Khiemnguyen

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013

Báo giới và văn học quốc ngữ (phần 2)



BÁO GIỚI VÀ VĂN HỌC QUỐC NGỮ (phần 2)
(Thiếu Sơn - Bài diễn thuyết đọc ở Hội Nam kỳ Khuyến học
Sài Gòn ngày 19 Juillet 1933)
Tới đây tôi có một điều muốn hỏi các ngài nên nhận kỹ cùng tôi là ở các nước văn minh tân tiến thì văn học đều có trước báo chí, mà ở nước ta thì chính lại nhờ báo chí xây dựng nền văn học.
Những nhà trứ thuật ở nước ta nếu không xuất thân báo giới, thì cũng luyện tập cây viết một vài cơ quan ngôn luận, hoặc đã chịu ảnh hưởng về văn thể của báo chí quốc văn.
Tiếp theo với những tạp chí tân văn ta đã thấy lần lần có những thư quán, tùng thư, thư xã, văn xã, xuất bản nhiều sách, lắm quyển cũng có giá trị hẳn hoi. Tỷ như Tân dân thư quán của ông Vũ Đình Long, phần nhiều xuất bản tiểu thuyết. Tn Đà thư cục xuất bổn văn thơ của ông Nguyễn Khắc Hiếu. Cổ kim thư xãViệt văn thư xã của các ông Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, chuyên phát dương cái tinh hoa cổ học và sưu tập những tục ngữ phong dao cũng như thơ văn cổ.
Ông Phạm Quỳnh cũng có cái Nam Phong tùng thư đ xuất bản những bài khảo cứu có giá trị của ông đã đăng Nam Phong.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh cũng có cái Âu Tây tư tưởng để xuất bản nhng công trình cổ điển phiên dịch văn học Pháp.
Song cũng biết bao nhiêu các nhà văn sĩ không có tùng thư văn xã gì ráo mà cũng có được lắm công trình rất có giá trị về tư tưởng văn chương (72).
Tuy nhiên, cái phong trào quốc văn đó mới chỉ là ở ngoài Bắc mà thôi, hồi đầu chưa có ảnh hưởng mấy tới văn giới Nam kỳ.
Cùng thời kỳ đó, Nam kỳ chịu ba cái ảnh hưởng:
- Ảnh hưởng ở tiểu thuyết Tàu;
- Ảnh hưởng tiểu thuyết Tây ;
- Ảnh hưởng ở cái sự nghiệp văn chương của ông Paulus Của và của tiên hiền Trương Vĩnh Ký.
Sau khi văn quốc ng đã thy dùng đến trong dân gian thì các nhà nho cũ đua nhau dùng nó mà dịch các tiểu thuyết Tầu như: Phong Thn, Thủy Hử, Chinh Đông, Chinh Tây, v.v...
Lần lần Tây học ngày một thâm nhập một sâu, tiểu thuyết Tây ngày một nhiều người ham học, thì ta lại thấy những tiểu thuyết như những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Phú Đức ra đời và được độc giả hoan nghênh lắm,
Song dầu là dịch ở truyện Tàu hay rút ý tiểu thuyết Tây mà cái ảnh hưởng về văn th vẫn phải chịu một phần lớn hai bộ tự vị Paulus Của và Trương Vĩnh Ký, nhờ đó mà văn chương Nam kỳ mi ít lầm lỗi hơn tiếng nói Nam kỳ, để dự bị sẵn mà tiếp đón cái phong trào quốc văn ở Bắc đưa vào.
Như trên tôi đã nói, cái phong trào đó, hồi đầu chưa có ảnh hưởng mấy tới Nam kỳ ta. Nhưng ln lần nh có báo chí đưa vào mà người Nam mới lưu ý đến văn Bắc (73).
Tới đây ta lại qui công cho tạp chí Nam Phong, vì trước tiên chính nó là cái cơ quan được người Nam kỳ đọc tới.
Tôi có mấy ông bạn nay đã có tên tuổi trên, văn đàn, những ông Đông H, Trúc Hà và Trọng Toán. Mấy ông này phải kể là tri k của Nam Phong trước nhất ở Nam kỳ. T hi Nam Phong xuất bản cho đến bât giờ không một số báo nào là các ông không đọc rất kng chăm chỉ, vì chính các ông đã nhận nó là một cáí cơ quan đ luyện tập quốc văn cho các ông.
Chẳng những thế, sau khi các ông đã sở đắc ở đó rồi, các ông còn dùng nó làm sách giáo khoa cho cái trí đức học, Trí đức học xá mà các ông đã lập ra Hà Tiên nữa.
Trí đức học xá là một i trưng tư thục chỉ chuyên dạy quốc văn, dạy tại chỗ cũng có, mục đích của các ông là muốn hưởng ứng theo phong trào quốc văn ở ngoai Bắc, mà cổ động cho người biết yêu mến chữ quốc ng trong khi tập cho người ta biết dùng nó mà làm việc cho xã hội quốc gia.
Ông Đông Hồ mỗi khi biên thư cho tôí đều dùng một thứ giấy có in một cây bút lông, một quản bút gác xéo qua bốn chữ Trí Đức học xá, và một bài thơ kế bên rằng:
Ríu rít đàn chim kêu,
Cha truyền con nối theo,
Huống là tiếng mẹ đ,
Ta có lẽ không yêu
Phải, ông yêu tiếng mẹ đẻ, ông thương tiếng mẹ đẻ, ông coi nó là cái quốc tuý, ông nhận nó là cái quốc hồn, mà nghĩa vụ của ông là phải yêu mến thiết tha, thành tâm phụng sự lấy nó vậy (74).
Tuy nhiên, cái ảnh hưởng của văn học Bắc K đối vớiTrí đức học xã ở Ha Tiên thì là sâu xa thăm thẳm chứ đối với văn giới Nam kỳ vẫn chưa thm thía vào đâu.
Ta còn phải chờ một cái cơ hi đưa tới, cái cơ hội đó là cái phong trào quốc gia, hồi 1925 và năm 1926.
Cái án Phan Bội ChâuBắc, cái tang Phan Tây Hồ ở Nam chính là dịp cho báo chí quốc âm cả Nam ln Bắc đua nhau mà nói chuyện chính trị, lại cũng chính là dịp cho văn học chan chứa những tư tưng quốc gia, tràn đầy những chủ nghĩa cách mạng. Các báo ngoài Bắc đua nhau dịch văn Lương Khi Siêu, các báo trong Nam đua nhau viết văn đồng thời lại Nam đồng thư xã, Cường hc thư , N lưu thư quán v.v chuyên viết nhng sách đ cổ động dân tâm, tuyên truyền chủ nghĩa, được quốc dân hoan nghinh biết bao nhiêu.
Những dịp như dịp đó chính rt có ảnh hưởng đến sự thống nhất của văn học Việt Nam.
Hồi đó từ Nam chí Băc, quc dân đu nuôi chung một cái thị dục, là được nghe chuyện que sự cho đ thèm. Và đều ôm chung một cái hoài bão là sẽ có được cái tương lai vô cùng tốt đẹp.
Cái thị dục đó, báo gii đã làm chô nó được thỏa mãn. Và cái hoài bão đó văn giới đã có công xây dựng nên.
Trong thi kỳ ấy chẳng còn phân là báo Nam hay báo Bc, sách Bắc hay sách Nam, hễ báo nào nói nhiều chuyện đó là ham đọc, sách nào kể nhiều chuyện đó là tra coi.
Rồi lần lần thành quen mà sau khi thi cuộc đã qua rồi thi văn học đã hầu như hiệp nht mà hai làng báo Nam Bc cũng như muốn sáp nhập lại làm một mà kêu chung là báo giới Việt Nam (75).
Chẳng những tờ Thần chung được nhiều độc giả khắp ba kỳ, mà Phụ nữ tân văn buổi đu cũng có biết bao nhiêu tri âm khắp cùng trong nước.
Tờ Thần chung ta còn có th cho là chịu ảnh hưởng của thời cuộc. Chứ tờ Phụ nữ tân văn thì chỉ nhờ cái thể tài của văn chương mà thôi. Cái th tài đó là nhờ ở ngọn bút rắn rỏi ca ông Phan Khôi và sự chủ trương khôn ngoan của ông Đào Trinh Nhất.
Ông Phan Khôi là người Trung kỳ.
Ông Đào Trinh Nhất là người Bắc kỳ.
Mà hai ông nhập tịch vô đồng bào Nam kỳ đều có được cái địa vị vẻ vang và cái ảnh hưởng xa rộng.
Phải chăng bởi độc giả trong Nam đã quen coi văn Bắc, hoặc các ông này đã biết sửa theo giọng Nam?
Theo ý tôi thì hai lẽ, lẽ nào cũng có hết, mà lẽ dưới chính cũng có một cái giá trị ngang với trên.
Ông Phan Khôi có nói chuyện với tôi rằng ông vào trong này cả thẩy hai lần, lần đầu trợ bút ở Lục Tỉnh tân văn mà rồi phải ôm bút trở về, vì những điều ồng viết ra độc giả chẳng ai thèm hiểu tới.
Về nhà, ông còn luyện tập quốc văn thêm một độ nữa rồi vào chuyến thứ hai thì viết ra đã có người tri âm thưng thức.
Theo lẽ trên thì lần thứ nhất, độc giả Nam kỳ vì chưa quen đọc văn Trung Bắc mà không hiểu văn ông Khôi.
Theo lẽ dưới thì lần thứ hai ông Khôi đã chịu sửa theo giọng Nam mà được nhiều người hiểu biết (76).
Cùng với ông Phan Khôi và ông Đào Trinh Nhất, còn biết bao nhiêu các ông khác nửa, như những ông Bùi Thế Mỹ, Bút Trà, Hống Tiên, v.v... đều là những người ngoài vào đây mà đều là những tay kiện tướng trong làng báo quốc âm.
Chẳng những các ông đã có cái học thức tài ba đủ làm khởi sắc báo giới Nam kỳ mà các ông lại còn là những cái động lực cho sự thống nhất của văn chương Việt Nam.
Ông Phan Khôi đã bao lần la lớn lên rằng: không có văn Nam kỳ, mà cũng không có văn Bắc kỳ, chỉ có văn Việt Nam thôi.
Văn nào là văn Việt Nam?
Thưa chính là văn của các ông, tôi vừa kể trên đó.
Các ông là người ngoài vào đây, trước hết các ông phải hy sinh những thổ âm ở xứ sở các ông, rồi các ông cũng không dám dùng nhiều những thổ ngữ Nam kỳ, vì các ông phải chiu lòng hết thẩy độc giả mọi nơi, nơi chôn rau cắt rốn lẫn chỗ gánh vác việc đời.
Vì vậy mà văn báo gii Nam kỳ ta phải công nhận là đứng đắn và phổ thông hơn hết, vừa ít có những thổ ngữ, vừa ít sai những chữ thường dùng trong ngôn ngữ.
Mà cái sự viết trúng chữ này chẳng những đã có ảnh hưởng đến văn giới Nam kỳ mà thôi, lại còn ảnh hưởng đến cả văn giới và báo giới Bắc kỳ nửa. Chịu khó đọc kỹ các báo chí sách vở ngoài Bắc mới xuất bản gần đây, ta phải nhận thấy rằng đã đỡ lỗi nhiều lắm, về những chữ x hay chữ s, ch hay tr, g hay d, nh hay 1... là những chữ người Bắc hay lầm lộn luôn luôn (77).
Ngoài ra, báo giới Nam kỳ lại còn thêm được hai điều công dụng;
Một là cổ động cho sự hữu ái giữa đồng bào ba xứ;
Hai là giúp cho bạn thanh niên tân học một cái li khí để làm việc cho xã hội quốc gia.
Thưa các Ngài, nội trong các thính giả ngồi đây, tôi chắc cũng có một số đông các anh em Trung Bắc. Mà trong số các ông đó, tôi chắc cũng có nhiều người phàn nàn như tôi về cái óc phân chia giữa xã hội ta này.
Biết bao người Trung Bắc vào đây, vì ngôn ngữ bất đồng, hoặc vì lợi quyền tương phản, mà bị nhạo báng, khinh khi, hoặc bị thù hiềm ghen ghét,
Vẫn biết cái số người có óc phân rẽ đó là s ít. Song không phải ít quá không đủ cho ta lưu ý tới mà phải có sự phàn nàn.
May thay! sự đáng phàn nàn đó, báo giới đã có công sửa chữa, mà cái s ít người khó chịu đó, đã chịu cái ảnh hưửng của báo giới mà càng ngày càng ít đi mãi.
Những bài nói chuyện về lịch sử cho ta biết được cái cội rễ chung của chúng ta; những bài nói chuyện về thời thế, cho ta biết được cái cnh ngộ chung của chúng ta; những bài nói chuyện về mọi nỗi thiên tai thuỷ lạo, khiến ta phải thương tâm vi đồng bào nòi giống; những cuộc nghĩa quyên để chẩn tế xã hội, bắt ta phải đem lòng công đức mà giúp đỡ vào những nạn nước, nạn dân... nhất thiết đều có ảnh hưởng đến tâm hn tình cảm của ta, nhất thiết đều như xúi ta, biểu ta phải bỏ hết mọi cái tiểu lợi hư danh, mọi mối tư tình tư dục, mà cùng nhau thờ chung một cái lý tưởng thâm thiết, nuôi chung một cái nguyện vng cao xa.
Cái lý tưởng thâm thiết đó, phải chăng là cái lý tưởng quốc gia? Cái nguyện vọng cao xa đó, phải chăng là đối với sự tiến hoá của nhân quần xã hội? (78)
Cáí ảnh hưng của báo giới đối vi quần chúng, nó mạnh mẽ sâu xa như thế, lẽ nào những bậc tri thức trong nước không biết li đ thi thố cái tài ba học vấn ca mình?
Bi vậy cho nên gn đây, biết bao nhiêu các bạn thanh nn tân học, đua nhau luyện tập quốc văn để viết sách, làm báo, ngõ hầu c đem những cái sở trí s thức mà truyền bá cho độc gi đồng bào.
Chng nói chi nhng người như ônn Diệp Văn K, ông Cao Văn Chánh, là những người đã sẵn có cây viết quốc văn trước khi xuất dương du học, về nước ngày nào là có thể dùng nó làm việc ngày nấy.
Còn biết bao nhiêu các ông khác, xưa rày chỉ quen viết văn Tây, nay cũng trở lại mài cây viết quốc văn mà len vào làng báo quốc ngữ.
dụ: ông Nguyễn Phan Long Đuốc nhà Nam, ông Trương Vĩnh Tông Tân á, ông Nguyễn Văn Nhá, ông Nguyễn Văn Nho ở Đồng Naì tạp chí. Lại ví dụ ông Nguyễn Văn Tạo, ông Nguyễn An Ninh ở Trung Lập, vừa mới khuất dạng gần đây.
Như vậy là chữ quốc ngữ đã thắng được ch Tây, cũng như trước kia chữ nôm đã được ông cha ta dùng thế cho chữ Tàu vậy. Song chữ nôm thì tới thế kỷ thứ 13 mới được Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố dùng đến, và phải những ba bốn thế kỷ về sau mới thiệt là đắc dụng.
Còn ch quốc ngữ của ta bây giờ, chỉ mới trong vòng 20 năm nay mà đã mau có được cái địa vị vẻ vang vô cùng (79). Nó không còn là thứ ch riêng cho mấy bác văn sĩ thất học, mấy ông đ nho lỡ thời, mà nó đã được các ông tây học đứng đn sủng ái và cần dùng tới nó vậy.
Thế là quốc ng đc thắng! Mà sự đắc thắng này, không những ta thấy ở báo giới Nam kỳ mà thôi. C báo giới Bắc kỳ cũng thy bày ra cái hiện tượng kh quan đó na.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét