Khiemnguyen

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Bút chiến giữa Ngô Tất Tố và Hoàng Tích Chu về lối viết báo



(Nguyễn Bùi Khiêm) Năm 1931, trên Đông phương, Ngô Tất Tố với bút danh Thục Điểu đã có một loạt bài có tính chất “bút chiến” với Hoàng Tích Chu, có thể nói đây là cuộc chiến phong cách viết báo của những người thuộc phái Nho học với những người thuộc phái Tây học mà Hoàng Tích Chu là người mở màn.
Để có thể có cách nhìn đầy đủ hơn, xin giới thiệu với các bạn toàn văn một số bài báo đó..

84. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (bài 1)
Mấy số báo trước, trên tờ Đông phương có lời xin các vị lai câo (bài gửi đến để đăng báo) đừng bắt Đông phương phải nhận những bài viết bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu. Các ngài chừng cũng hượng tình, mấy bữa nay quả nhiên không phải nhận bài nào bằng lối văn ấy. Cái thịnh tình đó, ai chứ tôì thì tôì ghì vào phế phù (nghĩa bóng là bí mật riêng tư).
Một điều mà tôi muốn nói, là, từ khi có lời xin ấy, tuy đã trừ được một nạn và chưa thy ông bà nào viết thư phản đối, nhưng chắc đâu trong mấy “nghìn” bạn đọc, không có người hỏi thầm trong bụng rằng: Tại sao mà Đông phương nó không ưa lối văn ông Hoàng Tích Chu?
Mà phải, cái lối tuyên án không có tội trạng, không thể khiến cho ai tin. Đã chẳng muốn trong tập bài lai cảo không có lối văn ông Hoàng Tích Chu, ít ra cũng phải nói vì c gì mà mình không muốn có.
“Vì c gì ba ch đó thật khó cho tôi trả lời. Bởi vì, cái c này khác hẳn vi các c khác. Mắm tôm tôi không ưa, tôi bảo tại nó thum thủm, bã mía tôi không ưa, tôi bảo nó không có khí vị, đến như lối văn ông Hoàng Tích Chu thì tôi chẳng biết lấy cái gì mà danh danh trạng (diễn tả) ra được?
Thôi thì nói vắn chẳng được phải nói dài, bây giờ chi có một cách là đem ít bài văn thật hiệu ca Hoàng me xừ mà phê bình coi thử.
Văn của Hoàng me xừ, tôi đọc nhiều lắm - đọc để cho biết bài nào cũng như bài nấy, đu có thể làm tài liệu cho tôi phê bình. Cái bài mà tôi sắp phê bình đây là bài mi nhất ca ông ta, đầu đề bài thứ nhất là “Hai cô thiếu nữ trẫm mình”, còn cái đầu đề thứ hai thì hôm nọ vừa thấy ở báo T.L.: “Đọc thời sự có cảm.
Thoạt kỳ thủy Hoàng me xừ giở địa dư học của mình ra nói rằng “ở Hà Nội có bốn cái bồ, hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Bẩy Mâu, hồ Gươm”. Thế rồi me xừ bắt vào chép chuyện, cái đoạn ấy nguyên văn như vầy:
“Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch như chỉ riêng là nơi đắc địa cho tấm thân bạc mệnh. “Vì” cái tin thê thảm gây nên chẳng mấy khi tự trên mặt hồ Bẩy Mu hay hồ Tây”.
Độc giả nghĩ coi, mấy câu đó là nghĩa thế nào! Chữ “vì” đó tôi không hiểu tác giả muốn nói vì sao hay vì trăng, chứ nếu dùng theo tính chất của nó thì thật bất thông chí thậm (hết sức, quá mức). Chữ quốc ngữ vẫn mang tiếng là nôm na, nhưng chữ nào cũng có nghĩa nấy. Chữ vì dùng vào chỗ giải thích cho một câu nào ở gần vi nó hoặc trên hoặc dưi. Hai câu trên kia, nếu theo đúng nghĩa chữ vì thì phải đặt như thế này:
“Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch như ch riêng là nơi đắc địa (theo chữ của ông Chu) cho tấm thân bạc mệnh, vì đó luôn luôn xảy ra án phụ nữ tự trầm”.
Hay là thế này:
“Hồ Tây và hồ Bẩy Mẫu hình như vô duyên với bọn phụ nữ tự sát, vì cái thảm trạng ấy chẳng mấy khi xuất hiện ở hai nơi này”.
Đó là tôi chi đặt cho thông chữ “vì” đhứ không phải chữa ông Chu nghĩa là tôi chỉ giả thiết làm mẫu để tỏ cái chân tướng “vô nghĩa” của hai câu kia mà thôi. Muốn cho rõ nữa, tôi xin theo kiểu bai câu đó mà đặt thêm một câu ví dụ:
“Anh Xoài như chỉ thích riêng về rượu, vì hơi men chẳng thấy ở nhà anh Mít”.
Đó, độc giả nghe thử có thông hay không? nhà anh Mít chẳng có hơi men thì can dự gì đến cái thích rượu của anh Xoài mà lại dắt cái nọ làm chứng cho cái kia?
Trời ơi! bài của ông Chu hãy còn dài lắm, mới phê bình được một đoạn mà hết một cột rồi.
Xin hoãn, khi nào có dịp tôi sẽ nói nốt.

Thục Điểu
Đông phương, số 462, 1931

85. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (bài 2)
Cái bài “Đọc thời sự có cảm" của ông Hoàng Tích Chu, hôm qua tôi mới phê bình được một đoạn đầu. Xem mấy câu phê bình ấy, chắc cũng có người cho là nghiêm khắc. Xin ai nấy cứ đem nguyên văn của ông Chu mà đọc đi đọc lại, rồi tỉ mỉ nghĩ cho thật kỹ, thì sẽ thấy những câu phê bình chẳng nghiêm một chút nào.
Trong đoạn ấy lại có một chữ vô nghĩa hơn nữa, ấy là câu “cái tin thê thảm gây nên chẳng mấy khi thấy tự trên mặt hồ Bẩy Mẫu hay hồ Tây”.
Văn quốc ngữ cũng như văn Pháp trong một câu ít ra cũng phải đủ hai bộ phận: chủ từ (suject) và động từ (verbe), động từ phải theo tính chất của chủ từ, đó là luật thiên nhiên của các thứ tiếng.
Trong câu “cái tín thê thảm gây nên chẳng mấy khi thấy tự trên mặt hồ Bẩy Mẩu hay hồ Tây” thì chủ từ hẳn là chữ “tin” mà động từ của nó hẳn là chữ “gây”; theo luật thiên nhiên của văn quốc ngữ thì chữ “gây” không thể làm động từ cho chữ “tin” được. Bởi vì “tín” cũng như một vô cơ, chĩ có vật khác gây nó, chớ tự nó không thể gây được lấy nó bao giờ.
Chữ “thấy” càng vô ỷ thức hơn nữa. Lấy ý mà xét, thì chữ “thấy” này chăc là động từ, vậy thì chủ từ của nó là chữ gì? Không có chủ từ chăng? Cái luật thiên nhiên của chữ quốc ngữ không cho ai dùng động từ không có chủ từ. Chủ từ là chữ tin (thê thảm) đó chăng? Luật thiên nhiên kia không cho đặt chữ như thế. Bởi vì, như trên đã nói, tin cũng như vật vô cơ, chỉ có vật khác thấy nó, chớ tự nó không thể thấy được.
Hai chữ “trên mặt” theo nghiêm cách mà nói, cũng không có nghĩa lý gì cả. Vì rằng chủ từ của câu đó là chữ “tin”, tin là vật vô hình, nghe được, chứ không trông được. Chăc không ai trông thấy cái tin nào vơ vẩn hay phập phềnh nằm trên mặt nước.
Thế thì cần gì phải đặt hai chữ “trên mặt” vào đó?
Tóm lại, thì câu này chẳng phải có ý nghĩa cao thâm gì, cứ đặt là “những án phụ nữ tự trầm chẳng mấy khi xảy ra ở hồ Bẩy Mâu hay hồ Tây” thế là rảnh việc, làm chi phải cầu kỳ đến những chữ “trên mặt”..., “gây nên”, vẽ cọp mà chẳng thành cọp.
Phê bình tì mỉ thế này, độc giả hoặc cũng có người cho là bới lông tìm vết, nhưng không phải vậy đâu. Những vị cứ viết bài theo lối văn ông Hoàng Tích Chu mà lai cảo cho Đông phương là vì không thấy những chỗ t mỉ ấy, mà Đông phương không hoan nghênh lối văn ông Hoàng Tích Chu cũng có một phần vì chỗ tỉ mỉ đó.
Viết đến đây, tôi lấy làm lo! Lo vì cái bài tôi phê bình dở dang này còn dài dằng dặc, mà phốt chữ phốt ý còn nhan nhản như trấu xay, biết phê bình cho đến bao giờ cho xong. Có lẽ, vì sợ chán tai độc giả, ngày mai tôi sẽ nói xen chuyện khác.

Thục Điểu
Đông phương, số 463, 1931

87. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (bài 3)

Phiền quá, có một câu hỏi như trên, mà trả lời đến hai cột báo chưa trôi, cho hay cái sự nghèo tiếng thật khổ!
Giả sử nước mình có được một hình dung từ (adjectif) được đức tính cua li văn ông H.T.Ch. thì mình đâu có phải tốn thì giờ thế này?
Thôi thì tốn thì giờ thì tốn, mình cũng không mất vn mất lãi gì vào đy. Nước mình đã xảy ra lối văn ông Hoàng Tích Chu, mình cũng nên hy sinh một vài giọt mực.
Hai hôm trước đã nói hết một đoạn đau trong bài Đọc thời sự có cm ca ông Hoàng Tích Chu, hôm nay phê bình đến đoạn thứ hai của bài ấy xin nói rõ rằng: những chữ “đoạn đầu”, “đoạn thứ hai” này là tự tôi đặt ra để đánh dấu cái kiệt tác của Hoàng me xừ, cho tiện lúc nhắc đến, ch nguyên văn thời không có chia đoạn.
Đoạn thứ hai này như vầy:
“Theo thuyết nhà địa lý, cái chết cũng cần có ý vị như cái sống. Cái sống của con chim khôn là ở nóc nhà sang thì cái chết của con cáo phải quay đầu về núi. Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch là hai làn nước đẹp có cảnh xinh xinh. Chết đấy như thấy có lý thú hơn dìm thân trên làn nước khác”.
Đoạn này hai câu cuối, về lời văn, không có gì cần phải phê bình. Chỉ cần phê bình hai câu trên.
Ở câu thứ nhất, chữ địa lý có lẽ do chữ triết lý lầm ra đó chăng? Nếu thật là chữ địa lý thì vô nghĩa lắm, vì như câu dưới nói cái chết cũng cần có ý vị như cái sống thì là giọng triết lý mới phải. Địa lý là môn học chuyên về tìm đất cầu phúc, không hề nói đến ý vị của cái chết.
Đến câu thứ nhì “cái sống của con chim khôn là ở nóc nhà sang, thì cái chết của con cáo phải quay đu về núi” thì cái chữ “thì” ở giữa nó bất thông không biết chừng nào.
Theo thói quen của ông cha mình vẫn nói, “thì” ngoài cái nghĩa là ngày giờ, còn nhiều nghĩa khác:
Có nghĩa dùng để so sánh với thời gian. Ví như “anh A đương viết thì anh B vừa vào” hay là “anh D đi rồi thì anh c mới đến”.
Cổ nghĩa dùng để so sánh cự ly. Ví như: “Hùm tha con lợn không sao, mèo tha miếng thịt thì nào với ông”.
Có nghĩa dùng để tỏ rõ nhân quả. Ví như “chồng ăn chả thì vợ ăn nem”.
(Còn nhiều nghĩa nữa nhưng không cần nói hết vì nó không quan hệ đến chữ “thì” ở đoạn trên đây).
Xét trong mấy nghĩa đó, thì, chữ “thì” trên kia của ông Chu chắc không dùng về nghĩa so sánh thời gian, không dùng về nghĩa so sánh sự lý, có lẽ đùng như cái nghĩa tỏ rõ nhân quả. y! cái bất thông nó ở chỗ đó.
Người ta nói chồng ăn chả thì vợ ăn nem, chữ “thì” ấy có hàm ý rằng vợ ăn nem bởi tại chồng ăn chả, hai việc ấy có nhân quả với nhau. Đằng này việc con cáo chết quay đầu về núi với việc con chim khôn ở nóc nhà sang có dính nhau chút nào? Con chim khôn chẳng ở nóc nhà sang, con cáo chết cũng vẫn quay đầu về núi; con cáo chết quay đầu về núi, chẳng bởi con chim khôn đậu nóc nhà sang, thế, thì làm sao lại tương chữ “thì” vào giữa?
Dưới đoạn này thì đến một đoạn rất cười hơn nữa, có lẽ đoạn ấy là đại biểu cho chân tướng lối văn cùa ông Chu, ngày mai tôi sẽ nói đến.

Thục Điểu
Đông phương, số 465, 1931

88. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (bài 4)

Hôm qua, tôi có giới thiệu với độc giả cái đoạn văn tức cười mà tôi cho là đại biểu của lối văn ông Hoàng Tích Chu. Đây cái đoạn kiệt tác ấy nó như thế này:
“Những nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó như có một cái sức mạnh vô hình nó đã quen hút những linh hồn vô hy vọng (sức mạnh ấy có lẽ như ta gọi là con nam). Vì luật tự sát có hai thứ: thứ chết đúng một chỗ, thứ chết đúng một giờ, luật ấy theo thời gian, làm định lệ”.
Đó là tôi chép đúng nguyên văn, một cái via-rơ-guyn[1] cũng không dám để sót.
Đọc hết đoạn ấy, ai mà hiểu được rõ, cắt nghĩa được thông, tôi xin chắp tay lạy hai lạy mà tôn làm ông thánh. Tôi thì tôi chịu, chẳng biết đằng nào mà mò. Mà tôi tưởng trong khi viết đoạn văn ấy, “viết giả” nếu có đọc lại cũng chưa chắc đã hiểu. Phải, khó hiểu quá, tôi xin nhắc lại mỗi câu một lượt nữa:
“Nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó như có một sức mạnh vô hình nó quen hút những linh hồn vô hy vọng”.
Đến đây là hết một câu đầu, rành rành có dấu chấm dứt (point). Trong câu ấy, ba chữ “nhà xã hội học” là chỉ vào ai? Ai là nhà xã hội học ấy? Hỏi vậy, hoặc giả người trả lời rằng ba chữ xã hội học đó ấy là nói vu vơ, không chỉ vào người nào.
Thưa rằng không th thế được. Cứ đem câu đó mà giải phẫu từng khúc thì biết.
Nhà xã hội học làm gì?
Nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim
Theo lý thuyết của Durkheim thì sao?
Thì cho hồ Gươm và hồ Trúc Bạch có sức mạnh vô hình.
Cứ thế câu mà xét, thì mấy chữ “có sức mạnh vô hình” tức là cái ý tưởng của nhà xã hi học theo lý thuyết của Durkheim mà phán đoán về hồ Gươm và h Trúc Bạch đó.
Song hai cái h này chỉ là riêng của đất nghìn năm văn vật, không phải như mặt trời, trái đt là ca chung của thế gian mà hết thảy các nhà xã hội học đu nói đến cả. Thế thi nhà xã hội học nào đã nói đến hai cái hồ ấy phải nói cho rõ ràng ra. Người làm văn thông thông thì phải như vậy.
Nói vậy mà chơi, thực ra có lẽ chữ nhà xã hội học, viết giả cũng chẳng định chỉ vào ai đâu, chăng qua quen lối quay cuồng, lộn trên xuống dưới, lộn dưới lên trên, nên mới đặt câu như vậy cho khác người. Lấy ý mà đoán, thì, câu đó hoặc như thế này: “Theo lý thuyết của nhà xã hội học Durkheim thì... hai hồ đó...”.
Bây giờ đọc lại câu thứ hai “Vì luật tự sát có hai thứ: thứ chết đúng một chỗ, thứ chết đúng một giờ, luật ấy theo thời gian, làm định lệ”.
Chữ “vì” ấy là nghĩa thế nào, cớ sao lại đặt chữ “vì” vào đó?
Làm sao lại gọi là luật tự sát? Tự sát có phép nhất định hay sao mà gọi là luật.
Theo thời gian, làm định lệ là cái nghĩa gì?
Thật là thánh cũng không hiểu được.
Tóm lại, đoạn này thật là lù mù lờ mờ, chẳng có nghĩa lý chi hết. Chẳng qua tác giả muốn lòe những kẻ không mắt, làm ra bộ ta có học đây, nhưng chết vì cái học nó lại chẳng nằm ở óc ngài, không lấy đâu mà lôi ra được, cho nên ngài mới dùng cái lối văn lù mù lờ mờ quay cuồng lộn ngược như thế! để cho người ngu khỏi thấy bản tướng của mình.
y cái li văn của Hoàng me xừ phn nhiều mù mờ lộn ngược như vậy.
Cái lối văn ấy, Đông phương không muốn có.

Thục Điểu
Đông phương, số 466, 1931

89. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (bài 5)
Đông phương không thể hoan nghênh những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu là tại cái lối văn ấy luôn luôn dùng cách quay cuồng tráo lộn, lù mù lờ mờ, hôm qua tôi đă nói vậy.
Phải, “lù mù lờ mờ, quay cuồng lộn ngược” đó là đặc điểm của lối văn Hoàng me xừ. Song tám chữ đó chẳng qua tôi nói lấy gọn đó thôi, không phải đã tả hết được cái chân tưđng của lối văn chương đại gia kia đâu, còn nhỉều cái đặc điểm khác. Nhiều lắm, “ăn gian” cũng là một đặc điểm cửa lối văn ấy!
Nói vậy chắc độc giả lấy làm lạ. Văn gì lại có thứ văn “ăn gian”?
Thưa có. Xin hãy coi lại hai đoạn trong bài “Đọc thời sự có cảm” mà tôi đem phê bình hôm qua và hôm kia.
Trong đoạn hôm kia có câu rằng: “Theo thuyết địa lý, cái chết cũng cần có ý vị như cái sống”.
Trong đoạn hôm qua, có câu rằng: “Nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó như có một cái sức mạnh vô hình nó quen hút những linh hồn vô hy vọng”.
Thấy hai câu đó, nếu tôi từ xưa không xem nhiều văn của tác giả, thì tôi ắt phải đoán rằng: tác giả đã đọc hết hàng tủ sách địa lý; biết thấu tận gốc cái thuyết của Durkheim cho nên mới đem hai môn học đó mà tóm tắt lại hai câu như vậy.
May mà tôi lại xem nhiều văn của tác giả, cho nên tôi biết, tôi biết nó là cái lối văn viết “bịp”. Thật thế, nếu không phải là lối văn “bịp” thì không ai viết vậy.
Theo tôi, nghề viết văn..., phải cần có đức thật thà, nghĩa là cái gì mình biết thì hãy nói, mà đã nói thì phải nói cho rõ ràng gẫy gọn như hai với hai là bốn.
Ví dụ: muốn đem thuyết địa lý mà chứng cho việc tự sát, thì phải dẫn rõ: câu nào, đoạn nào sách nào, của ông nào đã nói; hay như dẫn chứng bằng học thuyết của Durkheim cũng vậy, phải chỉ rõ cho người ta biết cái câu hay, cái đoạn mình dùng làm chứng đó, nó như thế nào, ở tập nào. Làm vậy, không phải để quảng cáo cái sức học của mình đâu, cốt để cho người nào chưa biết những cái mình dẫn ra đổ, có thể biết chỗ tìm kiếm, hoặc để khảo cứu thêm, hoặc để xem rằng mình nói có đúng hay không.
Đằng này tác giả chỉ nêu lên mấy chữ “thuyết địa lý”, “xã hội học Durkheim” rồi phán đoán rằng: “cái chết cũng có ý vị như cái sống”, “hồ Gươm, hồ Trúc Bạch có sức mạnh vô hình” thì người đọc còn biết đường nào mà mò? Biết rằng sách địa lý có nói “cái chết cần có ý vị như cái sống” không? Biết rằng Durkheim có nói “hồ Gươm, hồ Trúc Bạch có sức mạnh vô hình hay không? Trừ phi lại đi đọc hết các sách địa lý, xem hết học thuyết của Durkheim thì không thể nào mà dò được những câu phán đoán kia là sai hay đúng.
Mà độc giả đã không có thể biết được sai hay đúng, thì tác giả viết sao, độc giả phải tin vậy. Như vậy, thì tôi chỉ học vài chục tên người, hoặc tên học thuyết là tha hồ nói trời nói đất. Giả sử tôi bảo “theo học thuyết của Phật Thích Ca thì lừa đảo là một việc cứu độ chúng sinh, theo học thuyết của Khng Tử thì chim chuột là sự hợp với đạo đức” người đọc nếu không hiểu đạo Phật, đạo Khổng còn biết đâu là tôi nói láo?
Cái li văn y, cái lối văn chỉ nêu mấy cái tên người, tên sách tên học thuyết để lòe người đó, tôi gọi là lối văn “bịp”. Bịp, vì mình không học mà làm bộ có học.
Bịp với ăn gian cùng là một môn, Đông phương không dám ăn gian độc giả thì Đ.P không thích lối văn “bịp”.

Thục Điểu
Đông phương, số 467, 1931

92. Còn hôm nay nữa thì xong cái việc mọi ngày
Từ hôm bắt đầu nói về lối văn ông Hoàng Tích Chu đến nay, tôi lú ruột, không nhbao nhiêu ngày, nhưng có lẽ đã đầy “cữ ri thì phải.
Đầy cữ rồi mà việc vẫn chưa đâu vào đâu, cho hay lối văn của Hoàng me xừ cũng nhiều cái đặc điểm thật.
Dù vậy mặc lòng, tôi cũng xin phép độc giả, nói một ngày nay nữa thôi, rồi hãy tạm nghỉ. Tạm nghỉ chứ không phải nghỉ đứt.
Cái kiệt tác của ông Chu mà tôi mượn làm tài liệu để giải cái cớ tại sao Đông phương không để những bài lai cảo viết bằng lối văn “Hoàng xừ” vào tập lai cảo, nó còn dài lắm, nếu cứ theo kiểu mọi ngày, mà nói tỉ mỉ từng , thì e không hết. Vậy hôm nay tôi nói theo cách cóc nhảy cho chóng. Nói cóc nhảy nghĩa là nói một quãng lại bỏ một quãng, bỏ một quãng lại nói một quãng, như con cóc nó nhảy vậy.
Trong bài này, chỗ gần cuối cột đầu có một câu: “người ta vừa dập xong mối dư luận”, chữ dập đó bt thông. Bởi vì dư luận không thể dập được... tiếng “mối” chỉ là đầu một vật dài như sợi chỉ chẳng hạn, ai dập được đầu sợi chỉ bao giờ?
Dưới nữa có câu chỉ cách nhau bẩy tiếng” chữ tiếng đó tác giả muốn nói là giờ đồng h, nhưng chữ quc ngữ, giờ đồng hồ mà gọi là tiếng thì cũng chưa lọn nghĩa.
Sang ct thứ hai có câu Mà đối với nạn tự sát các nhà triết học thì viết sách khuyên đời, các nhà chính trị thì lập “công an cục”. Ba chữ “công an cục” đó cũng bất thông. Công an cục tiếng Pháp là Sureté, ta gọi là Sở Mật thám. Cứ như văn lý câu này thì ra ở các nước khi thy có nạn tự sát người ta mới lập ra Sở Mật thám hay sao! Có lẽ tác giả không hiểu nghĩa công an cục là gì, cho nên đặt tính đặt hình như vậy.
Qua trang nhì cột hai của bài ấy, có câu: Ta thấy rằng xã hội là tấm gương chói lọi chn ngay tầm măt người đời”. Bốn chữ tấm gương chói lọi cũng bất thông (hai chữ xã hội nguyên từ sách Nhị Trình toàn thư câu “Hướng dẫn xã hội...”. Gần đây người Nhật mới mượn để dịch chữ Society trong tiếng Anh, rồi sau người Tàu cũng dùng theo, người Việt Nam lại dùng theo nữa). Theo đúng nghĩa của nó thì xã hội là một đoàn thể do nhiều người kết hợp mà thành ra. Nghĩa chính thì như vậy, nhưng thông thường người ta dùng nó theo từng trường hợp. Có khi nói xã hội là chỉ về đoàn thể của người chung một xứ sở như người ta nói: xã hội Paris, xã hội Nữu ước, có khi nói xã hội là chỉ về đoàn thể của những người chung một chức nghiệp, như người ta nói: xã hội chính trị, xã hội lao động; có khi nói xã hội để đối với cá nhân như người ta nói: ai ai cũng nên hết sức với xã hội.
Coi vậy, thì xã hội là một đoàn thể hoặc to hoặc nhỏ. Các đoàn thể ấy hay d không nhất định..., thế thì tại sao lại võ đoán rằng xã hội là “tấm gương chói lọi”.
Thôi, nói đến đây đã dài rồi, bài kia còn chỗ bất thông nào nữa xin để trả lại tác giả.
Chỗ này tôi phải xin lỗi độc giả một câu: Từ trước đến nay, tôi chỉ phê bình về lối văn mà chưa từng nói đến ý nên điều đó cũng sợ trái nhất, nhưng trong một bài mà lời văn đã bất thông đến thế, thì ý văn tưởng cũng chẳng cần phải nói.
Đọc hết những bài phê bình chắc độc giả cũng lượng cho rằng: Đông phương không đưa những bài lai cảo viết theo lối văn Hoàng xừ, không phải là nghiêm ngặt chi hết.

Thục Điểu
Đông phương, số 470, 1931

106. Ông Hoàng Tích Chu đâm khùng
Nếu vì việc cá nhân mà Thục Điểu với Hoàng Tích Chu tranh biện thì cuộc tranh biện chỉ là việc riêng của Thục Điểu với Hoàng Tích Chu. Người thứ ba Bút Thép chẳng hạn, không có quyền, hay nói cho đúng, chẳng hơi đâu mà can thiệp đến. Nhưng Thục Điểu công kích Hoàng Tích Chu là công kích về văn: lối văn Hoàng Tích Chu.
Đã là một lối văn thì hay dở đều có ảnh hưởng đến văn giới tức là đến tương lai của xã hội. Một người đọc, nghe theo tiếng gọi cùa quyền lợi, như ý muốn hay bất đắc dĩ, phải đứng làm kẻ trọng tài. Không lẽ ngồi làm thinh ở trước một cuộc tranh luận nó đã sắp đến thời kỳ “câu chuyện việc làng”. Tôi vì bất đắc dĩ hơn là theo ý muốn phải mang ngòi bút để xen vào giữa đôi câu viết của Hoàng Tích Chu và Thục Điểu.
Trong luôn mấy kỳ báo Đông phương, ông Thục Điểu bình phẩm lối văn ông Hoàng Tích Chu, nói văn ông Hoàng Tích Chu chỉ kêu mà vô nghĩa. Muốn cho lời nói có bằng cứ, ông Thục Điểu trích nguyên một bài văn cùa ông Chu và chỉ rõ những chỗ ông Chu viết chẳng thành câu và những câu ông Chu viết không có nghĩa. Ông Thục Điểu nói phải hay quấy các độc giả cũng là người đứng trọng tài như tôi đều đã có định kiến riêng, tôi bất tất phải biện bạch cho ông Thục Điểu vì ông Thục Điểu không cần ai biện bạch giúp.
Cũng như các độc giả, tôi chờ, chờ ông Hoàng Tích Chu - nếu ông còn có chỗ nói - mang biện bạch cho lối văn ông trên mặt báo Đông Tây để phá đổ cái lý thuyết của ông Thục Điểu.
Ông Chu có làm thực.
Dưới cái đầu đề “Một dịp cho tôi nói đến lối văn Hoàng Tích Chu" ông chủ nhiệm báo Đông Tây đã kéo bốn bài mà chưa biết còn mấy bài nữa sẽ ra tiếp. Thoạt nom cái đầu đ, ai cũng tưởng ông Chu đã xây một lớp cho móng vững chãi để chống đỡ lấy lối văn của ông và lấy lời nói để giải ra rằng văn của ông viết là... phải. Nhưng... trong ba bài rưỡi, ông Chu kể toàn những chuyện “dạng ra bà cụ”[2], nào văn quốc ngữ có tự bao giờ, nào văn ông Vĩnh bê tha, văn ông Quỳnh dùng nhiều chữ Hán nên bệ vệ. Nói tóm lại, ông Chu nói thuần những ý người ta đã nói ri và không dính dớp gì đến cái lối văn vô nghĩa và chẳng thành câu tức lối văn Hoàng Tích Chu mà ông Thục Điểu công kích.
Sau hết đến cuối bài thứ tư ông Chu nói sát vào lối văn của ông. Muốn cho lời nói có “sức”, ông Chu viện mấy ông Pierre Betrand, Clément Vantel và De la Fouchardière là những nhà báo trứ danh vào làm thầy (xin ch lầm với chữ làm chứng). Cứ như ý ông Chu nói thì văn ông viết bây giờ là bắt chước ba nhà làm báo vừa nói đó. Phải, văn ông Pierre Betrand ông Clément Vantel và ông De La Fouchardière, câu viết vắn tắt và lời nói gọn gàng. Tôi và ngay cả ông Thục Điểu nữa cũng không nói viết thế là dở. Nhưng ông Chu có lẽ quên chưa nhận rằng ông bắt chước ba nhà làm báo trên, nhưng còn ở cách xa ba ông nhiều quá. Nếu ông Chu quả quyết nói văn các ông p. Betrand, c. Vantel và De La Fouchardière viết giống hệt văn ông Chu bây giờ, nghĩa là trong cái gọn gàng vắn tăt cũng có những câu vô nghĩa bất thông, thì thực ông Chu khen các ông mà hóa ra bôi nhọ các ông vậy.

Bút Thép
Đông phương, số 486, 1931

107. Thử bắt chước kiểu văn Hoàng xừ viết một bài kỷ thuật nạ ô tô chồng

Lấy con gái vua Động Đình ông Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng dựng nên nước Nam, và sinh vua Lạc Long.
Nối nghiệp cha vua Lạc Long kết duyên với bà Âu Cơ, sinh một trăm con, nửa trai nửa gái.
Năm mươi con trai về núi theo cha. Vì năm chục con giai về biển theo mẹ. Người cả kế ngôi vua gọi là Hùng Vương. Rồi sau mười tám đời nữa đều gọi là Hùng Vương cả.
Đóng đô ở Thành trôn ốc, ông Phán họ Thục gọi là An Dương Vương lập nước Văn Lang của họ Hồng Bàng.
Con gái phản cha, nước Thục mất về họ Triệu. Lã Gia chống nhau với nhà Hán, nước ta phải làm thuộc địa của nước Tàu. Đều thất bại, bà Trưng, bà Triệu, vua Phùng, vua Mai, trước sau một lũ nữ kiệt anh hùng nổi lên đánh Tàu (sic).
Nhà sử thần theo ký tái (ghi chép lại) của Lê Văn Hưu, (!) thì sau những đời Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, vua Quyền họ Ngô đóng đô ở Phong Khê và đánh được nhà Nam Hán (!).
Dẹp mười hai sứ quân Tiên Hoàng nhà Đinh yên được nưđc Nam. Ngọn cờ lau phất nên  nền độc lập.
Khoác tấm áo rồng vàng (!) mụ Dương hậu chẳng thương con mà thương trai, thì vua Đại Hành làm vua nhà Tiền Lê.
Con nuôi nhà sư, ông Lý Công uẩn tòng nhà Tiền Lê mà có nước. Hoa sen n được tám cánh, chậu nước Chiêu Hoàng vẩy cho Trần Thái Tôn (!)
Bị bắt về bên Minh, cha con Quý Ly cướp nước của họ Trần mà không giữ được.
Múa gươm thần ở núi Lam cụ Lê Lợi bình Ngô, đại cáo dân nước.
Ra tay dấy nước vua Gia Long định vạc kinh Phú Xuân. Vì nhà Tây Sơn đã đuổi họ Trịnh mà làm vua.
Chẳng nghe lời ông Nguyễn Trường Tộ vua Tự Đức đóng cửa cài then gây nên cuộc bảo hộ.
Gần trăm năm, văn minh nưổc Pháp, tràn đất Việt Nam, chính phủ đem các kỹ nghệ sang ta, ngoài các máy móc, xe lửa và xe hơi đều tiện dụng cho người mình, giống Việt Nam, quê hương vua Kinh Dương, rể vua Động Đình, cái nỏ lớn của nước Tàu.
Đè người ít, xe lửa chạy đường sắt, người dễ tránh. Bánh nhựa quay tít trên đường nhựa, người khó tránh, xe hơi đè người nhiều.
Thì chiều hôm qua, bon bon trên con đường X. chiếc xe số A. đập đầu vào chiếc xe số B. sau một tiếng ình.
Máu luễ loại, tay gẫy nhừ, bác tài phải xe vào nhà thương, quan đốc tờ buộc thuốc, tính mệnh rất nguy.
*
* *
Coi bài này chắc độc giả không thể nào hiểu được đầu đề rõ là cái gì? Cái gì mà nói chuyện xe hơi lại nói mãi từ đời Hồng Bàng nói xuống?
Xin thưa, đó là tôi thủ bắt chước kiểu văn của Hoàng Tích Chu mà viết chơi bài kỷ thuật về nạn ô tô đó.
Theo kiểu văn của Hoàng xừ, vô luận bài nào đều có thể nói bắt đầu từ đi Hồng Bàng tất cả. Chẳng tin các ngài lục những bài “Có dịp cho tôi nói về lối văn Hoàng Tích Chu" mà xem.
Cái đầu đề ấy, Hoàng xừ viết đến năm bài rồi. Bài thứ nhất một cột, rao rằng nay mai sẽ nói về lối văn của mình. Với đầu đề chưa ăn thua gì hết. Bài thứ hai độ hai cột kể từ lúc chữ quốc ngữ được dùng vào báo chí, lôi từ Đại Việt công báo, Đại Nam đồng văn lôi xuống, rồi vơ sang văn ông Quỳnh, ông Vĩnh. Với đầu đề cũng chẳng ăn thua gì. Bài thứ ba lại hai cột vẫn giảng về văn ông Quỳnh ông Vĩnh, những là văn ông này thế này, văn ông kia thế kia. Với đầu đề cũng vẫn chửa ăn thua gì.
Bài thứ tư chép lại đoạn lịch sử của mình sang Pháp, và giở ra những ông Pieưe Bertrand, Clement Vantel, Fouchardiere, cuối bài mổi ló ra hai quyển sách của mình, chỗ đó mới dính đến đầu đề một chút. Bài thứ năm ba cột dở dang, khoe cái văn minh hay mà chẳng nói được cái hay nó thế nào.
Độc giả thử đem thể văn những bài ấy mà so với bài tôi kỷ thuật nạn ô tô trên kia có khác gì không. Thật không khác. Cái lối văn ây nó là lối kể con cà con kê, nó là lối văn hỏi gà nói vịt.
Thật thế! Cái đầu là “Có dịp nói đến lối văn Hoàng Tích Chu", làm sao lại kể cả tam đại của báo quốc ngữ? Làm sao lại lôi cả văn ông Quỳnh và văn ông Vĩnh vào đó? Như vậy có khác gì thuật nạn ô tô mà giở mãi lịch sử từ cuộc Bảo hộ đến đời Hồng Bàng?
Cứ như những người biết viết, có học, thì với cái đầu đề ấy, một bài thứ năm đã nhiều chỗ thừa rồi (nếu có thì giờ tôi sẽ phê bình bài này) các bài trên đều không chui vào cái đầu đề ấy được.
Đầu đề một đằng, bài viết một nẻo, cái lối văn mới hay không mới? Mới lắm! Những hạng văn sĩ viết văn như vậy, làm văn sĩ thì được, chớ làm thợ vẽ thì không được. Vì có khi người ta thuê họ vẽ cọp họ lại vẽ ra con chó cũng nên. Thuê vẽ cọp lại vẽ chó, đâu có phải là thợ vẽ?

Thục Điểu
Đông phương, số 488, 1931

108. Buồn cười cho óc ông này
Bức thư còn đây, cái câu bênh vực Hoàng Xừ hắn viết như vầy:
“Còn như bài mà anh phê bình lối văn Hoàng Tích Chu, ta cũng phục là đúng lắm. Nhưng... cái lối văn cộc đẻ ra từ mấy năm nay mà sao chẳng thấy báo nào công kích bình phẩm... ? Bình phẩm văn cộc là tự anh gây ra, nên những thằng V.C. và T.V. cũng a dua...”
Lạ chưa? Không hiểu bộ óc của người này nặn bằng chất gì mà kỳ quái như thế? Đã biết người ta công kích văn của Hoàng Xừ là đúng, mà lại còn bảo người ta a dua, mà lại còn hỏi làm sao từ xưa không thấy báo nào bình phẩm, óc đâu có óc ngu vậy?
Thảo nào cánh bịp họ cứ nhè những người này mà lợi dụng.
Ta thấy kẻ “quých” cứ đem tiền mà nhét vào túi bọn thầy tướng thầy số, hay cứ đem thân mà dâng cho lũ mẹ mìn, thì ta cũng cho là ngu, song, còn có thể thứ được, vì họ bị “bịp” mà không ai giảng cho họ biết. Đằng này mắt hắn tuy chẳng nhìn thấy, thì đã có người vạch cho hắn rõ ràng, hắn đã biết là “đúng” rồi, thế mà vẫn cứ bị bịp! Đến Bụt cũng không nín cười được.
Chẳng biết anh chàng này có phải là con hương đệ tử của ông Chu hay không, sao mà hắn mê tín đến thế?
Cũng may mà hắn thóa mạ Thục Điểu, chớ nếu hắn tán dương Thục Điểu, thì thật nhục cho nó lắm.
Đó là hạng người hoan nghênh văn của Hoàng Xừ.

Thục Điểu
Đông phương, số 489, 1931

109. Ông Hoàng Tích Chu lại phô thêm máy cái dốt
Con giun dẫm mãi cũng quằn, huống chi con người, tôi biết vậy. Ông Chu là người chớ chẳng phải là giun, dẫm mãi tất nhiên ổng cũng phải hơn giun, tôi cũng biết vậy.
Biết vậy mà tôi còn bình phẩm mãi mãi về văn của ông Chu, ấy là vì có hai mục đích, tôi đã nói trước, một là muốn tỏ rõ cái cớ tại sao Đông phương không ưa lối văn Hoàng xừ, hai là muốn cho vườn quốc văn khỏi có hoa rờm cỏ rác. Sau nữa cũng muốn coi chơi cái “quẫn” của ông Chu nó như thế nào. Vì thế mà tôi cố ý chọc cho ông Chu giương hết cái năng lực của mình ra.
Lấy hơi hơn ba tuần lễ, ông Chu chỉ cựa cậy được mấy cái.
Cái cựa thứ nhất phì ra được một mdây cà ra dây muống, ấy là những bài “Có dịp cho tôi nói về lối văn Hoàng Tích Chu ” mà tôi mới bắt chước giọng viết bài kỷ thuật nạn xe hơi hôm nọ.
Cái cựa thứ hai phun ra một mớ nọc độc hơi rợ, ấy là những bài thóa mạ Thục Điểu đăng lên ở báo vô lại.
Cái cựa thứ ba lòi ra một đống chổi cùn dế rách, ấy là những bài nói cục nói cằn, nói láo nói xỏ ở mục “chuyện đâu” của báo ổng mà ký tên là Văn Tôi.
Mỗi lần cựa thì ổng mỗi nói tháo, nào là bảo tôi “hãy thư”, nào là la rằng “xin phép kiếu tôi”.
Thật là ông đã dùng hết phương pháp để làm cho tôi thôi cuộc phê bình văn ông. Tôi đã chẳng là người từ bi, vọng thể, nhưng giọng khất ai kia cũng phải động lòng thương xót. Chết là vì cái mục đích của tôi là muốn xem cái quẫn của ông, ông chưa quẫn, thì tôi phải làm cho ông quẫn đi cái đã.
Sướng cho tôi quá, hôm kia ông đã quẫn rồi. Chẳng biết ông quay lưỡi mấy trăm vòng mà lấp quẫn thì ông lại ra được bài “Cớ nên vạch cho Đông phương mấy điều lầm trong cuộc bẻ vân”.
Bài này cãi lại mấy chỗ tôi phê bình văn ông trong mục “Nói chơi” độ trước hay nói cho đúng, cốt xóa cái đống dốt của ông mà tờ Đông phương đã nêu ra đó.
Chắc chẳng ai nhớ làm gì, cái đống dốt của ông mà tờ Đông phương đã nêu ra đó, vừa do tôi vừa do ông Trung Trung Tử ở Sài Gòn cộng có hơn hai mươi cục (xin tạm gọi là cục). Ấy là mới trong có một bài “hai cô thiếu nữ trẫm mình”! Mà lại còn nhiều chỗ dốt nữa chưa buồn nói đến.
Hơn hai mươi chỗ mà ông mới cãi lại - cãi lại bằng cách gỡ ngọng - được sáu chỗ:
Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch như chỉ riêng là..., vì...
Nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó...
Ngọn hồn
Dập mối dư luận
Cách nhau bẩy tiếng
Xã hội là tấm gương
B bẻ hơn hai chục chỗ mà cãi lại chỉ được sáu chỗ, coi đó đã thây cái sức quân của ông Chu.
Tuy vậy ông chẳng chịu là dốt, lại thêm một câu rằng: “Trong báo Đông phương còn nhiều chỗ bẻ nữa, nhưng xét ra có đều vô lý”.
Khốn nạn cái giọng ấy, cái giọng cãi lại bằng cách ăn gian ấy, bây giờ đã cố lm rồi, đem dùng chỉ tổ lòi cái dốt cùa mình ra thôi, chẳng che được nó đi đâu, sao cứ dùng mãi?
Khốn nạn hơn nữa, là, trong cái chỗ cãi lại của ông chẳng ăn thua vào đâu, chăng nhng nó không xóa được cái dốt trước đi, mà nó lại đưa thêm vào con mt tôi bao nhiêu cái dốt khác nữa. Tội nghiệp, ông thật như con tằm chín tự làm kén để trói mình.
Bài này dài rồi, những chỗ dốt trong văn của ông để sau đây tôi sẽ chỉ rõ nó ra...

Thục Điểu
Đông phương, số 490, 1931


[1] Dấu phảy
[2] Dạng da bà cụ: dạng là sức khoẻ; dạng da là ý hỏi thăm sức khoẻ. “Chuyện dạng da bà cụ” là chuyện cửa miệng, thốt ra luôn, không nhằm vào mục đích gì (?).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét