Khiemnguyen

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Tản Đà và sự hình thành loại hình ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời



“Đọc Tản Đà, ta thấy ông hiện lên mồn một trước hết không chỉ là một nhà thơ mà ông còn là hay chính là một nhà báo đầy bản lĩnh và tâm huyết, một nhà văn xuôi sắc sảo, một cây bút viễn tưởng tài hoa, một nhà biên khảo tận tụy và thận trọng” [51, 26, tập 1]
Nhận định trên của nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã tổng kết Tản Đà với
rất nhiều tư cách khác nhau: nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà biên khảo…Tuy nhiên, xưa nay, người ta vốn chỉ nhắc nhiều tới Tản Đà với vai trò của nhà thơ, nhà văn, đề cao ông là thi sỹ mở đầu cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Còn một Tản Đà - nhà báo thì có phần ít được nhắc tới hoặc chưa đánh giá
đúng mức vai trò của báo chí trong sự nghiệp của Tản Đà. Trên thực tế, có
nhìn nhận sự nghiệp sáng tác của Tản Đà một cách đầy đủ và thấu đáo mới
hiểu được những nỗ lực và tâm huyết của Tản Đà dành cho báo chí - cụ thể và
điển hình nhất là An Nam tạp chí - nơi ông gửi gắm tâm huyết của cả cuộc đời
mình
. Không ngẫu nhiên mà An Nam tạp chí đình bản rồi lại tải bản tới 6 lần
và mỗi lần tái bản, ông lại có một bài cảm tác, thể hiện niềm tin và hi vọng
vào sứ mệnh của tờ báo.
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Tản Đà là người đầu tiên đưa ra quan
niệm “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”, tức coi viết văn, làm báo như một
nghề (theo cái nghĩa là một công việc để người ta có thể làm và nhờ đó mà
tồn tại) - điều này chưa từng xảy ra ở xã hội Việt Nam trước đó
. Ông hăm hở
bước vào địa hạt báo chí với biết bao dự định cách tân, đổi mới. Nhiều bài
báo của ông có tính thời sự cao và mang đậm hơi thở của cuộc sống - hai đặc
điểm quan trọng và không thể thiếu của báo chí
. Đặt sự nghiệp làm báo của
Tản Đà trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mới nhận thấy hết những nỗ lực của
một nhà Nho trong việc dùng báo chí để tự khẳng định mình, hay nói cách khác là dùng việc viết văn, làm báo để xác lập vị trí của mình một cách đường
hoàng, đĩnh đạc. Với hành động đó, Tản Đà đã mạnh bạo và dũng cảm chứng
minh một cách hùng hồn rằng: văn chương không phải chỉ để ngâm ngợi cho
khuây hay “mua vui cũng được một vài trống canh” như trong quan niệm của
các nhà Nho xưa mà còn có thể là một “công cụ” để kiếm sống
. Người ta có
thể dựa vào nó để đường hoàng nhận những phần nhuận bút (từ những bài báo
hay những cuốn sách được xuất bản). Trước đây, các nhà Nho dù là những
quan lại hay thầy đồ, ẩn sĩ thì cũng thường chỉ tìm đến với văn chương như
một cách để giải khuây hay bày tỏ nỗi lòng, chứ ít ai coi đó là một cách để
kiếm sống
. Văn chương và cuộc sống vì thế, bỗng trở thành hai phạm trù
riêng biệt và khó lòng hòa hợp. Người ta coi văn chương là cái gì đó tách biệt
hẳn và vượt ra những bon chen của cuộc sống thường nhật, bởi thế, nó chỉ có
thể là những gì thuộc về đời sống tinh thần chứ không thể gắn với gánh nặng
áo cơm, với những lo toan vật chất bộn bề. Bởi thế, hành động “đem văn
chương đi bán phố phường” hay “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” mang
vẻ ngoài của một sự ngông nghênh, bất cần và dường như khác người ấy thực
chất đã chứa đựng trong nó mầm mống của một quan niệm hoàn toàn mới mẻ
so với truyền thống. Hay nói cách khác, chính là một sự phá rào, vượt ra khỏi
những quan niệm thông thường lúc bấy giờ để tạo tiền đề cho sự hình thành
một xu hướng tất yếu: viết văn, làm báo theo hướng chuyên nghiệp, cũng
đồng nghĩa với việc hình thành một đội ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp
.
Khái niệm “chuyên nghiệp” ở đây không phải chỉ là một sự thể hiện về trình
độ mà còn là cách thức, là tuân theo sự vận động của cơ chế thị trường với
những ngặt nghèo và quy luật cạnh tranh tất yếu. Lẽ dĩ nhiên, đã là sáng tác
để đi bán thì không thể không nói tới vai trò của người mua, ở đây chính là
đội ngũ độc giả đông đảo thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Từ đây hình thành
một mối liên hệ chặt chẽ giữa người sáng tác và người tiếp nhận, tức độc giả. Điều này trong sáng tác của các nhà Nho trước đó có lẽ ít được quan tâm tới

bởi người ta chỉ quan niệm văn chương như một cách để bày tỏ nỗi lòng
mình, đâu cần nghĩ đến người tiếp nhận nó sẽ như thế nào.
Trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản
Đà là một tác giả có vị trí đặc biệt. Trong bài Công của thi sỹ Tản Đà, Xuân
Diệu đã viết: “Tản Đà là người thi sỹ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện
đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sỹ, đã làm thi sỹ một
cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái Tôi”[9,166].
Và từ xưa đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tản Đà như một dấu nối
giữa hai hệ hình văn học, giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại.
Nhưng độc đáo hơn hết, vẫn là một Tản Đà với những quan niệm và phong
cách sáng tác đặc biệt, mới mẻ: “Đem văn chương đi bán phố phường” hay
“Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”. Những tuyên ngôn dường như “gây
sốc” trong giới sáng tác thời bấy giờ không đơn thuần chỉ là biểu hiện của cái
Tôi ngông, sự đề cao vai trò của bản ngã cá nhân, mà chính là sự báo hiệu sự
xuất hiện một xu hướng mới, một loại hình tác giả mới với những quan niệm
sáng tác mới - loại hình ký giả, văn nhân chuyên nghiệp. Và đó cũng là xu thế
tất yếu trong quy luật vận động, phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam
giai đoạn giao thời
.
Là một người đảm lĩnh vai trò đặc biệt đó, Tản Đà, chắc hẳn có những
cách tân, phá rào, nhưng cũng có những giới hạn và hạn chế nhất định với vai
trò là “gạch nối văn chương” - người đặt ra những nền móng cơ bản với vai
trò là tiền đề, là bước đệm ban đầu cho quá trình hình thành và phát triển của
văn học Việt Nam hiện đại sau này.
Trong bối cảnh xã hội - lịch sử Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản Đà với những đóng góp và công lao to lớn trong vai trò người đi tiên phong, mở đường cho sự hình thành loại hình ký giả, văn nhân chuyên nghiệp. Vai trò mở đường ở đây, bao gồm cả những đổi mới, cách tân, và cả những giới hạn mang tính đặc định của lịch sử trong quá trình phát triển tất yếu của văn học, báo chí. Việc giải thích lý do vì sao Tản Đà thất bại với giấc mộng báo chí của mình chính là cách để làm nổi bật những đặc điểm của lịch sử, văn hóa, văn học và báo chí giai đoạn giao thời 30 năm đầu thế kỷ 20, đồng thời cũng để hiểu được tại sao Tản Đà có thể ghi dấu ấn đậm nét của mình trong giai đoạn lịch sử đầy hụt hẫng và biến động ấy.
Việc nhìn nhận Tản Đà với tư cách là ký giả - văn nhân là một vấn đề đã
được một số nhà nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận
xét mang tính đơn lẻ, nằm trong một hệ thống những nghiên cứu trên những
bình diện khác về cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà. Chưa có một công trình
riêng biệt nào dành riêng cho việc nghiên cứu Tản Đà với vai trò là nhà báo,
nhà văn chuyên nghiệp, mặc dù hầu hết đều công nhận ông là người tiên
phong, mở đường cho quan niệm “mang văn chương đi bán phố phường”. Vai
trò ký giả của Tản Đà vì thế chưa được đánh giá đúng với ý nghĩa là một phần
quan trọng trong quan niệm cũng như tư tưởng của Tản Đà. Nói đúng hơn đó
mới là giấc mơ mà ông theo đuổi để trở thành một “Á Châu Khổng phu tử chi
đồ” chứ không phải chỉ đơn thuần là việc sáng tác thơ văn. Khi Tản Đà tuyên
bố: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng chính
là lúc ông tuyên bố nhập cuộc với vai trò là một nhà báo chứ không phải một
nhà Nho làm thơ như lối đi quen thuộc trong truyền thống
. Đây là một lựa
chọn táo bạo nhưng có chủ định của nhà thơ núi Tản sông Đà về một cách lập công danh mới trong bối cảnh xã hội mà văn chương khoa cử truyền thống đã
nhạt màu.
Người đầu tiên “phát hiện” và đánh giá cao vai trò nhà báo của Tản Đà
chính là Phan Khôi, một trong những nhà báo lớn lúc bấy giờ. Điều này càng
khẳng định vị thế và ảnh hưởng rất lớn của Tản Đà với tư cách nhà báo. Phan
Khôi cũng như một thế hệ độc giả thời bấy giờ không khỏi ngạc nhiên và trầm
trồ trước lối viết sáng tạo kiểu như “Cái chứa trong bụng thằng người” của
Tản Đà trên Đông Dương tạp chí. Ông ngạc nhiên đến mức phải thốt lên: “Anh Quỳnh anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến
thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo
” [62, 43].
Tài viết báo của Nguyễn Khắc Hiếu khiến Phan Khôi “như muốn
nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa”. Phan Khôi còn khâm
phục tài làm báo của Tản Đà ở chỗ, nhiều bài báo ông viết cho Hữu Thanh bị
kiểm duyệt, không được đăng. Còn Tản Đà thì khéo léo hơn nên đều đã “trót
lọt”… Điều này cho thấy một chân dung nhà báo Tản Đà lúc ấy, tuy mới xuất
hiện, nhưng đã có tiếng tăm lẫy lừng và được đông đảo độc giả đón nhận.
Tiếp nối Phan Khôi, ngoài việc đề cao tài thơ Tản Đà, Trương Tửu trong
bài “Sự thai nghén một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu” cũng cho rằng,
với hoài bão hành đạo, Tản Đà đã bước ra làm báo. Nhưng rồi lần lượt với
Hữu Thanh, An Nam tạp chí… ông đều đã thất bại. Nguyên nhân của sự thất
bại ấy, theo Trương Tửu, không phải do Tản Đà “không quen với nghiệp
doanh thương” mà bởi một căn nguyên sâu xa hơn: Tinh thần lập đức và tính
chất hành đạo của Tản Đà. Cả hai điều đó đều bắt nguồn trong di truyền và
trong cái giáo dục Nho phong mà Tản Đà đã thụ hưởng từ thủa lọt lòng
. Đây
là một nhận định rất thấu đáo và nêu được đúng bản chất nhà Nho trong con
người nhà báo Tản Đà - nó chính là lời giải cho lý do vì sao Tản Đà, từ chỗ xông xáo, hăng hái đến chỗ phải vật lộn rồi mỏi mệt với báo chí, cuối cùng
phải chấp nhận thất bại trong cay đắng.
Nguyễn Danh Kế trong lời giới thiệu Tản Đà vận văn của nhà xuất bản
Hương Sơn (tháng 11/1944) cũng hết lời ca ngợi ngòi bút của nhà báo Tản
Đà. Ông cho rằng, những bài viết của Tản Đà ở Hữu Thanh tạp chí và An
Nam tạp chí là những bài nghị luận về các vấn đề hiện đại và những vấn đề
đạo đức, luân lý, dịch thuật những văn hay lẽ phải ở các sách Nho rất có ích
cho nhân tâm thế đạo
. Nguyễn Danh Kế nhấn mạnh: “Vì số đông người xem
quốc văn chỉ là xem để giải trí, cho nên những món ấy chưa dễ đã dám sưu
tập lại xuất bản ra. Nhưng ta phải biết ảnh hưởng của tiên sinh ở đương thời
trong phong hóa nước nhà thật là to lớn sâu xa lắm”.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều nghiên cứu cũng tiếp tục nhìn nhận và
đánh giá nhiều bình diện khác nhau ở chân dung nhà báo Tản Đà. Nghiên cứu
được xem là đầy đủ nhất về cuộc đời làm báo của Tản Đà lúc này chính là
Tập 3 trong cuốn Tản Đà toàn tập của người hậu duệ của ông - nhà nghiên
cứu Nguyễn Khắc Xương. Tuy nhiên, ngoài những nhận định khái quát ban
đầu về việc khẳng định Tản Đà với vai trò chủ báo và ký giả, cuốn sách cũng
chỉ là một tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của Tản Đà được đăng trên An Nam
tạp chí, Đông Pháp thời báo cùng những bài viết lẻ trên một số báo khác.
Trong nhiều nghiên cứu của mình, GS Trần Đình Hượu cũng khẳng định
và đề cao vai trò của Tản Đà là một nhà Nho đem văn chương bán phố
phường. Ông khẳng định, viết báo, viết văn với ý nghĩa làm một nghề nghiệp
trong xã hội là chuyện mới có đầu thế kỷ 20 ở nước ta. Trước đây trong xã
hội phong kiến, có nhiều nhà Nho suốt đời làm phú, làm thơ, có nhiều nghệ sỹ
chuyên biểu diễn nghệ thuật; triều đình có chức quan chuyên viết văn, nhưng
văn nghệ chưa tách khỏi văn thành một ngành nghệ thuật. Viết văn chưa
thành một nghề nghiệp. “Vào những năm 10 của thế kỷ này, một số người tập hợp quanh Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí viết báo, viết văn. Xã hội
coi họ làm nghề người ký giả, văn sỹ. Trong đám ký giả, văn sỹ lúc đó, có
người là cựu học, có người là tân học, thái độ chính trị, quan niệm mục đích
nghề nghiệp có khác nhau, nhưng họ đều là nhà văn, nhà báo, khác hẳn với
nhà Nho làm thơ, làm phú trước đây. Tản Đà thuộc thế hệ nhà văn, nhà báo
đầu tiên đó
” [16, 429]. Tản Đà từ một Nhà Nho mà trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp. Khi ấy, con đường đi của ông chưa phải là bình thường.
Chính cái không bình thường ấy là điều cần được đề cao và làm nên vị thế của
Tản Đà trong lịch sử văn học, báo chí lúc bấy giờ.
Tiếp nối vị ân sư của mình, PGS.TS Trần Ngọc Vương trong nhiều
nghiên cứu đã khẳng định có một sự thống nhất giữa những mâu thuẫn phức
tạp trong con người nhà văn, nhà báo Tản Đà. Từ khi Tản Đà cho in những
tác phẩm đầu tiên trên Đông Dương tạp chí (1915), văn đàn Việt Nam như rộ
lên một luồng sinh khí mới. Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, Tản Đà từ lúc
vừa xuất hiện đã gặp ngay một “nền kinh tế thị trường” trong văn chương.
“Cơn gió lạ” trên văn đàn thổi suốt trong Nam ngoài Bắc, làm dấy lên một
luồng không khí thưởng thức Tản Đà ở nhiều tầng lớp. Nhờ điều kiện giao
lưu và truyền bá văn học mới, Tản Đà là người đầu tiên trong lịch sử văn học
tìm được một lượng độc giả khổng lồ trong một thời gian kỷ lục. “Điều kiện
mới” mà PGS.TS Trần Ngọc Vương nhắc tới, chính là sự xâm nhập của báo
chí phương Tây vào Việt Nam trong giai đoạn giao thời lúc bấy giờ.
Những nghiên cứu, đánh giá trên đã khắc họa chân dung nhà báo Tản Đà
rất sinh động trên nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là
chưa có một công trình nào hệ thống hóa một cách chi tiết và rõ ràng những
chặng đường báo chí gian nan và đầy phức cảm ấy của Tản Đà
. Chính điều đó
đã gợi mở cho chúng tôi tiến hành luận văn này với những hướng nghiên cứu sâu hơn về chân dung nhà báo Tản Đà với những khắc họa đầy đủ và đậm nét
hơn.
Sáng tác của Tản Đà phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều thể loại, trên cả
địa hạt văn chương và báo chí. Các thể loại đều có những đóng góp riêng
trong vai trò khẳng định vai trò tiên phong, mở đường của Tản Đà giai đoạn
giao thời. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, chỉ xin bước đầu có những
nghiên cứu, đánh giá khái quát trên cơ sở những sáng tác quan trọng của nhà
thơ trên một số báo như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, An Nam
tạp chí và những nhận định cơ bản của các nhà nghiên cứu về Tản Đà.
Với cách tiếp cận khoa học, chúng tôi cố gắng đem đến những lý giải đầy
đủ và có sức thuyết phục, sâu sắc trong việc nhìn nhận hiện tượng Tản Đà
trong tính thống nhất giữa những mâu thuẫn, phức tạp trong nội tại của nó,
nhằm làm nổi bật quá trình phát triển có tính bước ngoặt của văn học và báo
chí giai đoạn giao thời.
Đặc biệt, đề cập đến Tản Đà với phương thức hành xử mới trước thời
cuộc - dấn thân vào địa hạt báo chí với giấc mơ xác lập công danh bằng con đường mới, về cách thức ứng xử của một cá nhân khi gia nhập một xã hội dân sự trong một giai đoạn xã hội phức tạp và nhiều biến động.
“Giấc mộng báo chí” của Tản Đà
Cùng với những “Giấc mộng con”, “Giấc mộng lớn”, Tản Đà còn có một
giấc mộng khác, rất hiện thực chứ không phải chỉ là mây gió, trăng hoa hay
những giai nhân, người đẹp nơi bồng lai tiên cảnh. Đó chính là giấc mộng báo
chí. Giấc mộng ấy chiếm hầu hết sự nghiệp sáng tác của Tản Đà và là cách để
ông mong muốn khẳng định, xác lập được vị trí xã hội mới của mình trong
bối cảnh văn chương khoa cử truyền thống đã nhạt nhòa, không còn nhiều sức
cuốn hút như trước. Việc Tản Đà dốc hết tâm sức vào báo chí cho thấy khát
vọng rất lớn cũng như ý thức khá rõ ràng của ông về vai trò, sức mạnh của
báo chí trong bối cảnh xã hội mới. Để làm sáng tỏ nhận định này, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát sự nghiệp báo chí của Tản Đà theo trục thời gian và những
biến cố lớn trong cuộc đời, nhằm làm nổi bật và hiểu rõ hơn những phức cảm
đa chiều trong tư tưởng cũng như sáng tác của Tản Đà.
Con đường làm báo của Tản Đà
Cuộc đời làm báo của Tản Đà là một hành trình có nhiều biến động, đứt
gãy. Việc tái hiện toàn bộ quá trình này sẽ cho thấy những diễn biến phức tạp
và đa chiều trong quan niệm, tư tưởng của nhà báo Tản Đà cũng như những
biến thiên mang tính tất yếu của lịch sử văn học, báo chí phương Tây trong
buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam.
Có thể khái quát chặng đường làm báo của Tản Đà theo 3 giai đoạn:
- Khởi sự (từ năm 1913-1915)
Đây là thời kỳ ngọn lửa đam mê báo chí trong ông bắt đầu hình thành và
nhen nhóm. Tản Đà có những sáng tác đầu tiên được đăng báo và nó là khởi
đầu cho những thành công và cả những thất bại của ông sau này.
Năm 1913, Tản Đà bắt đầu “bén duyên” với báo giới. Ông được Nguyễn
Văn Vĩnh - một tri thức Tây học, cũng là cái tên có tiếng trong làng báo bấy giờ mời làm cộng sự trên Đông Dương tạp chí. Những sáng tác của ông được
in thành một mục riêng Một lối văn nôm, sau đổi thành mục Tản Đà văn tập.
Những bài báo của “ký giả” Tản Đà ngay lập tức chiếm được cảm tình của
độc giả, tên tuổi của ông nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn.
Năm 1915, Tản Đà lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một người tri
huyện ở Hà Đông. Những tác phẩm của ông trên Đông Dương tạp chí vẫn
tiếp tục là một “hiện tượng” và Tản Đà nhanh chóng có một lượng lớn độc giả
hâm mộ.
Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông
Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên
nghiệp.
Cần nói thêm rằng quyết định này xuất phát từ một sự kiện trong cuộc
đời ông, đó là năm 1916, anh cả Nguyễn Tái Tích mất. Tản Đà mất đi chỗ dựa
cả về vật chất và tinh thần, trong khi ông lại gánh trên vai trách nhiệm gia
đình với vợ con. Tản Đà khi ấy bắt đầu phải tự ý thức rằng mình cần phải
kiếm sống. Và tất nhiên, như một điều không thể khác, cái “cần câu cơm
cơm” của Tản Đà chính là ngòi bút. Tản Đà đến với báo chí trong hoàn cảnh
đó và nó như một con đường đã được vạch sẵn. Tản Đà dường như không có
sự lựa chọn nào khác. Ông đã dấn thân vào nó với một khát vọng, niềm đam
mê vô tận của một người cầm bút.
Ngược dòng thời gian một chút, Tản Đà hỏng khoa thi năm 1912, khi ấy
ông mới 23 tuổi. Đó là cái tuổi còn rất trẻ để tiếp tục sự nghiệp thi thố, học
hành để lập thân, thành danh bằng con đường khoa cử. Nhưng lúc bấy giờ,
khoa cử truyền thống cũng đã trở nên bèo bọt. Dư âm của cái cũ vẫn còn
nhưng sức hấp dẫn của cái mới, của những luồng tư tưởng, văn hóa mới thâm
nhập từ phương Tây cũng rất mạnh nên Tản Đà mới bộc lộ một thái độ ỡm ờ
với lối nói úp úp mở mở rất… Tản Đà:
“Rủ nhau quang gánh với đời
Mà cho thiên hạ chê cười cũng hay”.
“Chê cười” là vì chắc chắn có người dèm pha cách ông đi trái với con
đường cũ. Nhưng cũng có người hưởng ứng, nên mới có chuyện “rủ nhau”, và
nó hẳn là một thứ có ý nghĩa tích cực và có danh giá nên mới nói là “quang
gánh với đời”, nên “chê cười” mà… vẫn hay.
Hay cách nói ngông nghênh:
“Còn trời, còn đất, còn non nước
Còn có văn chương bán phố phường”
Cũng biểu hiện một thái độ muốn thi thố, muốn thể hiện tài năng của
mình ở một lĩnh vực mới và rõ ràng ông ý thức rất rõ được tài năng của mình
nên mới dùng những mệnh đề so sánh rất lớn lao như: Còn trời/Còn đất/Còn
non nước để đối với “Còn có văn chương bán phố phường”. Thế mới thấy văn
chương trong cách nghĩ của Tản Đà không hề bèo bọt mà rất có giá và có một
sức sống, sức mạnh nhất định, ngay cả khi vật đổi sao đời, đặt trong bối cảnh
lúc bấy giờ là những biến thiên của bối cảnh xã hội nhiều biến động.
Giấc mộng báo chí của Tản Đà rõ ràng không phải chỉ là ước mong có
một chiếc cần câu cơm. Hơn thế, nó là mộng ước được khẳng định mình bằng
một thái độ tự tin và tự hào về tài năng của bản thân. Đó là lý do vì sao sau
này, ông khước từ lời mời cộng tác của Nguyễn Văn Vĩnh cho tờ Trung Bắc
Tân văn - hành động mà nhiều người cho là gàn, dở, nhưng thực chất là họ
chưa có đủ “trình độ” để hiểu ông. Nguyễn Văn Vĩnh yêu cầu Tản Đà viết
mỗi tháng 4 bài xã thuyết, 4 bài thơ. Tiền nhuận bút mỗi bài xã thuyết là mười
lăm đồng, mỗi bài thơ là mười đồng. Số tiền ấy với cảnh túng quẫn của Tản
Đà không hề nhỏ. Nhưng ông đã dứt khoát từ chối cơ hội đầy hấp dẫn ấy. Lý
do là bởi ông muốn “tự mình chủ trương một cơ quan ngôn luận”: “Cơ quan
ngôn luận đó sẽ hoàn toàn thực hành những quan niệm về văn chương, sẽ  trình bày những lý tưởng của mình noi theo với quốc dân, chứ nếu mình viết
giúp cho một cơ quan khác, thời mình chỉ là phụ thuộc vào cơ quan đó, lẽ tất
nhiên những tư tưởng, quan niệm riêng về xã hội, văn chương, sẽ không thể
làm theo như ý muốn của mình được. Vả lại ông Nguyễn Văn Vĩnh, lúc đó là
một nhà văn ra đời trước, đã có tiếng, nếu tôi viết cho tờ báo ông thời dư
luận của độc giả bên ngoài không khỏi cho tôi là đi theo để ăn cánh với ông.
Đó là một điều mà tôi kỵ nhất
”. [29,17].
- Thời kỳ vinh hiển (1916-1926)
Từ năm 1916 đến năm 1926 là những năm tháng rực rỡ và thành công
nhất của Tản Đà. Ông lao vào sáng tác, viết văn, làm báo. Năm 1915, cuốn
sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ
Khối tình con I.
Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con (cho in năm 1917)
và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần
đầu năm 1916 tại Hải Phòng).
Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản
Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn
Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng
những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau
bài phê phán tư tưởng của “Giấc mộng con”, Tản Đà thôi cộng tác với Nam
Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán
đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm. Việc Tản Đà thôi cộng tác với
Nam Phong tạp chí thể hiện rất rõ quan điểm, lập trường báo chí riêng của
ông. Tản Đà không cậy cục, không nhún nhường ai và muốn làm báo theo
cách riêng của mình. Đó không phải chỉ là nơi để ông có thể múa bút sáng tác,
thể hiện tài năng của mình mà còn là cách để ông đánh dấu, khẳng định chỗ
đứng của mình trong xã hội. Tản Đà không có quan niệm “lập thân” phải “lụy thế”, một quan niệm của thời hiện đại nhưng không phải không tồn tại ngay từ
buổi giao thời tranh tối tranh sáng với sự lập lờ giữa hai thế lực cũ và mới.
Bởi vậy, việc Phạm Quỳnh phê phán Tản Đà nghiễm nhiên là một lý do chính
đáng để Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và tìm một chỗ đứng
cho riêng mình.
Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có “Thần tiền”,
“Đàn bà Tàu” (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có “Đài gương”, “Lên sáu”
(1919), “Lên tám” (1920), thơ thì có tập “Còn chơi” (1921). Thời kỳ này ông
quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc,
Trung kỳ và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí. Đây là cơ quan ngôn luận của
“Bắc kỳ công nông thương tương tế”. Nhưng Tản Đà chỉ làm chủ bút được 6
tháng rồi từ chức vì bất đồng ý kiến với nhóm sáng lập về tôn chỉ, mục đích
của tờ báo.
Báo chí đến thời của Tản Đà nở rộ với nhiều xu hướng, quan điểm và
cách thức tồn tại riêng. Có thể chia những người làm báo thời này làm ba
dạng. Một là những người chủ trương dùng báo chí để làm cách mạng như
Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng. Hai là những người làm báo dưới sự
quản lý, điều hành của thực dân Pháp, thực chất là ôm chân chính quyền, xu
nịnh để được lợi. Ba là những người làm báo kiểu Tản Đà. Tức là những
người không thành danh trên con đường học hành, khoa cử nhưng lại ý thức
rất rõ về tài năng của mình và coi nó như một con đường để lập công danh,
ghi dấu tên tuổi của mình bằng sự nghiệp báo chí
.
Tương ứng với 3 loại người làm báo đó là 3 loại hình báo chí: Báo chí tư nhân, báo chí chính thống của chính quyền thực dân Pháp và báo chí của các hội, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội mà “Bắc kỳ công nông thương tương tế” và Hữu Thanh tạp chí như vừa kể trên là một ví dụ. Nhưng rõ ràng, Tản Đà chỉ có thể làm ở một tờ báo phi chính trị hóa, tức là không chịu ảnh hưởng, tác động của những quan điểm chính trị - xã hội nào.
Mặt khác, Tản Đà, một mặt nhận thấy rõ những ưu
điểm, những thành tựu của xã hội Âu Mỹ nhưng ông không chủ trương hợp
tác với Pháp, không dùng báo chí để xu nịnh, ve vuốt theo những toan tính
của chính quyền thực dân. Tính cách Tản Đà cũng như con đường báo chí mà
ông lựa chọn là hoàn toàn khác với những tờ báo đương thời, bởi vậy những
bất đồng quan điểm của Tản Đà với Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh tạp chí
như trên là điều hoàn toàn dễ hiểu. Và do đó, sự ra đời của An Nam tạp chí
sau này cũng chính là cách để Tản Đà chứng tỏ và khẳng định rõ ràng hơn
quan điểm, cách thức làm báo mà ông lựa chọn cho riêng mình trong thời
điểm nhiều biến động xã hội lúc bấy giờ.
Năm 1922, Tản Đà thành lập “Tản Đà thư điếm” (sau đổi thành “Tản Đà
thư cục”), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây, đã xuất và tái
bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; “Tản Đà tùng
văn” (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện “Thề Non Nước”, 1922);
“Truyện thế gian” tập I và II (1922), “Trần ai tri kỷ” (1924), “Quốc sử huấn
nông (1924), và tập “Thơ Tản Đà” (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất
bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tự Thuật. Những thư điếm, thư cục, ấn
quán… thời kỳ này cũng nở rộ và là nơi khai sinh ra nhiều tác phẩm văn học
nghệ thuật có giá trị. Sự ra đời của nhà xuất bản cũng như báo chí ở giai đoạn
này, đóng vai trò là bà đỡ cho hầu hết các tác phẩm văn học và có vai trò quan
trọng trong quá trình hiện đại hóa văn học buổi giao thời.
Sự chia tay với Hữu Thanh tạp chí đã khiến Tản Đà nghĩ đến việc phải
thành lập một tờ báo của riêng mình. Đó sẽ là nơi ông thể hiện được lý tưởng,
chí nguyện của mình với sự nghiệp làm báo. Tháng 7/1926, Tản Đà cho ra đời
An Nam tạp chí số đầu tiên, tòa soạn ở phố Hàng Lọng.
- Từ khi “An Nam tạp chí” ra đời đến năm Tản Đà mất (1939)
Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã
bắt đầu quãng đời lận đận của ông. Đây là tờ báo gắn với sự nghiệp của Tản
Đà, đồng thời chiếm nhiều trang, nhiều bài viết nhất trong sự nghiệp báo chí
của nhà thơ. Trong điều kiện mới, An Nam tạp chí chính là phương tiện để
Tản Đà thực hiện lý tưởng lớn lao của mình với đất nước, điều mà ông đã
không thể làm được khi không thành danh bằng khoa cử. Bởi vậy mà năm
1927, khi lãnh tụ Nguyễn Thái Học của Việt Nam quốc dân Đảng đến bàn với
ông về việc dùng An Nam tạp chí như một cơ quan ngôn luận để đấu tranh và
tuyên truyền, ông đã vui vẻ chấp nhận không điều kiện. Nhưng rồi, bản giao
kèo mà Nguyễn Thái Học đưa ra đã vô tình chạm vào lòng tự ái của Tản Đà,
nên việc lớn đã không thành. Nhiều người tỏ ra tiếc nuối về điều này, nhưng
thực chất, đó là điều không thể tránh khỏi khi tính tình và phong cách của Tản
Đà và Nguyễn Thái Học là hoàn toàn khác nhau: một bên làm việc tùy hứng,
một bên theo đường lối chủ trương.
Ngoài An Nam tạp chí, Tản Đà còn cộng tác với nhiều báo khác như:
Đông Pháp thời báo, Sống, Văn học tạp chí, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thanh Nghệ
Tĩnh, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm…
Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu đi sâu vào mối quan hệ giữa Tản Đà và An Nam tạp chí.
Nhìn lại toàn bộ hành trình làm báo của Tản Đà, có thể thấy ông vẫn
mang nặng phong cách của một nhà Nho làm báo. Chính điều này đã tạo nên
một Tản Đà - ký giả không giống ai và con đường làm báo của ông cũng lênh
đênh, lận đận với không ít những ba đào
. Với vai trò một ký giả, ông mang
trong mình nhiều hoài bão to lớn về việc dùng báo chí để gánh vác những sứ
mệnh to lớn của quốc dân. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, báo chí giống
như một cứu cánh, một luồng gió mới mát lành để Tản Đà có thể thỏa sức vẫy
vùng và bày tỏ những quan niệm cá nhân, những thái độ xã hội của mình,
điều mà trước đây các nhà Nho vẫn thường phải giấu vào trong hoặc ẩn ý trong những câu thơ, những hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng. Với báo
chí, Tản Đà giống như một con người được nói và phải nói hết những cá tính,
những tâm sự thời cuộc trước những điều mắt thấy tai nghe. Đó là một lợi thế
của báo chí so với các loại hình văn chương trước đây. Tản Đà ý thức rõ được
điều đó và muốn sử dụng sức mạnh của báo chí như một “cơ quan tiến thủ
của quốc dân” - cách ông vẫn thường nói về báo chí trong hầu hết những bài
viết của mình
.
Tuy nhiên, con đường làm báo với Tản Đà cũng chính là hành trình trải
nghiệm với chính bản thân ông. Những vấp ngã, những hạn chế mang tính đặc
định của lịch sử và của chính bản thân ông, thực ra, là không thể tránh khỏi.
Dễ hiểu tại sao từ một ký giả với những háo hức, mê say thủa ban đầu dần
dần thay vào đó là những trầm lắng, suy tư và những khoảng lặng mang tính
trải nghiệm về nghề báo, về cuộc đời. Tuy nhiên, ngọn lửa nhiệt huyết của
ông với báo chí, cho đến tận cuối đời, vẫn chưa bao giờ tắt. Một tờ báo ra đời
rồi lại liên tiếp đình bản đến 6 lần trong vòng 8 năm đủ thấy những khó khăn
và cả những nỗ lực lớn lao của Tản Đà trong việc gây dựng một tờ báo với
những quan niệm của riêng mình, do mình làm chủ và đi theo những đường
hướng, tiêu chí của riêng mình. Tuy nhiên, có một điều cần nhấn mạnh rằng,
ở bất kỳ thời nào, mục đích cũng như tiêu chí hoạt động của một tờ báo cũng
chịu những ảnh hưởng, những tác động nhất định của xã hội và phản ảnh
những quan niệm xã hội nhất định của thời ấy
. An Nam tạp chí của Tản Đà
cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Bởi thế, Tản Đà không thể lái con thuyền
báo chí của mình đi ngược dòng. Ông như một người độc hành với con
thuyền độc mộc mải miết ngụp lặn giữa biển khơi mênh mông, mong tìm
được một ngọn hải đăng để dẫn dắt mình đi đến một bến bờ. Người thuyền
trưởng ấy, cuối cùng, đã không thể đi đến tận cùng con đường của mình. Ông
đã bị mắc cạn, không chỉ một mà rất nhiều lần, và cuối cùng đành phải ôm mộng bỏ dở giữa chừng. Nhưng ông vẫn là người có một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc khai phá, mở mang một con đường mới, một cách đi mới.
Những trải nghiệm báo chí của ông với nhiều thác ghềnh, giông bão đã cho
những người cùng thời với ông và những người đi sau bài học cần thiết để
trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cho nghề báo. Sự thất bại của Tản
Đà là một thất bại đau xót của cả một cuộc đời đắm mình trong nghề nhưng
đến cuối đời vẫn không thể hiểu vì sao mình lại thất bại. Nhưng nó chính là
tấm gương phản chiếu của thời đại, của lịch sử để người làm báo thời sau có
thể soi vào và nhận ra đâu là con đường đúng đắn nhất.
Báo chí mang đến cho Tản Đà nhiều thứ nhưng cũng lấy đi của ông nhiều
điều. Tuy nhiên, so sánh được - mất ở đây thực chất chỉ có ý nghĩa là những
đánh giá cảm quan. Bởi với một người đã nặng gánh văn chương, “Chữ nghĩa
Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” thì những đong
đếm ấy không nằm trong suy nghĩ của ông. Mới nghe, cứ ngỡ Tản Đà khiêm
nhường, hạ thấp mình. Nhưng thực tình, đó là cách nói ngạo nghễ rất Tản
Đà. Cách nói “Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang” cũng là cách ông tự phụ,
hơn người bởi vốn chữ nghĩa, hiểu biết và năng lực của mình. Ông ý thức rất
rõ về điều đó và bởi vậy, “Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” cũng là cái
mộng lớn của ông về con đường mới mà ông tự hào là người tiên phong - nên
mới có chữ dùng là “phá nghiệp”. Bản thân chữ “nghiệp” đã cho thấy giấc
mộng của ông không hề nhỏ và “xoàng” như ông đã nói. Điều ông thực sự
trăn trở, quan tâm và ngày đêm suy tư là làm sao gây dựng được một tờ báo
theo những đường hướng, tôn chỉ, mục đích của riêng mình.
Cuộc đời làm báo của Tản Đà được tái hiện khá đầy đủ qua câu chuyện
của những người đương thời với ông, cũng là những bạn văn hoặc những văn
sỹ- ký giả trưởng thành từ sự dẫn dắt và ảnh hưởng của Tản Đà. Đó là những
ghi chép, những hồi ký lượm lặt nhưng lại cho thấy bức tranh khá chân thực về hành trình làm báo đầy vất vả, long đong của ký giả Tản Đà khi ông chủ
trương xây dựng một cơ quan ngôn luận riêng của mình - An Nam tạp chí
trong buổi đầu báo chí vào Việt Nam.
Việc Tản Đà quyết định “bỏ bút lông cầm bút sắt” và trở thành một ký
giả lúc bấy giờ là một hiện tượng lạ, một sự va đập mạnh với lối đi truyền
thống, trong khi chính ông cũng là một con nòi của nền cựu học. Bởi vậy,
không mấy ngạc nhiên khi “hiện tượng Tản Đà” trở thành tâm điểm chú ý lúc
bấy giờ với những việc làm “không giống ai”. Có thể thấy điều đó qua lời kể
của Lưu Trọng Lư trong hồi ký “Bây giờ đây, khi nắp quan tài đã đậy lại”:
“Năm 1932, tôi ra Hà Nội học. Một hôm đi qua phố Hàng Da, tôi thấy có
bảng treo mấy chữ: An Nam tạp chí. Tôi thường được nghe người ta nói đến
cái ông chủ nhiệm dị thường của tờ tạp chí khác đời ấy”. Lúc bấy giờ, Tản
Đà được Lưu Trọng Lư coi như “một vị sứ giời sai xuống, hay là bị đày
xuống cõi trần gian để làm một anh nhà nho ngông, một nhà thi sĩ nghèo, một
ông chủ báo phiêu bạt, làm cái ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, mà khắp trần
gian đều khét tiếng” [62, 35]. Chỉ qua mấy dòng ngắn ngủi ấy thôi cũng thấy
tiếng tăm của Tản Đà khi ấy lừng lẫy như cồn. Nhưng ông chủ báo Nguyễn
Khắc Hiếu cũng nổi tiếng với lắm sự lôi thôi, rắc rối với cung cách làm báo
ngật ngưỡng, chẳng giống ai. Vậy nên mới có chuyện chàng thi sĩ Lưu Trọng
Lư đợi để “yết kiến” ông chủ báo mà 8 giờ sáng thì ông đang ngủ. Mười giờ
trở lại, thi sĩ núi Tản sông Đà vẫn chưa dậy. Mười một giờ, ông vẫn còn giấc.
Hai rưỡi chiều, Tản Đà mới dậy và ngồi vào chiếu rượu. Bốn giờ chiều, ông
mới hạ đũa. Cả ngày chuếnh choáng với hơi rượu, đến đêm ông mới chong
đèn viết báo. Nhưng cũng có khi, vì rượu mà An Nam tạp chí cũng chẳng có
bài để in. Cái cung cách làm báo tùy tiện, tùy hứng ấy chịu ảnh hưởng thâm
căn cố đế từ chính cốt lõi nhà Nho trong con người ông. Và nó hoàn toàn trái
ngược với phong cách làm báo từ nơi khởi nguyên của báo chí là phương Tây
. Mặt khác, buổi đầu của báo chí phương Tây chính là tin tức. Và bản chất của
báo chí cũng chính là tin tức. Nhưng khi vào nước ta, gặp một đội ngũ những
nhà Nho chuyên làm văn như Tản Đà, nó được tiếp nhận theo một lối khác
nên tính tin tức đã giảm đi và tính văn học đã được tăng lên, hình thành một
đội ngũ những người làm báo văn nghệ. Đó chính là đặc điểm nổi bật của báo
chí trong buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20
.
Quãng đời làm báo lận đận của Tản Đà còn được kể lại qua hồi ký “Tản
Đà ở Nam Kỳ” của Ngô Tất Tố
. Với nỗi đau vì sự thất bại của An Nam tạp
chí ở phố Hàng Lọng, Hà Nội, Tản Đà khăn gói vào Nam để ôm mộng gây
dựng An Nam tạp chí ở trong Nam, những mong môi trường mới có phần dân
chủ và rộng mở hơn nơi đây có thể giúp ông thực hiện được mộng ước của
mình. Nhưng Tản Đà đã lầm. Ty kiểm duyệt trong ấy đã không nhận kiểm
duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư trong
đó. Vậy là Tản Đà lại phải cùng với thầy đồ Ngô làm trợ bút cho mục văn
chương của Đông Pháp thời báo do Diệp Văn Kỳ phụ trách.
Càng những năm cuối đời, Tản Đà càng trở nên lạc lõng giữa cuộc đời và
giấc mơ của ông cũng càng trở nên xa vời. Ông phải xoay đủ nghề để kiếm
sống và từ một người nổi danh tài tử, ngông nghênh, ông quay dần về với mô
hình đạo đức truyền thống. Tản Đà mở lớp Hán văn diễn giảng và Quốc văn
hàm thụ, quảng cáo Hà lạc lý số (trên báo Ngày Nay) và tiếp tục dịch thơ
Đường với món nhuận bút bèo bọt là 5 đồng bạc. “Hễ ra báo, thấy có bài của
mình, tiên sinh liền đến ngay tòa soạn. Khái Hưng cấp cho tiên sinh một
phiếu xuất, tiên sinh cầm đến quỹ lãnh tiền. Đó là theo nguyên tắc. Song nào
phải đến là nhận được ngay phiếu, lãnh được ngay tiền. Có khi tiên sinh phải
chờ hàng giờ nơi phòng đợi hoặc trước cửa quỹ!” [62, 107].
Tản Đà và An Nam tạp chí
An Nam tạp chí ra đời năm 1926. Đây là tờ báo ông gửi gắm rất nhiều
hoài bão. Nó thể hiện tập trung nhất những đặc điểm, quan niệm báo chí của
ký giả Tản Đà. Nó cũng bộc lộ rất rõ ràng những hạn chế của một nhà Nho
làm báo. Tờ báo có một đời sống rất lận đận. Chỉ trong vòng 8 năm, nó đã bị
đình bản tới 6 lần. Điều này cho thấy những bế tắc của ký giả Tản Đà trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong những quãng thời gian tồn tại
ngắn ngủi, đứt quãng, tờ báo vẫn chiếm được một vị trí nhất định trong lòng
độc giả và sự tồn tại của nó có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển
của lịch sử báo chí nước nhà
. Có thể nói, đây là một giai đoạn quá độ của báo
chí trong bối cảnh xã hội chuyển từ xã hội cũ sang xã hội mới, với sự xâm
nhập của những luồng văn hóa, tư tưởng mới từ Phương Tây.
Có thể tóm tắt quá trình phát triển lận đận của Tản Đà cùng An Nam tạp
chí như sau:
1/7/1926, An Nam tạp chí ra số đầu tiên tại phố Hàng Lọng, Hà Nội, khi
Tản Đà 38 tuổi. Có thể thấy rõ quyết tâm cũng như khí thế hừng hực của ông
chủ bút trong những ngày đầu An Nam tạp chí ra mắt:
Non sông thề với hai vai
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son
Dư đồ rách nước non tô lại
Đồng bào xa trai gái kêu lên
Doanh hoàn là cuộc đua chen
Rồng tiên phải giống ngu hèn mà cam (Xuân sầu)
38 tuổi, sau biết bao vất vả, long đong với vai trò cộng tác với các tờ báo,
Tản Đà thỏa chí nguyện khi lập được tờ báo của riêng mình. Bởi vậy, dễ hiểu
vì sao bài thơ lại có giọng phấn khởi, hào hứng và hân hoan đến vậy. /.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét