Khiemnguyen

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2015

Thi sĩ Tản Đà (Lê Thanh)



Nhà làm Báo
Hành động! Đó là một phong trào rất mạnh nổi lên ở xã hội ta, sau thời kỳ binh lửa ở Âu chàu. Đã gọi là tai mắt của quốc dân, ai cũng muốn đem tài lực của mình ra thi thố để gây ảnh hưởng. Giờ an nhàn mơ mộng cũng có, giờ bôn tẩu phiêu lưu cũng nên có. Giữa lúc ấy, ông Tản Đà, một người sống vi tnộng, lúc nào cũng mơ ước làm dược những công kia việc nọ, chẳng lẽ lại chỉ ngồi để cho giăng gió ru hồn. Ông bước chân vào làng báo với cái nhiệm vụ chủ bút báo Hữu Thanh (1920). Trước khi ra đời, ông khua chuông gõ trống, diễn thuyết ở hội Trí tri. Nhưng khi tiếng ông còn văng vẳng ở tòa nhà phố hàng Nón thì ông đã đi theo “tiếng gọi đàn xa núi Tàu xanh.
Đến năm 1921, ông ra chủ trương tờ An nam tạp chí. Tờ tạp chí ấy là con cưng của ông. Nó đã chết đi sống lại mấy lần và vẽ thêm cho ông mấy nét nhăn trên trán. Nó không cho ông an cư bên núi Tản với sông Đà, bắt ông nay đây mai đó, lang thang quản bút với sơn hà.
Ỏng bị thất bại.
Theo ông thì ông bị thất bại vì “ông không có đất làm báo cũng như Tào Tháo ngày xưa không có đất dụng võ vậy”.
Trong một tiểu thuyết của ông, ông đã tỏ lòng hối hận của ông, ông biết công việc của ông không phải đó :
Sông Đà Giang ở Bắc kỳ, một là Hắc giang, chữ Tây là Rivière Noire; tục thường gọi là Sông Bờ, lấy vì có chảy qua tỉnh Bờ. Con sông ấy truyền vào hạt Sơn Tây qua chỗ Đá Chông, xuống đến ghềnh La Phù, bờ bên tả ở huyện Thanh Thủy, thuộc tỉnh Hưng Hóa; bờ bên hữu là huyện Bất Bạt, Sơn Tây”.
Có người cho cái tính mơ mộng của ông là nguyên nhân sự thất bại của ông trong nghe báo.
Thi sĩ là thi sĩ, ông chủ báo là ông chủ báo. Hai người cần phải có những đặc tính khác nhau, có thể nói là mâu thuẫn với nhau được; một người cần phải sống với cái đời gẫn như đời lý tưởng, một người cần phải sống cái đời thực tế, cần phải hành động.
Mỗi khi ông chủ trương một tờ báo, ông không nghĩ đến tiền nhiều hay it. Năm mươi dồng bạc cũng đủ để tổ chức một tờ báo của ông, ông tự cao, cứ tưởng tượng như tờ báo của mình ra thì thế nào cũng được quốc dân hoan nghênh.
Ông chỉ tưởng tượng đến cái vinh của nghè báo mà thôi. Trên con tầu An nam của ông, ông chỉ tưởng tượng đến những cành tuyệt đẹp nó sẽ đưa ông đến chứ ông không nghĩ đến than củi cần dùng cho con tàu của ông.
Ông không hề nghĩ đến sự thất bại ở đời, nói thế không thể không phải là không đúng, nhưng tôi thiết tưởng cũng không đúng hẳn. Cái tính mơ mộng của ông không phải là cái nguyên nhân chính của sự thất bại của ông. Sự thất bại của ông là sự thất bại chung của mọi người “buôn văn bán chữ”, của những thân tằm ăn dâu xanh để rút giả sợi tơ vàng” :
Dâu xanh rứt giả sợi tơ vàng
Thân thế con tầm những vấn vương
Tớ nghĩ thân tầm như tớ nhỉ
Tơ tầm như tớ mối văn chương.
Bao nhiêu củi nước mới thành văn
Được bán văn ra chết mấy lần
Ông chủ nhà in, in đã đắt
Lại ông hàng sách mấy mươi phân
Càng đau mà vẫn phải càng theo
Theo mãi cho nên cứ vẫn nghèo
Nghèo chỉ có văn, văn lại ế,
Ế văn cho tớ hết tiền tiêu”.
Ấy là mấy lời than của ông khi ông thất bại về việc xuất bản sách của ông; nó cũng tiếng than chung của mọi nhà làm báo ở xứ ta.
Không nói gì đến mười năm về trước, người đọc văn và yêu văn ta còn ít, ngay bây giờ có ai đã dám tự hào rằng mình ra đứng chủ trương một tờ báo mà không thất bại... huống gì thi sĩ Tản Đà.
Đem cái mơ mộng cùa ông để đổ tội cho ông, để quên cái lãnh đạm của quốc dân đối với ông, như thế tôi tưởng là một sự hẹp hòi, trong sự phê bình ông.
Ta nên nói rằng sự thất bại của ông phần lớn là độc giả mà bao lần ông tỏ rằng ông nhớ và ông yêu:
Nhớ ai chẳng nhớ những là ai,
Mây nước xa trông luống ngậm ngùi
Tạp chí mười kỳ duyên đã nhạt
An Nam hai chữ mực hồ phai
Ba Thu ngày tháng la đà uổng
Bốn bể âm thư vắng vẻ hoài
Bóng lặn tà dương giời sẩm tối
Ếch kêu đầy phố tiếng xe hơi”.
(Nhắc các bạn độc giả An Nam tạp chí)
Có ngưòi cho rằng ông bỏ cái đời mộng của ông để bước vào con đường thực tế là ông đi lầm đường, ông đi vào con đường cạnh tranh thì cái thi cảm của ông nó cũng “lên mây”.
Về phần tôi, tôi không tin thế. Việc ông ra làm báo là một việc tự nhiên. Ông Tản Đà lúc nào cũng muốn “vác quả địa cầu trên vai”, lúc nào cũng mơ làm những việc to tát. Những ước vọng của ông, ông đã bầy tỏ trong một bức thư gửi cho Chu Kiều Oanh: ông đã có một chương trình.
Nếu cái chương trình của ông chưa được đem thực hành cả, ông cũng đã làm được nhiều việc đáng ghi.
Những mục văn đàn, thi đàn cùa ông trong An nam tạp chi không phải là không có ảnh hưởng cho văn thơ ta.
Vả lại, công cuộc của ông không có kết quả đi nữa, nó cũng có thể là một tấm gương nghị lực và nhẫn nại cho ai đang dụt dè bước vào con đường văn học:
Mỗi lần hi vọng là một lần thất vọng.
Một người có công với quốc văn
Ông Nguyễn Khắc Hiếu là một thi sĩ, một văn sĩ có chân tài. Ông là một nhà làm báo có tin tưởng và kiên nhẫn.
Với bấy nhiêu, ông đã có thể chiếm một chỗ danh dự trong làng văn. Nhưng còn một quan điểm nữa ở đời ông nó sẽ làm cho lịch sử phải mắc nhớ đến ông luôn, ấy là cái công của ông đối với văn học Việt Nam.
Từ khi Tú Xương qua đời, để lại một chỗ trống lớn bên chúng ta. Ông Tản Đà là nhà thi sĩ độc nhất của chúng ta. Nói thế không khỏi có người phản đối rằng hãy dở tạp chí Đông Dương, Nam Phong, mỗi kỳ người ta được ngâm hai ba trang thơ viết bằng quốc văn; những bài thơ ấy phải đâu đều ký tên Nguyễn Khắc Hiếu cả. Vâng, ở những tạp chi ấy người ta có thể lấy thơ ra chất thành đống, nhưng đó chỉ là những viên đá, đã bao nhiêu thế kỷ lăn từ nguồn lễ giáo về đến đấy xếp thành hàng, ngang bảy dọc tám. Đó chỉ là những cái sác không hồn sinh ra bởi nhũng nhà nho sòng vào thời buổi tàn tạ.
Lục trong đống thơ lớn ấy, ta tìm được bao nhiẻu bài thơ, thơ như thơ Tản Đà.
Ồng Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hòn thơ Việt Nam đang hấp hối - tôi không muốn nói đã chết rồi. Ông ra đời đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng. Ông đã mơ mộng đã chán đời, yêu đời, thiết tha với đời một cách tự do. Ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cải trữ tình mê man của mình dãi trong văn thơ.
Ông đã sống một đời thi sĩ và đã dám có một tâm hồn thi sĩ.
Thơ của ông là tiếng nói dịu dàng trong trẻo của Nàng thơ Việt Nam.
Văn học Việt Nam ta bao giờ mới lại có một thi sĩ như thi sĩ Tản Đà!
Thế mà, khi thi sĩ mới ra đời, phê bình thi sĩ, ông Phạm Quỳnh còn viết:
Nay cứ hiện tượng quốc ngữ mà xét thì ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng là một tay sành làm văn trong buổi bây giờ, vi như một tay thợ khéo trong bọn xây cái “nhà quốc văn” ngày nay. Nhưng đương khi những người thợ kia kẻ gánh vôi, người gánh cát, kẻ lợp ngói, người xây gạch, kẻ leo chót vót trên ngọn tường, người ngồi éo le trên đầu nóc thời ông đem một phiến gụ ngồi biệt ra một nơi xa mà chạm cái cửa võng, chạm rất chăm chỉ rất công phu, chạm lồng rồi lại chạm tỉa, thiệt là tinh, thiệt là sảo, các thợ đi qua dù bận đến đâu cũng phải dừng lại xem mà khen là đẹp, ông chạm xong cái cửa võng ông lại chạm đến củi bao lơn, cũng vẫn kỹ càng công tế như thế. Nhưng trong khi ấy nhà vẫn chưa dựng xong, khòng biết đặt cửa võng vào đâu và đóng bao lơn vào chỗ nào.
Thôi thì ông đã có công chạm, ta nên lượng cái công cho ông.
Như thế thì ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng có công với quốc văn vậy...
Xong, nếu tôi có quyền khuyên được những nhà thiếu niên mới tập làm văn quốc ngữ thì tôi xin khuyên đừng nên vội học cái nghề chạm của ông Nguyễn Khắc Hiếu mà hãy ra công cố sức gánh gạch, quẩy vôi xây tường, lợp nóc cho cái nhà ta thành đã. Đến bấy giờ trên kín dưới cao, trong ngăn ngoài nắp bà con ta được thảnh thơi khỏi phải cực đi ở nhờ thì lúc ấy những cửa võng bao lơn mới thật là có giá trị vậy (Nam Phong 1918)
Ông Phạm Quỳnh đã không nhận rằng cái công của ông Tản Đà là thực dụng. Ông đã phê bình ông Tún Đà qua quan niệm, văn chương của ông.
Nếu những nhà thiếu niên đã nghe ông, không vội học cái nghề chạm của ông Nguyễn Khắc Hiếu thì làm gì chúng ta có một cái di sản về thơ quí báu như bây giờ.
Càng nghĩ đến lời phê bình khắc nghiệt của ông, ta càng lượng được một cách chính xác cái công của ông Tản Đà.
Ngày nay thi sĩ của chúng ta đã về sống những ngày lạnh lùng thanh bạch trong tháp ngà ở Khê Thượng, Sơn Tây. Thi sĩ muốn quay lưng lại với người đời, mặc để cho người đời quên thi sĩ, không biết đến thi sĩ.
Mặc để cho người đời nói đến cái say, cái mơ mộng, cái nghèo của thi sĩ, đem thi sĩ mua lấy một nụ cười cho người vô ý thức.
Mặc để cho người đời hăm hở hoan nghênh những tập thơ, những tiều thuyết có cái tên đẹp,  có cái vẻ hào nháng, còn những lập thơ như Khối Tình Con, những tiểu thuyết như Thề non nước, mặc để cho người đời đem bán giao, kèm những hộp sáp thơm, lọ dầu soa, trong ga xe lửa, ngoài bến ô tô.
Chiều hôm ấy, tôi đi chơi định qua mấy hàng sách xem có gì lạ, và thứ nhất là để mua những cuốn sách, tập báo quốc văn in từ lâu.
Tòi vào một hiệu nhỏ ở đầu phố Hàng Bông.
Lục trong sách báo cũ nằm lộn xộn dưới một làn bụi mỏng, một cuốn sách nhỏ đã cũ lắm nhưng vẫn còn giữ được vẻ xinh sắn, tập Nhàn tưởng của ông Tản Đà hiện trước mắt tôi.
Tối vội cầm lấy vật quý báu ấy.
Tôi hỏi, bà chủ hiệu bảo cho tôi biết rằng bà chỉ bán cuốn sách ấy có hai xu.
Tôi còn vừa lục ỏ trồng sách, vừa nhắc lại trong tri mấy tiếng nó đã làm cho lôi ngạc nhiên một cách buồn rầu: “Ông cho hai xu”, một người ở trên gác đi xuống rồi vào thẳng trong nhà khiến cho tôi phải chú ý. Bà chủ nói:
-   Đó là Tản Đà tiên sinh!
-   Đó là Tản Đà tiên sinh!
Ngay từ lúc ấy tôi đã nhận được hình ảnh của tiên sinh, hình ảnh của một thi bị quên bỏ, đang sống những ngày tàn.
Hình ảnh ấy đã cùng sự công phẫn, sự bùi ngùi phảng phất trong trí tôi, mỗi khi tôi cầm bút viết tập nghiên cứu và phê bình này.
(Viết xong năm 1936).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét