinh Thống đốc Nam Kì - trước đây gọi là Dinh Gia Long dùng làm nơi tạm trú của các vị Quốc khách mỗi khi họ viếng thăm Sài Gòn; nay là Bảo tàng Cách mạng TP.HCM - Le Myre de Villers nguyên là Đại úy Hải quân đã giải ngũ từ trước, sau làm Giám đốc Nha Nội chính ở Algérie. Ngày 5/7/1879, ông đến Sài gòn chính thức nhậm chức Thống đốc Nam Ki thay cho Hải quân Đô đốc Lafont. Ông giữ chức Thống đốc Nam Ki trong hai nhiệm kì, lần đầu từ 1879-1881, lần thứ hai từ 1/11/1881 đến 11/1/1883.
- Năm 1879. Khoa Kỉ mão. Triều đình mở ki thi Hội lấy đỗ 6 Tiến sĩ, 8 Phó bảng.
Ngày 17/3/1879. Chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập Sở Học chánh Nam Kì (Service de rinstruction Publique) và đặt chương trình giáo dục Pháp Việt đầu tiên ở Nam Kì.
Chương trình này dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ.
Chương trinh gồm các cấp:
- Tiểu học (hệ 3 năm): Nhận định học sinh từ 10 đến 14 tuổi, học sinh phải qua một kì thi tuyển (thi chữ Hán, còn chữ Quốc ngữ không bắt buộc). Các môn học gồm: Văn phạm Pháp văn, 4 phép tính, tương quan hệ thống đo lường Pháp Việt, chữ Hán (Tứ thư), chữ Quốc ngữ (tập đọc và tường thuật).
- Trung học (hệ 3 năm): Nhận học sinh từ 12 đến 17 tuổi, học sinh phải qua một ki thi về tất cả các môn ở Tiểu học. Chương trình học gồm các môn: Pháp văn (Văn phạm), tập đọc, tập viết, dịch... Sổ học, Qui tắc tam suất, phép chiết khấu, hình học, địa li (khái quát về 5 châu và nước Pháp và thuộc địa Pháp), ở bậc Trung học không có dạy chữ Hán như ở Bắc và Trung Kì.
- Năm 1880. Khoa Canh thìn. Triều đình mở kì thi Hội lấy đỗ 5 Tiến sỉ, 5 Phó bảng.
- Năm 1885. (Kiến Phúc thứ nhất) Triều đình mở khoa thi Hội lấy đỗ 3 Tiến sĩ, 4 Phó bảng.
Năm 1889. (Thành Thái thứ nhất) Triều đình mở khoa thi Hội lấy đỗ 12 Tiến sĩ, 10 Phó bảng.
- Năm 1895. Bác sĩ Albert Calmette thành lập Viện vi trùng học Sài Gòn (Institut Bactériologique de Saigon). Viện này còn có tên Viện Pasteur Sài Gòn (Institut Pasteur de Saigon). Đây là Viện Pasteur nghiên cứu về vi trùng đầu tiên Việt Nam. Bác sĩ Albert Calmette (1863-1933) là học trò của nhà Bác học Pháp Louis Pasteur, và được Viện Pasteưr Paris cử sang Đông Dương để thành lập Viện vi trùng học ở Sài Gòn, khi ấy Calmette là Bác sĩ thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp.
Kể từ ngày 1/1/1906 Viện vi trùng học Sài Gòn chính thức trở thành một phân viện của Viện Pasteur Paris theo Hợp đồng kí ngày 2/4/1905 giữa hai Viện trong thời hạn là 30 năm. Hợp đồng này được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y ngày 20/7/1905.
- Năm 1892. (Thành Thái thứ tư) Khoa Nhâm thìn. Triều đình mở kì thi Hội lấy đỗ 9 Tiến sĩ (có một Tam nguyên là Vũ Phạm Hàm) và 7 Phó bảng.
- Năm 1895. (Thành Thái thứ bảy) Khoa Ất mùi. Triều đình mở khoa thi Hội lấy 8 Tiến sĩ và 12 Phó bảng.
Năm 1895. Bác sĩ Yersin thành lập Viện Vị trung học Nha Trang (Institut Bactériologique de Nha Trang) Viện này cũng còn mang tên Viện Pasteur Nha Trang (Institut Pasteur de Nha Trang). Đây là Viện Pasteur thứ hai thành lập ở Việt Nam.
Bác sĩ Yersin là một cộng sự viên cùa nhà bác học Pasteur, sau đó cùng với Bác sĩ Émile Roux (Viện trưởng Viện Pasteur Paris), là hai người sáng lập ra khoa vi trùng học Pháp hồi thế kỉ trước.
Nguyên tháng 7 năm 1890, Bác sĩ Yersin có dịp tới Nha Trang nghiên cứu, nơi đây ông đã phát hiện ra cao nguyên Lâm Viên là nơi thích hợp cho việc nghỉ mát Công cuộc thám hiểm này có lúc tưởng chừng như ông suýt thiệt mạng trên đường tim ra nơi mà sau này thành lập thành phố Đà Lạt thơ mộng. Sau đó, ông về làm việc ở Nha Trang nghiên cứu và khởi xướng việc trồng cây cao su và cây Canh Kí Na (Quinquina) Đông Dương. Sau đó ông chọn Nha Trang làm quê hương thứ hai và làm nơi an nghỉ cuối cùng của đời minh. Bác sĩ Yersin cũng là Hiệu trưởng đầu tiên và cùng là người sáng lập Trường Y khoa Hà Nội hồi năm 1904. Ông mất năm 1943 tại NhaTrang và an táng tại đây như lời nguyện hồi sanh tiền.
Kể từ ngày 1/10/1904, và trong một thời hạn là 30 năm, Viện Vi trùng học Nha Trang, tức Viện Pasteur Nha Trang, chính thức là một Phân viện của Viện Pasteur Paris theo Hợp đồng kí ngày 12/9/1904 giừa hai viện. Hợp đồng này cùng được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y vào ngày 22/9/1904.
Ngoài Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Nha Trang, ở nước ta còn có Viện Pasteur Hà Nội và Viện Pasteur Đà Lạt. Hai Viện này đều do Bác sĩ Noèl Bernard sáng lập, hoạt động tại các tính Bắc Ki và Bắc Trung Ki, cùng khu vực Cao nguyên Trung Kì.
Ngày 18/11/1896. Toàn quyền Đông Dương A. Rousseau kí nghị định chuẩn y Dụ ngày 17/9 năm Thành Thái thứ 8 (23/10/1896) cho phép mở trường Quốc học Huế (tên ban đầu là Quốc gia học đường). Chưởng giáo (Hiệu trưởng) đầu tiên là Phụ chánh đại thần Ngô Đình Khả (1857-1923).
- Năm 1898. (Tháng 4) Pháp mở trường Đại Pháp tự thoại học đường, tại Huế do Diệp Văn Cương (người Sài Gòn, dượng rể vua Thành Thái) làm đốc học.
- Năm 1898. (Thành Thái thứ 10) Khoa Mậu tuất. Triều đình mở khoa thi Hội lấy đỗ 8 Tiến sĩ và 9 Phó bảng. Đặc biệt khoa này tính Quảng Nam có 3 Tiến sĩ và 2 Phó bảng được vua Thành Thái ban cho tấm biển có 4 chữ “Ngũ phụng tề phi" (Năm con phụng hoàng cùng bay).
- Ngày 6/6/1898. Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đặt thêm một kì thi phụ cho khoa thi Hương, trường thi Hương Nam Định. Nghị định qui định: kì thi phụ sẽ được tổ chức ngay sau khi xong ki thi Hương truyền thống: môn thi gốm tiếng Pháp và tiếng Việt; ai đỗ cử nhân hoặc tú tài trong kì thi Hương, và sau đó đỗ cả hai kì thi phụ này, sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan trước; kể từ khoa thi 1903 trở đi thi chỉ những người nào đỗ cả hai kì thi chính và phụ mới được chọn ra làm quan.
- Ngày 7/6/1898, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định qui định những môn thi cụ thể cho ki thi phụ này như sau:
1. Một bài viết tập tiếng Pháp (hệ số 3)
2. Một bài chánh tả tiếng Pháp (hệ số 5)
3. Một bài dịch từ Pháp ra Việt (hệ số 5)
4. Một bài hội thoại tiếng Pháp (hệ số 5)
5. Đọc và dịch miệng tại chỗ một bài tiếng Pháp (hệ số 5)
6. Một bài chánh tả tiếng Việt (hệ số 3)
7. Một bài dịch từ chữ Hán ra chữ Việt (hệ số 4)
Điểm chấm từ 0 đến 20; ai đạt được 3/5 số điểm tối đa trở lên, sẽ được ưu tiên chọn ra làm việc (cử nhân phải hơn tú tài 50 điểm).
- Ngày 26/10/1898, Vua Thành Thái ra dụ thiết lập Trường Canh nông Huế. Ngày 17/2/1900, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo Dụ này và đặt Trường dưới sự chỉ đạo của Giám độc Ban Chỉ đạo Canh nông Trung Kì.
- Tháng5/1898, Chính quyền thuộc địa Pháp mởTrường dạy nghé ở hà Nội (Ecole Professionnelle de Hanoi). Trường do phòng Thương mại Hà Nội đứng ra tổ chúc. Thời gian học là 3 năm. Trương có 3 ngành: Ngành kĩ nghệ gồm: a) phân ban đồ sắt: rèn, láp máy, khóa; b) phân ban đồ gỗ: dựng nhà, mộc, tiện, làm khuôn. Ngành kĩ nghệ nông nghiệp gồm: chăn nuôi, làm vườn, nuôi tằm. Ngành mĩ nghệ gồm: sơn, đúc đồng. Điều kiện để được dự thi tuyển là phải biết tiếng Pháp và biết làm bốn phép tính. Ngoài các môn học chuyên ngành kể trên, học sinh phải học thêm chữ Pháp.
Theo Dauphinot, tùy viên thương mại, thì mục đích chủ yếu của Trường dạy nghề này là nhằm “đào tạo những công nhân có học, có khả năng trở thành đốc công hoặc trưởng xưởng”.
- Năm 1901, Triều đinh (Thành Thái thứ 10) mở khoa thi Hội (khoa Tân sửu) lấy đỗ 9 Tiến sĩ và 13 Phó bảng.
- Ngày 22/2/1902, Toàn quyẻn Đông Dương ra nghị định thành lập Trường Công chánh để đào tạo nhân viên kĩ thuật công chánh người bản xứ, qui định có ba kì thi và ấn định các môn thi của mỗi kì như sau:
1. Thi vào trường, gồm các môn:
a) Viết tập, viết chánh tả chữ Pháp; làm luận chữ Pháp, chữ Hán, chữ Việt (hoặc chữ Lào, chữ Kampuchia).
b) Số học, hình học phẳng, hình học không gian; đại số (phương trinh bậc 1 và 2); vật lí, hóa học sơ đẳng; vê.
2. Thi hết thực tập (1 năm), như các môn thi phần a kì thi vào trương trên. Ngoài ra thêm các môn: lượng giác, hình học, họa hình, cơ học, vẽ đồ thị; vẽ kĩ thuật v.v...
3. Thi xếp hạng (3 năm một lần): Như các môn thi ki thi hết thực tập, nhưng ở trinh độ cao hơn; ngoài ra còn phải qua kì kiểm tra những tri thức về đường sá, sông ngòi, bến cảng v.v...
- Trường học hệ 2 năm, phải có bằng Tiểu học trờ lên mới được thi tuyển vào trường. Từ 1913, những ai tốt nghiệp bằng Thành chung, tức bằng trung học Pháp - Việt (Diplôme de d’Études Complémentaìres Franco-Indigènes), thì được nhận thẳng, không phải dự ki thi tuyển. Hồi này chỉ có mấy trường sau đây là có ban “Thành chung”, đối với toàn Đông Dương: trường Trung học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, trường Trung học Bảo hộ (Collège du Protectorat) Hà Nội (thường gọi là trường Bưởi), trường Quốc học Huế, trường Trung học Mĩ Tho, trường Trung học Sisowath ở PhnomPênh.
- Ai tốt nghiệp đỗ cả lí thuyết lẫn thực hành thì được gọi là nhân viên kĩ thuật (agent technique): bậc 1 hưởng lương năm từ 800 đến 2000 đồng Đông Dương; bậc 2 hưởng lương năm từ 450 đến 1200 đồng Đông Dương. Ai chỉ thì đỗ phần lí thuyết, sẽ gọi là nhân viên văn phòng (secréctaires des bureaux) năm đầu hưởng lương năm 360 đồng Đồng Dương; năm thứ hai hường lương năm 420 đồng Đông Dương.
- Tính tới năm 1913, trường Công chánh này mới đào tạo có 22 nhân viên kĩ thuật. Niên khóa 1913 -1914 tổng số học sinh vào học là 58 (Bắc Ki 25; Trung Kì 6; Nam Kì 23; Kampuchia 4).
- Ngày 20/61903, Thống sứ Bắc Kì ra quyết định lập Trường Hậu bổ ở Hà Nội (École d’apprentis mandarins), thể theo chỉ thị ngày 9/2/1897 của Tổng thư kí Toàn quyền Đông Dương. Trường đặt dưới sự chỉ đạo, giám sát và kiểm soát viên Chánh phòng Nhì tòa Thống sứ Bắc Ki. Mục đích của trường: đào tạo tri phủ, tri huyện, huấn đạo, giáo thụ. Điều kiện nhập học: cử nhân, tú tài (cựu học), hoặc ít nhất cũng phải là ấm sinh (tức con quan lại cao cấp và có công với thực dân Pháp). Thời gian học: 3 năm. Ra trường sẽ được phong: tòng bát phẩm (tối thiểu), tòng thất phẩm (tối đa).
Ngày 5/5/1911, (tức mồng 7/4 năm Tân hợi), Vua Duy Tân ra dụ lập Trường Hậu bổ ở Huế.
Ngày 18/4/1912, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định sửa đổi gọi trường Hậu bổ Hà Nội thành Trường Sĩ hoạn (École des mandarins).
Ngày 15/10/1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định lập Trường pháp Chính Đông Dương (École de Droit et d’Administration), thay thế cho Trường Hậu bổ Huế và Sĩ hoạn Hà Nội.
- Năm 1903, Các nhà duy tân cải cách (Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp) tổ chức một số trường học dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp ở Quảng Nam. Phần lớn các thị trấn, thành phố và nông thôn đều mở các trường tương tự. Đến các năm 1904-1907 bành trướng ra nhiều nơi trong toàn quốc như trường Dục Thanh ở Bình Thuận, trường Triều Dương ở Vinh (Nghệ Tĩnh), trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội.
- Ngày 3/7/1903, Chính quyền thuộc địa Pháp mở lớp đào tạo đốc công công chánh người Việt tại Huế. Học viên được tuyển lựa từ các trường Pháp ở Trung Kì. Giáo viên do Giám đốc sở Công chánh Trung Ki chỉ định. Học xong, được bổ về làm tại các Tòa Cống sứ, Sở Canh nông và Sở Địa bộ Trung Ki.
- Ngày 25/8/1903, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thanh lập Trường Y tế thực hành bản xứ ở Nam Kì (Ecole Prati que de médecine indigène) để đào tạo y tá và nữ hộ sinh người Việt. Trường đặt dưới sự chí đạo của Giám đốc Sở Y tế Nam Ki. Học viên phải biết tiếng Pháp mới được quan chủ tỉnh chọn vào học. Ngươi ở tỉnh nào, do tỉnh ấy đài thọ tiền ăn học. Học xong, có thể về làm việc tại các trạm xá cấp xã. Lương do làng xã trả, thông qua ngân sách hàng tỉnh. Mỗi làng có thể lập một trạm xá hoặc nhiều làng hợp lại mới có một trạm xá; điều này tùy thuộc khả năng tài chánh của từng làng xã.
- Ngày 1/4/1904, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cho mở Trường Học nghề ở Sài Gòn. Trường gồm 3 ngành: nguội, mộc, đúc loại nhỏ. Thời gian học: 3 năm, Chương trinh học phải thông qua Thống đốc, Hiệu trưởng do Thống đốc lựa chọn trong số những người được Giám đốc Sở Học chánh đề nghị. Tiêu chuắn xét vào học là 16 tuổi trở lên, có hạnh kiểm tốt, sinh tại Đông Dương và là thần dân của nước pháp (sujet Francais). Mục đích của trường đào tạo công nhân kĩ thuật người bản xứ.
- Ngày 27/4/1904, Thực dân Pháp ra nghị định thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp Việt ở Bắc Ki. Chương trinh này chủ yếu sử dụng tiếng Pháp. Mục đích từ từ loại bỏ nền Hán học ở Bắc Kì.
- Ngày 25/10/1904. Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập Trường Cao đẳng y khoa Đông Duomg (École de Médecine de L’indochine) và cử Bác sĩ Alexandre Yersin làm Hiệu trưởng.
- Năm 1904, Triều đình (Thành Thái thứ 16) mở khoa thi Hội (khoa Giáp thìn) lấy đỗ 6 Tiến sĩ và 5 Phó bảng.
- Năm 1905, Các ông Phan Châu Trinh, Nguyễn Trọng Lợi, Trần Lê Chất, Nguyễn Quí Anh cùng các thân sĩ mở trường Dục Thanh ở Phan Thiết dạy theo lối mới.
- Ngày 3/3/1906. Toàn quyền Đông Dương Broni (Nhiệm kì thứ I từ 1901-1902, nhiệm kì II từ 1905 đến 1907) ra nghị định thiết lập Hội đồng Hoàn thiện nền Giáo dục bản xứ (Conseil de Períectionnement de L’Enseigement indigène). Nhiệm vụ của Hội đồng gồm:
1. Nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến việc thiết lập hoặc cải tổ lại nền giáo dục đối với người bản xứ; đặc biệt cần lưu tâm đến các vấn đề như: lập lại các trường dạy chữ Nho Nam Kì; sửa đổi lại chương trình thi Hương Bắc Kì và Trung Ki nhằm đưa môn tiếng Pháp và khoa học sơ đẳng vào chương trinh; hoàn thiện nền giáo dục trong các chùa chiền ở Campuchia, ở Lào, điều kiện để thiết lập một trường Cao đẳng cho dân các nước ở Đông Dương.
2. Duyệt các sách giáo khoa, từ điển, tự vị...
3. Lập kế hoạch và theo dỏi việc xuất bản tờ tập san của ngành giáo dục.
4. Nghiên cứu, thu thập, bảo quản, và nếu cần, cho tái bản những tác phẩm cổ đại, cận đại về văn học, triết học, lịch sử của các nước Đông Dương.
- Hội đồng gồm các ủy viên (tối đa là 25) vừa người Pháp, vừa người bản xứ, do Thống đóc, Thống sứ, Khâm sứ, Giám đốc học chánh Đông Dương, Giám đốc Trường Viễn Đông Bác cổ lập danh sách giới thiệu và toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Hội đồng cử ra một ủy ban thường trực. Mỗí năm hội đồng họp tối thiểu một lần. Các viên giám đốc các công sở chuyên ngành hay các công sở hành chánh đều có quyền tham gia ý kiến.
- Ngày 16/5/1906, Toàn quyền Đông Dương Broni ra nghị định cho thành lập tại Bắc Kì, Trung Ki, Campuchia, Lào, mỗi nơi một Hội đồng hoàn thiện Giáo dục bản xứ để nghiên cứu các vấn đề giáo dục có liên quan đến riêng từng nơi một. Hội đồng này trực tiếp làm việc với ủy ban thường trực cúa Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục toàn Đông Dương.
- Ngày 31/5/1906, Vua Thành Thái ra Đạo Dụ về việc cải cách thi Hương và thi Hội, chữ Pháp được đưa vào chương trinh thi.
- Ngày 31/5/1906, Nam triều và chính quyền Pháp thành lập Cải cách học vụ hội đồng ấn định về phép học chữ Hán chia làm 3 bậc: a) Ấu học: dạy trường Tổng sư lấy bằng Tuyển sinh; b) Tiểu học: học trường phủ, huyện (Giáo thọ, Huấn đạo) thi lấy bằng khóa sinh; c) Trung học: dạy ở các trường Đốc đề luyện học sinh đi thi Hương lấy bằng Tú tài, Cử nhân. Văn bản chuẩn y do Toàn quyền Đông Dương Broni kí ngày 14/9/1906 cùng với Giám đốc Học Chánh Đông Pháp Góurdon và khâm sứ Trung Kì Levecque.
- Ngày 30/10/1906, Chính quyền thuộc địa ra nghị định thiết lập Chương trình giáo dục hệ Pháp Việt ở Trung Ki. Chương trình này chủ yếu sử dụng tiếng Pháp. Mục đích nhằm loại bỏ dần nền Hán học ở Trung Kì.
- Năm 1907 (tháng 3). Các nhà duy tân ở miền Bắc (Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bác Trạc... theo gợi ý của Phan Châu Trinh thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội dạy theo lối mới của phong trào Duy tân ở Quảng Nam, Bình Thuận.
- Năm 1907, Triều đình (Thành Thái thứ 19) mở ki thi Hội (khoa Đinh mùi) lấy đỗ 7 Tiến sĩ, 6 Phó bảng.
Ngày 19/11/1907, Toàn quyền Paul Beau thành lập trường Đại học Hà Nội gồm 5 trường Cao đẳng: Luật và pháp chính, Khoa học, Y khoa, Xây dựng, Văn chương, nhưng sau đó phải đóng cửa vì nhièu lí do.
- Năm 1908, Toàn quyền Đông Dương kí nghị định thành lập Trường Trung học Bảo hộ ở Hà Nội (Collège du Protectorat à Hanoi) dạy chương trình Pháp Việt,
- Tháng 5/1908, Thực dân Pháp thiết lập một hệ thống trường gọi là Trường Dự bị (École Préparatoire) tại Nam Ki. Loại trường này được họ coi là trường quá độ để chuyển từ hệ thống giáo dục cũ sang hệ thống giáo dục Pháp Việt.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét